Các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ có giãn não thất bên của thai nhi

Đánh giá các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ có giãn não thất bên của thai nhi từ tháng 9/2015 đến

tháng 12/2017 tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc 300 trường hợp giãn não

thất thai nhi tại Trung tâm Chẩn Đoán Trước Sinh Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. 149 trường hợp tiếp tục thai

kỳ được theo dõi tại trung tâm, đẻ ở bất kỳ trung tâm y tế nào tuy nhiên các thông số: tuổi thai khi đẻ, chỉ số

Apgar, cân nặng và vòng đầu được ghi nhận. Tại thời điểm 3 tháng tuổi trẻ được đánh giá các thông số: vòng

đầu, kích thước não thất và các bất thường khác, thực hiện test Denver II tại Trung tâm Chẩn đoán trước sinh.

Kết quả cho thấy tỷ lệ đình chỉ thai nghén 50,3%, tiếp tục thai kỳ 49,7%. Tỷ lệ đẻ non 10,7%, ngạt 12,1%, trẻ sơ

sinh nhẹ cân 10,2%, trẻ có vòng đầu to 10,2%. Tỷ lệ chết sơ sinh 4,8%. Tỷ lệ trẻ có kích thước não thất sau đẻ

1-3 tháng bình thường 44,3% và vẫn giãn não thất 55,7%. Tiến triển của kích thước não thất sau đẻ cải thiện,

không thay đổi và tăng lần lượt là: 58,6%, 37,1%, 8,6%. Tỷ lệ trẻ phát triển tâm thần vận động bình thường trong

nhóm giãn não thất đơn độc, phối hợp, giãn nhẹ hoặc vừa, nặng lần lượt là: 83,7%, 90,5%, 89,1%, 73,3%. Các

yếu tố trước sinh như giãn phối hợp, giãn nặng, tuổi thai tại thời điểm phát hiện trước 29 tuần, tiến triển kích

thước não thất trong tử cung tăng là những yếu tố nguy cơ của đình chỉ thai nghén. Nguyên nhân, mức độ giãn

và tiến triển của kích thước não thất trong tử cung liên quan đế các thông số kết quả thai kỳ tại thời điểm đẻ

pdf 11 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ có giãn não thất bên của thai nhi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ có giãn não thất bên của thai nhi

