Các yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của người già suy tim tại Bệnh viện Đa khoa Trung ươngThái Nguyên

Hành vi tự chăm sóc được biết để ngăn ngừa tái nhập viện và giảm tỉ lệ chết ở người già suy tim. Đây là nghiên cứu mô tả tương quan để tìm ra mức độ hành vi tự chăm sóc và các yếu tố liên quan (giới, thu nhập, trình độ học vấn, bệnh kèm theo, kiến thức suy tim và sự hỗ trợ xã hội) với hành vi đó. 126 người già suy tim đã tham gia vào nghiên cứu này trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2012. Số liệu được thực hiện tại khoa Nội Tim mạch - Cơ xương khớp, Bệnh Viện Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên được sử dụng 4 bộ câu hỏi: Thông tin cơ bản và bệnh, Hành vi tự chăm sóc bản thân(.73), Hỗ trợ xã hội(.74), Kiến thức suy tim(.72). Tỉ lệ %, Mean, SD, Spearman Correlation Coefficient và Pearson Product Moment Correlation Coefficient được sử dụng để phân tích số liệu. Kết quả nghiên cứu này đưa ra được người già suy tim có hành vi tự chăm sóc thấp ( X =33.58, SD = 5.32). Kiến thức suy tim và hỗ trợ xã hội liên quan với hành vi tự chăm sóc (r =.66, and r =.53, p <.01). can="" thiệp="" điều="" dưỡng="" vào="" sự="" hỗ="" trợ="" xã="" hội="" và="" kiến="" thức="" suy="" tim="" được="" đề="" nghị="" để="" nâng="" cao="" được="" hành="" vi="" tự="" chăm="" sóc="" bản="" thân="" ở="" người="" già="" suy="">

pdf 8 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của người già suy tim tại Bệnh viện Đa khoa Trung ươngThái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của người già suy tim tại Bệnh viện Đa khoa Trung ươngThái Nguyên