Các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ có giãn não thất bên của thai nhi
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
71TCNCYH 123 (7) - 2019
Tác giả liên hệ: Ngô Văn Toàn,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 16/09/2019
Ngày được chấp nhận: 02/11/2019
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ THAI KỲ CÓ GIÃN 
NÃO THẤT BÊN CỦA THAI NHI 
Trần Thị Sơn Trà¹, Trần Danh Cường², Ngô Văn Toàn³, Đặng Phương Thúy²
¹Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam Cuba- Đồng Hới, ²Bệnh viện Phụ Sản Trung ương,
 ³Trường Đại Học Y Hà Nội
Đánh giá các yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ có giãn não thất bên của thai nhi từ tháng 9/2015 đến 
tháng 12/2017 tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc 300 trường hợp giãn não 
thất thai nhi tại Trung tâm Chẩn Đoán Trước Sinh Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương. 149 trường hợp tiếp tục thai 
kỳ được theo dõi tại trung tâm, đẻ ở bất kỳ trung tâm y tế nào tuy nhiên các thông số: tuổi thai khi đẻ, chỉ số 
Apgar, cân nặng và vòng đầu được ghi nhận. Tại thời điểm 3 tháng tuổi trẻ được đánh giá các thông số: vòng 
đầu, kích thước não thất và các bất thường khác, thực hiện test Denver II tại Trung tâm Chẩn đoán trước sinh. 
Kết quả cho thấy tỷ lệ đình chỉ thai nghén 50,3%, tiếp tục thai kỳ 49,7%. Tỷ lệ đẻ non 10,7%, ngạt 12,1%, trẻ sơ 
sinh nhẹ cân 10,2%, trẻ có vòng đầu to 10,2%. Tỷ lệ chết sơ sinh 4,8%. Tỷ lệ trẻ có kích thước não thất sau đẻ 
1-3 tháng bình thường 44,3% và vẫn giãn não thất 55,7%. Tiến triển của kích thước não thất sau đẻ cải thiện, 
không thay đổi và tăng lần lượt là: 58,6%, 37,1%, 8,6%. Tỷ lệ trẻ phát triển tâm thần vận động bình thường trong 
nhóm giãn não thất đơn độc, phối hợp, giãn nhẹ hoặc vừa, nặng lần lượt là: 83,7%, 90,5%, 89,1%, 73,3%. Các 
yếu tố trước sinh như giãn phối hợp, giãn nặng, tuổi thai tại thời điểm phát hiện trước 29 tuần, tiến triển kích 
thước não thất trong tử cung tăng là những yếu tố nguy cơ của đình chỉ thai nghén. Nguyên nhân, mức độ giãn 
và tiến triển của kích thước não thất trong tử cung liên quan đế các thông số kết quả thai kỳ tại thời điểm đẻ. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giãn não thất thai nhi xuất hiện ở 1,5 trong 
1000 ca đẻ, được xác định khi kích thước của 
buồng não thất bên ≥ 10mm [1]. Sự giãn rộng 
của não thất bên là một dấu hiệu siêu âm bất 
thường chung gây ra bởi một số cơ chế bệnh 
sinh và mang đến những tiên lượng khác nhau. 
Nguyên nhân chính của giãn não thất là hẹp 
cống não, hội chứng Chiari II, bất sản thể trai, 
Dandy- Walker [2]. 
Giãn não thất thường được phát hiện dễ 
dàng khi thực hiện siêu âm hình thái quý hai tuy 
nhiên việc tìm nguyên nhân lại rất khó khăn và 
nhiều khi không thể thực hiện được trước sinh. 
Tiên lượng của giãn não thất thai nhi nghèo 
nàn và chủ yếu phụ thuộc vào sự hiện diện của 
các bất thường đi kèm, bên cạnh đó cũng phụ 
thuộc mức độ giãn và tiến triển của kích thước 
não thất trong tử cung. Đối với các trường 
hợp xác định được nguyên nhân hoặc những 
trường hợp giãn mức độ nặng hoặc có tiến 
triển nặng lên khi theo dõi, thường có kết quả 
thai kỳ không tốt như: tăng mức đình chỉ thai 
nghén, tăng tỷ lệ chết chu sinh, sơ sinh, nhũ 
nhi cũng như tăng tỷ lệ trẻ chậm phát triển tâm 
thần vận động [3 - 5]. Đối với các trường hợp 
không xác định được nguyên nhân giãn não 
thất trước sinh, có một khoảng thay đổi rất rộng 
Từ khóa: giãn não thất thai nhi, chẩn đoán trước sinh, kết quả thai kỳ, phát triển tâm thần vận động
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
72 TCNCYH 123 (7) - 2019
trong tiên đoán hậu quả của trẻ. Hầu hết những 
trẻ có chẩn đoán trước sinh giãn não thất đơn 
độc mức độ nhẹ thậm chí mức độ vừa sẽ có dư 
hậu bình thường [6 - 8]. Vì vậy, nhiều nghiên 
cứu cho rằng giãn nhẹ đơn độc là một biến thể 
bình thường liên quan đến kết quả bình thường 
của trẻ. Tuy nhiên, giãn não thất đơn độc cũng 
có thể được gây ra bởi một loạt các rối loạn dẫn 
đến suy giảm thần kinh vận động và có thể suy 
giảm nhận thức. Mặt khác, chẩn đoán trước 
sinh giãn não thất đơn độc nhưng thực sự có 
đơn độc hay không? Vì vậy tiên đoán hậu quả 
của trẻ vẫn là vấn đề gặp rất nhiều khó khăn. 
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu đánh giá 
sơ bộ kết quả thai kỳ của 300 trường hợp giãn 
não thất thai nhi mà chúng tôi theo dõi được.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu bắt đầu từ tháng 9/2015 đến 
tháng 12/2017 tại Trung tâm Chẩn đoán trước 
sinh Bênh viện Phụ Sản Trung ương. Chúng tôi 
ghi nhận 401 trường hợp giãn não thất, trong 
đó 300 trường hợp đủ tiêu chuẩn chọn vào 
nghiên cứu: một thai, tuổi thai ≥ 20 tuần, kích 
thước của ít nhất một não thất bên ≥ 10mm, có 
đầy đủ thông tin cho đến kết thúc nghiên cứu. 
Số đo của cả hai não thất được thực hiện theo 
hướng dẫn của ISUOG 2007 với ba tiêu chuẩn 
sau: (1) mặt cắt đo não thất bên ngang mức 
cuộn đám rối mạch mạc; (2) thước đo vuông 
góc với thành não thất, tại vị trí đối diện với rãnh 
đỉnh chẩm hoặc nơi to nhất của não thất bên; 
(3) vị trí đặt con trỏ phía trong âm vang thành 
não thất sao cho mép ngoài của thanh ngang 
con trỏ chạm vào mép trong thành não thất. [9]
Hình 1. a. Cách đo đường kính não thất bên. b. Vị trí đặt con trỏ [9]
Giãn não thất đơn độc được xác định khi 
không có bất thường đi kèm trong lần chẩn 
đoán đầu tiên, giãn não thất phối hợp khi có ít 
nhất một bất thường đi kèm. Kích thước não 
thất được phân chia thành ba mức độ giãn 
khác nhau: giãn nhẹ (10 - 12mm), giãn vừa 
(12,1 - 14,9mm) và giãn nặng ( ≥ 15mm). Tiến 
triển của kích thước não thất trong tử cung: 
giảm (kích thước não thất giảm ≥ 2mm), không 
thay đổi (khi kích thước não thất thay đổi trong 
khoảng nhỏ hơn 2mm) và tăng (khi thước não 
thất tăng ≥ 2mm). Trong 300 trường hợp giãn 
não thất, 151 trường hợp gia đình chọn đình chỉ 
thai nghén, 149 trường hợp chọn tiếp tục thai 
kỳ. Đình chỉ thai nghén hay tiếp tục thai kỳ do 
gia đình lựa chọn sau khi có kết luận của Hội 
đồng Chẩn đoán trước sinh Bệnh viện Phụ Sản 
Trung ương. Những trường hợp tiếp tục thai kỳ 
được theo dõi tại Trung tâm. Tại thời điểm đẻ 
các thông số sau được ghi nhận: tuổi thai khi đẻ 
(non tháng: dưới 37 tuần; đủ tháng: 37 đến 41 
tuần; già tháng: trên 42 tuần), chỉ số Apgar tại 
thời điểm 5 phút (bình thường: 7 - 10 điểm; ngạt 
0 - 6: điểm), cân nặng (bình thường: ≥ 2500g; 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
73TCNCYH 123 (7) - 2019
III. KẾT QUẢ
1. Kết quả thai kỳ của của các trường hợp giãn não thất thai nhi
Tỷ lệ đình chỉ thai nghén 50,3%, tiếp tục thai kỳ 49,7%, tỷ lệ đẻ sống 98,7% trong số tiếp tục thai 
kỳ. Tỷ lệ chết sơ sinh 4,8%. Tỷ lệ sống đến 3 tháng tuổi 95,2%.
Bảng 1: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh với kết quả thai kỳ: đình chỉ thai nghén, 
tiếp tục thai kỳ
Kết quả thai kỳ 
Các yếu tố trước sinh
Đình chỉ thai 
nghén
Tiếp tục thai kỳ
OR hiệu chỉnh 
95% CI
n % n %
Nguyên nhân
Đơn độc 27 9,0 104 34,7
Phối hợp 124 41,3 45 15,0
17,74 
(8,62 - 36,53)
Mức độ giãn
Giãn nhẹ, vừa 82 27,3 118 39,3
Nặng 69 23,0 31 10,3
10,95 
(4,30 - 27,92)
Tuổi thai phát 
hiện
< 24 61 20,3 20 6,7 1
24 - 28 52 17,3 40 13,3
0,57 
(0,24 - 1,33)
29 - 32 33 1,0 43 14,3
0,17 
(0,07 - 0,48)
≥ 33 5 1,7 46 15,3
0,004 
(0,001 - 0,02)
Trên phương trình hồi quy đa biến cho thấy: nguy cơ đình chỉ thai nghén của nhóm giãn não 
thất phối hợp cao gấp 17,12 lần so với nhóm đơn độc (95%CI: 8,62 - 36,53), mức độ giãn nặng cao 
nhẹ cân: < 2500g) và vòng đầu (bình thường 
khi chu vi đầu trong đường bách phân vị thứ 5 
đến 95, to khi chu vi đầu trên đường bách phân 
vị thứ 95, nhỏ khi chu vi đầu dưới đường bách 
phân vị thứ 5). Tất cả các trẻ được hướng dẫn 
khám chuyên khoa nhi, các thông số lần khám 
này sẽ được ghi nhận tại thời điểm trẻ tái khám. 
Thời điểm 1 - 3 tháng tuổi trẻ được kiểm tra 
tại Trung tâm Chẩn đoán trước sinh Bênh viện 
Phụ Sản Trung ương: đo vòng đầu đo vòng 
đầu, siêu âm đo kích thước não thất và khảo 
sát các bất thường hệ thần kinh trung ương, 
đánh giá phát triển tâm thần vận động của trẻ 
bằng test Denver II. Chúng tôi sử dụng Chi - 
square test (X2) được hiệu chỉnh bằng Fisher’s 
exact test khi thích hợp. Phân tích đa biến theo 
phương pháp Stepwise được áp dụng để xác 
định mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh 
với một số thông số của kết quả thai kỳ. Các 
phép kiểm định, so sánh có ý nghĩa thống kê 
khi p ≤ 0,05.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
74 TCNCYH 123 (7) - 2019
gấp 10,95 lần so với giãn nhẹ hoặc vừa (95%CI: 4,30 - 27,92) . Nguy cơ đình chỉ thai nghén trong 
nhóm tuổi thai tại thời điểm phát hiện 29 - 32 tuần và nhóm tuổi thai ≥ 33 tuần lần lượt chỉ bằng 0,17 
(95%CI: 0,07 - 0,48) và 0,004 so với nhóm tuổi 20 - 24 tuần tuổi (95%CI: 0,001 - 0,02). Như vậy, giãn 
não thất đơn độc, mức độ nặng và tuổi thai tại thời điểm phát hiện dưới 29 tuần là các yếu tố nguy 
cơ của đình chỉ thai nghén
Tại thời điểm đẻ, một trường hợp thai lưu trước khi chuyển dạ, một trường hợp hủy thai trong 
chuyển dạ. Tỷ lệ đẻ non 10,7%, ngạt 12,1%, trẻ sơ sinh nhẹ cân 10,2%, trẻ có vòng đầu to 10,2%.
2. Một số yếu tố liên quan đến kết quả thai kỳ của các trường hợp giãn não thất thai nhi
Bảng 2. Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh với tuổi thai khi đẻ
Tuổi thai lúc đẻ
Các yếu tố
 trước sinh
Non tháng
Đủ tháng, già 
tháng
OR 95% CI P
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Nguyên 
nhân 
Đơn độc 8 5,4 96 65,3
Phối hợp 8 5,4 37 25,2 2,59 0,89 - 7,54 0,069
Mức độ 
giãn:
Nhẹ+vừa và 
nặng
Giãn 
nhẹ, vừa
13 8,8 105 71,4 1
Nặng 3 2,0 28 19,0 0,87 0,23 - 3,26 0,831
Tuổi thai tại 
thời điểm 
phát hiện
20 - 24 3 2,0 17 11,6 1
24 - 28 6 4,1 34 23,1 2,9 0,65 - 13,40 0,163
29 - 32 3 2,0 40 27,2 0,42 0,08 - 2,32 0,316
≥ 33 4 2,7 2 28,6 0,54 0,11 - 2,72 0,448
Tiến triển 
trong tử 
cung
Giảm 2 1,5 63 46,0 1
Không 
thay đổi
11 8,0 45 32,8 7,70 1,52 - 38,89 0,004
Tăng 1 0,7 17 12,4 1,85 0,16 - 22,09 0,620
Tiến triển kích thước não thất trong tử cung của nhóm không thay đổi có nguy cơ đẻ non gấp 7,7 
lần nhóm giảm với OR=7,7 95%CI: 1,52-38,89.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
75TCNCYH 123 (7) - 2019
Bảng 3. Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh với tình trạng ngạt sau đẻ
Tình trạng
 ngạt sau đẻ
Các yếu tố 
trước sinh
Ngạt Bình thường
OR 95% CI P
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Nguyên 
nhân 
Đơn độc 8 5,4 95 64,6 1
Phối hợp 10 6,8 34 23,2 3,49 1,24 - 9,83 0,012
Mức độ 
giãn:
Nhẹ+vừa 
và nặng
Giãn nhẹ, 
vừa
12 8,2 104 70,7 1
Nặng 6 4,1 25 17,0 2,08 0,70 - 6,15 0,176
Tuổi thai tại 
thời điểm 
phát hiện
< 24 2 1,4 18 12,2 1
24 - 28 6 4,1 34 23,1 1,59 0,29 - 8,85 0,594
29 - 32 3 2,0 39 26,5 0,69 0,10 - 4,59 0,702
≥ 33 7 4,8 38 25,9 1,66 0,31 - 8,95 0,553
Tiến triển 
trong tử 
cung
Giảm 2 1,5 63 46,0 1
Không 
thay đổi
10 7,3 45 32,8 7 1,38 - 35,52 0,006
Tăng 2 1,5 15 10,9 4,2 0,52 - 33,61 0,141
Nguy cơ trẻ ngạt sau đẻ của nhóm giãn não thất phối hợp cao gấp 3,49 lần nhóm giãn não thất 
đơn độc với OR = 3,49 95CI:1,24 - 9,83. Nguy cơ ngạt của nhóm có kích thước não thất không thay 
đổi gấp 7 lần nhóm kích thước não thất giảm với OR = 7 95%CI: 1,38 - 35,52.
Bảng 4. Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh với cân nặng trẻ sơ sinh
Cân nặng
 của trẻ sơ sinh
Các yếu tố trước sinh
< 2500g ≥ 2500g OR 95% CI P
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Nguyên 
nhân 
Đơn độc 7 4,8 96 65,3 1
Phối hợp 8 5,4 36 24,5 3,05 1,01 - 9,19 0,037
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
76 TCNCYH 123 (7) - 2019
Cân nặng
 của trẻ sơ sinh
Các yếu tố trước sinh
< 2500g ≥ 2500g OR 95% CI P
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Mức độ giãn:
Giãn nhẹ, 
vừa
12 8,2 104 70,7 1
Nặng 3 2,0 28 19,0 0,93 0,24 - 3,53 0,914
Tuổi thai tại 
thời điểm 
phát hiện
< 24 3 2,0 17 11,6 1
24 - 28 5 3,4 35 23,8 0,81 0,17 - 3,85 0,790
29 - 32 4 2,7 38 25,9 0,59 0,12 - 3,02 0,528
≥ 33 3 2,0 42 28,6 0,40 0,07 - 2,27 0,288
Tiến triển 
trong tử 
cung
Giảm 2 1,5 63 46,0 1
Không thay 
đổi
10 7,3 45 32,8 7 1,46 - 33,50 0,015
Tăng 1 0,7 16 11,7 1,97 0,16 - 23,56 0.586
Nguy cơ trẻ sơ sinh nhẹ cân của nhóm giãn não thất phối hợp gấp 3,05 lần nhóm giãn não thất 
đơn độc với OR = 3,05 95%CI: 1,01 - 9,19. Nguy cơ trẻ nhẹ cân khi đẻ của nhóm tiến triển kích 
thước não thất trong tử cung không thay đổi gấp 7 lần nhóm giảm với OR = 7 95%CI: 1,46 - 33,50. 
Bảng 5. Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh với vòng đầu trẻ sơ sinh 
Vòng đầu
Đặc điểm
To Bình thường
OR 
95% CI
OR hiệu chỉnh 
95% CISố 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Nguyên 
nhân
Đơn độc 7 4,8 96 65,8 1
Phối hợp 8 5,5 35 24,0
3,13
(1,06 - 9,28)
1,43 
(0,27 - 7,67)
Mức độ 
giãn
Giãn nhẹ, 
vừa
3 2,1 112 76,7 1
Nặng 12 8,2 19 13,0
23,58
(4,97 - 101,81)
37,40 
(4,0 - 350,47)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
77TCNCYH 123 (7) - 2019
Vòng đầu
Đặc điểm
To Bình thường
OR 
95% CI
OR hiệu chỉnh 
95% CISố 
lượng
Tỷ lệ 
%
Số 
lượng
Tỷ lệ 
%
Tiến triển 
trong tử 
cung
Giảm, 
không 
thay đổi
4 2,9 115 84,6 1 1
Tăng 8 5,9 9 6,6
11,1
(2,30 - 53,61)
51,43 
(5,63 - 469,92)
Trên phương trình hồi quy đa biến cho thấy: 
nguy cơ vòng đầu to của nhóm giãn não thất 
nặng cao gấp 37,4 lần so với nhóm giãn nhẹ 
hoặc vừa (95%CI: 3,99-350,47), nhóm tiến triển 
của kích thước não thất trong tử cung tăng cao 
gấp 51,43 lần so với nhóm không thay đổi hoặc 
giảm ( 95%CI:5,63-469,91).
Trong 147 trẻ đẻ sống, số trẻ có chẩn đoán 
trước sinh giãn đơn độc, phối hợp, giãn nhẹ, 
vừa, nặng lần lượt là:103, 44, 74, 42, 31. Tỷ lệ 
chết sơ sinh 4,8%. Tỷ lệ trẻ sống đến 3 tháng 
95,2%. Tỷ lệ trẻ có vòng đầu to: 10%. Tỷ lệ 
trẻ có kích thước não thất sau đẻ 1 - 3 tháng 
bình thường 62/140 (44,3%) và vẫn giãn não 
thất 78/140 (55,7%). Trong đó giãn nhẹ, vừa 
và nặng lần lượt là: 28,6%, 16,4%, 10,7%. 
Tiến triển của kích thước não thất trở về bình 
thường, giảm, không thay đổi và tăng lần lượt 
là: 40%, 18,6%, 37,1%, 8,6%. 
Sau đẻ có 8 trẻ phát hiện thêm bất thường 
so với chẩn đoán trước sinh. Tỷ lệ trẻ chậm 
phát triển tâm thần vận động 10/140. Tỷ lệ trẻ 
chậm phát triển tâm thần vận động trong nhóm 
giãn đơn độc 9/103, giãn phối hợp 1/44, giãn 
nhẹ 2/74, vừa 3/42, nặng 5/31. Tỷ lệ trẻ phát 
triển tâm thần vận động bình thường trong 
nhóm giãn não thất đơn độc, phối hợp, giãn 
nhẹ hoặc vừa, nặng lần lượt là: 83,7%, 90,5%, 
89,1%, 73,3%.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ đình chỉ thai 
nghén 50,3%, tiếp tục thai kỳ 49,7%. Trong số 
tiếp tục thai kỳ tỷ lệ chết lưu 0,7% chết ngay 
sau đẻ 0,7%, tỷ lệ đẻ sống 98,7%. Tỷ lệ chết sơ 
sinh 4,8%. Tỷ lệ sống đến 3 tháng tuổi 95,2%. 
Tỷ lệ đình chỉ thai nghén trong nghiên cứu 
của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của 
Madazli và cộng sự: 51% [10]. Nghiên cứu của 
Joo và cộng sự có tỷ lệ đình chỉ thai nghén 
cao hơn: 83%. Sự khác biệt này được lý giải 
bởi số lượng bất thường đi kèm trong nghiên 
cứu của Joo rất cao (riêng bất thường ngoài hệ 
thần kinh trung ương chiếm tới 66%). Một số 
nghiên cứu khác lại có tỷ lệ đình chỉ thai nghén 
thấp hơn như: Nan Chu và cộng sự 37,8%[11], 
Ganglioti và cộng sự 37%[3], Tugcu và cộng sự 
20% [12], Kumar và cộng sự 11,8% [13]. Tỷ lệ 
đình chỉ của Kumar thấp như vậy do tác giả 
chỉ tính những trường hợp có tuổi thai trước 20 
tuần, từ sau 20 tuần tác giả xếp vào nhóm tỷ lệ 
chết ngay sau đẻ [13]. Trên phương trình hồi 
quy đa biến cho thấy: nguy cơ gia đình chọn 
đình chỉ thai nghén của nhóm giãn não thất 
phối hợp cao gấp 17,12 lần so với nhóm đơn 
độc (95%CI: 8,62 - 36,53), mức độ giãn nặng 
cao gấp 10,95 lần so với giãn nhẹ hoặc vừa 
( 95%CI: 4,30 - 27,92) . Nguy cơ đình chỉ thai 
nghén của nhóm tuổi thai tại thời điểm chẩn 
đoán từ 29 - 32 chỉ bằng 0,17 lần (với OR = 
0,17 95%CI: 0,07 - 0,48) và ≥ 33 tuần chỉ bằng 
0,004 lần so với nhóm 20 - 24 tuần tuổi ( với OR 
= 0,004 95%CI: 0,001 - 0,02). Kết luận này phù 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
78 TCNCYH 123 (7) - 2019
hợp với nghiên cứu của Joo, Tugcu, Graham E 
[12; 14; 15]. 
Tỷ lệ đẻ non 10,7%, tỷ lệ ngạt 12,1%, trẻ 
sơ sinh nhẹ cân 10,2%, trẻ có vòng đầu to 
10,2%. Tỷ lệ đẻ non trong nghiên cứu này 
10,7% cao hơn nhiều so với nghiên cứu của 
Joo: 1,56% [14]. Sự khác biệt này do nghiên 
cứu của chúng tôi bao gồm cả những trường 
hợp gia đình kiên quyết chấm dứt thai nghén 
khi đã 32 - 36 tuần tuổi mặc dù hội đồng chẩn 
đoán trước sinh không đồng ý. Những trường 
hợp này thường được khởi phát chuyển dạ tại 
tuyến huyện hoặc tuyến tỉnh và kết quả trẻ sơ 
sinh non tháng, sống. Đánh giá mối liên quan 
giữa các yếu tố trước sinh (nguyên nhân giãn, 
mức độ giãn, tuổi thai tại thời điểm phát hiện, 
tiến triển của kích thước não thất trong tử cung) 
với các thông số tại thời điểm đẻ (tuổi thai khi 
đẻ, tình trạng ngạt, trẻ nhẹ cân, trẻ có vòng đầu 
to) chúng tôi kết luận rằng: giãn não phối hợp 
làm tăng nguy cơ ngạt, nguy cơ nhẹ cân gấp 
lần lượt: 3,49 và 3,05 lần so với giãn đơn độc 
với p < 0,05; giãn nặng làm tăng nguy cơ vòng 
đầu to gấp 23,58 lần giãn nhẹ hoặc vừa với p 
< 0,001; tiến triển của kích thước não thất trong 
tử cung không thay đổi làm tăng nguy cơ đẻ 
non gấp 7,7 lần, nguy cơ ngạt gấp 7,0 lần, nguy 
cơ trẻ nhẹ cân gấp 7,0 lần nhóm giảm với p < 
0,05 ; nguy cơ trẻ sơ sinh có vòng đầu to của 
nhóm tăng cao gấp 11,1 lần nhóm không tăng 
với p < 0,001.
Tỷ lệ chết sơ sinh trong nghiên cứu chúng 
tôi 4,8% thấp hơn Kumar và cộng sự 12,6% 
nhưng cao hơn Nan Chu và cộng sự 2,7%, 
Madazli và cộng sự 2,9% [10; 11; 13]. Nghiên 
cứu của Graham có tỷ lệ chết sơ sinh cao hơn 
19,4% ( 3 trẻ chết của nhóm giãn nhẹ và 3 trẻ 
chết của nhóm giãn nặng). Tỷ lệ chết sơ sinh 
của Graham cao như vậy vì tỷ lệ bất thường đi 
kèm của mỗi nhóm đều cao. 
Tỷ lệ kích thước não thất sau đẻ trở về bình 
thường 40%. Giãn nhẹ đơn độc có kích thước 
não thất sau đẻ trở về bình thường 34/58, trong 
đó có 3 trường hợp phát hiện bất thường sau 
đẻ. Kết quả này phù hợp với Vergani P và cộng 
sự, Tugcu và cộng sự [12; 16]. Nghiên cứu của 
Tugcu cho thấy 6/21 trường hợp giãn nhẹ đơn 
độc và kích thước não thất trở về bình thường 
sau đẻ phát hiện bất thường khi khám trẻ cẩn 
thận. Tỷ lệ giãn não thất nhẹ đơn độc có kích 
thước não thất sau đẻ tăng chỉ có 3/62 phù hợp 
với nghiên cứu của Lipitz [17].
Sau đẻ có 8 trẻ phát hiện thêm bất thường 
so với chẩn đoán trước sinh. Trong đó 6 bất 
thường phát hiện trên cộng hưởng từ (MRI) 
và hai trường hợp khám lâm sàng. Bất thường 
trên MRI bao gồm: chẻ não, nang màng nhện 
6mm, teo thùy thái dương hai bên, teo thùy não 
trái, thiểu sản thể trai không hoàn toàn. Tỷ lệ 
bất thường không phát hiện được trước sinh 
là 5,7 thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của 
Tugcu: 28,5%. Trong 6 trường hợp MRI cho 
kết quả khác siêu âm chẩn đoán trước sinh 
có một trường hợp chẩn đoán giãn toàn bộ hệ 
thống não thất trong khi đó chẩn đoán trước 
sinh giãn não thất bên. Trường hợp này có thể 
tiến triển sau đẻ nặng lên chư không hẳn chẩn 
đoán trước sinh không nhận ra. Như vậy tỷ lệ 
bất thường mà MRI sau đẻ phát hiện thêm so 
với chẩn đoán trước sinh là 5/37 (13,5%) phù 
hợp với nghiên cứu của Griffiths 17% [18]. Tuy 
nhiên nghiên cứu của Ganglioty và cộng cự cho 
kết quả âm tính giả của chẩn đoán trước sinh 
thấp hơn 10% [2].
Tỷ lệ trẻ chậm phát triển tâm thần vận động 
10/140. Tỷ lệ trẻ chậm phát triển tâm thần vận 
động trong nhóm giãn đơn độc 9/103, giãn 
phối hợp 1/44, giãn nhẹ 2/74, vừa 3/42, nặng 
5/31. Tỷ lệ trẻ phát triển tâm thần vận động 
bình thường trong nhóm giãn não thất đơn độc, 
phối hợp, giãn nhẹ hoặc vừa, nặng lần lượt là: 
83,7%, 90,5,4%, 89,1%, 73,3%. Tỷ lệ trẻ có phát 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
79TCNCYH 123 (7) - 2019
triển tâm thần vận động bình thường của nhóm 
giãn đơn độc trong nghiên cứu của chúng tôi 
phù hợp với nghiên cứu của Graham và cộng 
sự 89% [15], nghiên cứu tổng quan hệ thống 
của Laskin và cộng sự 82% [19]. Theo nghiên 
cứu phân tích gộp (5 nghiên cứu đạt tiêu chuẩn 
tốt) của tác giả Sun và cộng sự năm 2018, mức 
dự đoán phát triển hệ thần kinh tốt là: 88% ở 
nhóm giãn nhẹ, 57% ở nhóm giãn trung bình, 
36% ở nhóm giãn nặng, 86% ở nhóm giãn đơn 
độc và 58% nhóm giãn không đơn độc. Sun kết 
luận rằng: tiên lượng của giãn não thất nhẹ tốt 
hơn trung bình và nặng, giãn đơn độc tốt hơn 
không đơn độc. giãn não thất có thể kết hợp 
với bất thường nhiễm sắc thể hoặc nhiễm trùng 
thai [20].
Điểm còn hạn chế của nghiên cứu là MRI 
thai nhi chỉ được chỉ định rất ít bởi giới hạn 
của kỹ thuật này tại thời điểm nghiên cứu thực 
hiện. MRI rất có giá trị trong đánh giá các bất 
thường của hệ thần kinh trung ương trong giãn 
não thất. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành số liệu 
MRI mới được triển khai thường xuyên hơn tại 
bệnh viện chúng tôi. Chính vì vậy trong tương 
lai rất cần những nghiên cứu về giãn não thất 
tiến hành tại bệnh viện chúng tôi trong đó MRI 
được sử dụng cho cả trước và sau đẻ để góp 
phần đánh giá chính xác các bất thường.
V. KẾT LUẬN
Các yếu tố trước sinh: giãn phối hợp, giãn 
nặng, tuổi thai tại thời điểm phát hiện trước 
29 tuần, tiến triển kích thước não thất trong tử 
cung tăng là những yếu tố nguy cơ của đình 
chỉ thai nghén. Giãn não thất phối hợp làm tăng 
nguy cơ trẻ ngạt, nguy cơ trẻ nhẹ cân lúc đẻ. 
Giãn não thất mức độ nặng làm tăng nguy cơ 
trẻ có vòng đầu to. Tiến triển kích thước não 
thất trong tử cung của nhóm không thay đổi làm 
tăng nguy cơ đẻ non, tăng nguy cơ trẻ ngạt, 
tăng nguy cơ trẻ nhẹ cân so với nhóm giảm. 
Tiến triển của kích thước não thất trong tử cung 
tăng làm tăng nguy cơ trẻ có vòng đầu to sau 
đẻ so với nhóm giảm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. D’Addario V, Pinto V, Di Cagno L et al. 
(2007), “Sonographic diagnosis of fetal cerebral 
ventriculomegaly: an update”, J Matern Fetal 
Neonatal Med, 20(1), 7 - 14.
2. Gaglioti P, Oberto M và Todros 
T (2009), “The significance of fetal 
ventriculomegaly: etiology, short - and long - 
term outcomes”, Prenat Diagn, 29(4), 381 - 
388.
3. Gaglioti P, Danelon D, Bontempo S 
et al. (2005), “Fetal cerebral ventriculomegaly: 
outcome in 176 cases”, Ultrasound Obstet 
Gynecol, 25(4), 372 - 377.
4. Carta S, Kaelin Agten A, Belcaro 
C et al. (2018), “Outcome of fetuses with 
prenatal diagnosis of isolated severe bilateral 
ventriculomegaly: systematic review and meta 
- analysis”, Ultrasound Obstet Gynecol, 52(2), 
165 - 173.
5. Breeze A. C, Alexander P. M, Murdoch 
E. M et al. (2007), “Obstetric and neonatal 
outcomes in severe fetal ventriculomegaly”, 
Prenat Diagn, 27(2), 124 - 129.
6. Scala C, Familiari A, Pinas A et al. 
(2017), “Perinatal and long - term outcomes 
in fetuses diagnosed with isolated unilateral 
ventriculomegaly: systematic review and meta 
- analysis”, Ultrasound Obstet Gynecol, 49(4), 
450 - 459.
7. Pagani G, Thilaganathan B và 
Prefumo F (2014), “Neurodevelopmental 
outcome in isolated mild fetal ventriculomegaly: 
systematic review and meta - analysis”, 
Ultrasound Obstet Gynecol, 44(3), 254 - 260.
8. Bar - Yose, Barzilay, Dorembus et 
al. (2017), “Neurodevelopmental outcome of 
isolated ventriculomegaly: a prospective cohort 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
80 TCNCYH 123 (7) - 2019
study.”, Prenat Diagn, 37(8), 764 - 768.
9. International Society of Ultrasound 
in Obstetrics & Gynecology Education 
Committee (2007), “Sonographic examination 
of the fetal central nervous system: guidelines 
for performing the ‘basic examination’ and the 
‘fetal neurosonogram’.”, Ultrasound Obstet 
Gynecol, 29(1), 109 - 116.
10. Madazli R, Sal V, Erenel H et al. 
(2011), “Characteristics and outcome of 102 
fetuses with fetal cerebral ventriculomegaly: 
experience of a university hospital in Turkey”, J 
Obstet Gynaecol, 31(2), 142 - 145.
11. Chu N, Zhang Y, Yan Y et al. (2016), 
“Fetal ventriculomegaly: Pregnancy outcomes 
and follow - ups in ten years.”, Biosci Trends, 
10(2), 125 - 132.
12. Tugcu A. U, Gulumser C, Ecevit A et 
al. (2014), “Prenatal evaluation and postnatal 
early outcomes of fetal ventriculomegaly”, Eur J 
Paediatr Neurol, 18(6), 736 - 740.
13. Kumar M, Garg N, Hasija A et al. 
(2018), “Two - year postnatal outcome of 263 
cases of fetal ventriculomegaly”, J Matern Fetal 
Neonatal Med, 1 - 181.
14. Joo J. G, Toth Z, Beke A et al. (2008), 
“Etiology, prenatal diagnostics and outcome of 
ventriculomegaly in 230 cases”, Fetal Diagn 
Ther, 24(3), 254 - 263.
15. Graham E, Duhl A, Ural S et al. (2001), 
“The degree of antenatal ventriculomegaly is 
related to pediatric neurological morbidity.”, J 
Matern Fetal Med, 10(4), 258 - 263.
16. Vergani P, Locatelli A, Strobelt N 
et al. (1998), “Clinical outcome of mild fetal 
ventriculomegaly”, Am J Obstet Gynecol, 
178(2), 218 - 222.
17. Lipitz S, Yagel S, Malinger G et al. 
(1998), “Outcome of fetuses with isolated 
borderline unilateral ventriculomegaly 
diagnosed at mid - gestation.”, Ultrasound 
Obstet Gynecol, 12(1), 23 - 26.
18. Griffiths P. D, Reeves M. J, Morris J. 
E et al. (2010), “A prospective study of fetuses 
with isolated ventriculomegaly investigated by 
antenatal sonography and in utero MR imaging”, 
AJNR Am J Neuroradiol, 31(1), 106 - 111.
19. Laskin M. D, Kingdom J, Toi A et al. 
(2005), “Perinatal and neurodevelopmental 
outcome with isolated fetal ventriculomegaly: 
a systematic review”, J Matern Fetal Neonatal 
Med, 18(5), 289 - 298.
20. Sun Y và Zhang W. Y (2018), “[Meta 
analysis of fetal lateral ventriculomegaly and 
prognosis]”, Zhonghua Fu Chan Ke Za Zhi, 
53(10), 677 - 682.
Summary
FACTORS ASSOCIATED WITH FETAL VENTRICULAR 
DILATATION
Objective: The purpose of this study is to determine the factors associated with the outcome of 
pregnancy diagnosed with fetal ventricular dilatation. Methods: The study included 300 cases of 
ventriculomegaly at Prenatal Diagnosed Centre of National Hospital of Obstetrics and Gynecology. 
149 cases chose to continue their pregnancy; progress during pregnancy, postnatal ultrasound 
results and neurodevelopmental outcomes were recorded at birth and at 3 months old. Result: 
Termination of pregnancy was at 50.3%, continuation of pregnancy was at 49.7%. Neonatal mortality 
rate was 4.8%. Preterm delivery took place in 10.7%, depressed respiratory rate was at 12.1%, 
low birthweight was at 10.2%, newborn head circumference higher than 95th percentile was at 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
81TCNCYH 123 (7) - 2019
10.2%. At 3 months old, the ventriculomegaly rate was at 55.7%, the normal lateral ventricles was at 
44.3%. The incidence of the evolution of ventriculomegaly after birth - improved, stable, worsened 
- was at 58.6%, 37.1%, and 8.6% respectively. Normal neurodevelopmental outcome of newborns 
diagnosed with isolated ventriculomegaly, non- isolated ventriculomegaly, mild or moderate 
ventriculomegaly, and severe ventriculomegaly was 83.7%, 90.5%, 89.1%, and 73.3% respectively.
Conclusion: The etiology, the degree of antenatal ventriculomegaly and the evolution of 
ventriculomegaly in utero are all related to the neurodevelopment outcomes of newborns.
Keywords: ventriculomegaly, prenatal diagnostic, outcome, neurodevelopment, lateral 
ventricle diameter

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_den_ket_qua_thai_ky_co_gian_nao_that_be.pdf