Các yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của người già suy tim tại Bệnh viện Đa khoa Trung ươngThái Nguyên
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201326
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Tóm TắT
Hành vi tự chăm sóc được biết để ngăn ngừa 
tái nhập viện và giảm tỉ lệ chết ở người già suy 
tim. Đây là nghiên cứu mô tả tương quan để tìm 
ra mức độ hành vi tự chăm sóc và các yếu tố liên 
quan (giới, thu nhập, trình độ học vấn, bệnh kèm 
theo, kiến thức suy tim và sự hỗ trợ xã hội) với 
hành vi đó. 126 người già suy tim đã tham gia vào 
nghiên cứu này trong thời gian từ tháng 3 đến 
tháng 9 năm 2012. Số liệu được thực hiện tại 
khoa Nội Tim mạch - Cơ xương khớp, Bệnh Viện 
Đa khoa Trung Ương Thái Nguyên được sử dụng 
4 bộ câu hỏi: Thông tin cơ bản và bệnh, Hành vi 
tự chăm sóc bản thân(.73), Hỗ trợ xã hội(.74), 
Kiến thức suy tim(.72). Tỉ lệ %, Mean, SD, 
Spearman Correlation Coefficient và Pearson 
Product Moment Correlation Coefficient được 
sử dụng để phân tích số liệu. Kết quả nghiên 
cứu này đưa ra được người già suy tim có hành 
vi tự chăm sóc thấp ( X =33.58, SD = 5.32). 
Kiến thức suy tim và hỗ trợ xã hội liên quan với 
hành vi tự chăm sóc (r =.66, and r =.53, p <.01). 
Can thiệp điều dưỡng vào sự hỗ trợ xã hội và 
kiến thức suy tim được đề nghị để nâng cao 
được hành vi tự chăm sóc bản thân ở người già 
suy tim. 
Từ khóa: Người già, Suy tim, Hành vi tự 
chăm sóc
ĐặT vấn Đề
Suy tim (ST) là một trong những bệnh 
tim mạch có tỉ lệ mắc và mắc mới tăng lên theo 
tuổi trên toàn thế giới [1]. Nó ảnh hưởng chủ 
yếu đến khoảng 6-10% người trên 65 tuổi [2]. 
ST còn là nguyên nhân chính làm người già 
mắc suy tim phải nằm viện và tái nhập viện 
[3]. Nó được báo cáo là tỉ lệ nằm viện tăng lên 
từ 877,000 đến 1,106,000 năm 2006, và tăng 
171% tại Mỹ [4].
Hành vi tự chăm sóc là một trong những 
yếu tố quan trọng nhất để phòng các biến 
chứng và hậu quả do bệnh ST gây ra. Tuy nhiên 
rất nhiều người bệnh ST không đủ hành vi tự 
chăm sóc [5]. Đặc biệt là hành vi tự chăm sóc 
của người già ST được cho thấy rằng rất phức 
tạp và khó để người bệnh có thể tuân thủ theo 
dõi triệu chứng bệnh và chế độ điều trị [6]. Một 
trong những lý do để giải thích vấn đề trên đó là 
sự thay đổi sinh lý ở các cơ quan như tuần hoàn, 
hô hấp, tiêu hóa, mắt, tai... [7,8]. Hơn nữa, sự 
phức tạp trong chế độ điều trị bệnh suy tim và 
hầu hết người già mắc suy tim kết hợp với nhiều 
Các yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của 
người già suy tim tại Bệnh viện Đa khoa Trung 
ươngThái Nguyên 
Nguyễn Ngọc Huyền, Nguyễn Tiến Dũng
Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 27
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
bệnh kèm theo [3]. Sự không tuân thủ về chế 
độ thuốc và thay đổi lối sống là vấn đề chính 
ở người già suy tim [9]. Với khả năng tự chăm 
sóc bản thân thấp như thiếu khả năng tuân thủ 
chế độ điều trị trong ST dẫn đến 20-60% người 
bệnh ST phải tái nhập viện [10]. Mặc dù nâng 
cao hành vi tự chăm sóc bản thân như tuân thủ 
điều trị trong suy tim, nhưng tỉ lệ chết do suy 
tim vẫn cao khoảng 300,000 người chết mỗi 
năm ở Mỹ [11].
Hành vi tự chăm sóc bản thân phụ thuộc 
nhiều yếu tố bao gồm giới, trình độ học vấn, 
thu nhập, bệnh kèm theo, kiến thức suy tim và 
sự hỗ trợ xã hội [12,13]. Tuy nhiên chưa có kết 
luận nào chỉ ra được liên quan giữa các yếu tố 
trên và hành vi tự chăm sóc bản thân ở người 
bệnh suy tim. Hơn nữa, các nghiên cứu đó được 
thực hiện ở các nước Châu Âu, nó có nền văn 
hóa khác so với Việt Nam. Nhiều nghiên cứu đã 
chỉ ra được mối liên quan giữa các yếu tố trên 
và hành vi tự chăm sóc bản thân. Tuy nhiên, 
các nghiên cứu chính tại Việt Nam còn rất hạn 
chế, chưa có nghiên cứu nào về mối liên quan 
giữa các yếu tố trên và hành vi tự chăm sóc bản 
thân ở bệnh nhân suy tim. Do đó, mục tiêu của 
nghiên cứu này là tìm ra mối liên quan giữa 
hành vi tự chăm sóc bản thân và mối liên quan 
giữa các yếu tố bao gồm giới, trình độ học vấn, 
thu nhập, bệnh kèm theo, kiến thức suy tim và 
sự hỗ trợ xã hội với hành vi tự chăm sóc bản 
thân ở người già mắc suy tim tại Thái Nguyên, 
Việt Nam.
phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu mô tả tương 
quan.
- Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Nội 
tim mạch - Cơ xương khớp, Bệnh viện Đa khoa 
Trung ương Thái Nguyên. 
- Cỡ mẫu trong nghiên cứu này gồm 126 
người già suy tim đang điều trị tại khoa Nội 
Tim mạch - Cơ xương khớp.
- Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên với 
các tiêu chuẩn chọn lựa: Tuổi từ 60 tuổi trở lên; 
Được chẩn đoán là suy tim; Có tình trạng sức 
khỏe ổn định cho phép họ tham gia vào trong 
suốt thời gian của nghiên cứu này; Có khả năng 
giao tiếp, đọc tốt được tiếng việt; Không mắc 
các bệnh về tâm thần kinh được chẩn đoán bởi 
Bác sĩ; Đồng ý tham gia nghiên cứu. Thu thập 
số liệu trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 
năm 2012.
- Tác giả của 3 bộ câu hỏi đồng ý sử dụng 
trong nghiên cứu này. Người già mắc suy tim 
đang điều trị tại Khoa Nội Tim mạch - Cơ 
xương khớp được mời tham gia nghiên cứu và 
họ đã đồng ý ký vào giấy thỏa thuận. Sau đó 
họ được mời hoàn thành bộ câu hỏi trong thời 
gian từ 15-20phút. Sau khi phỏng vấn xong bộ 
câu hỏi được hoàn thiện và kiểm tra lại. Số liệu 
được đưa vào phần mềm SPSS 17 để phân tích.
 1. Bộ câu hỏi 
Bộ thông tin cơ bản và bệnh.
Bộ câu hỏi này gồm có hai phần. Phần thứ 
nhất gồm các thông tin về tuổi, giới, tình trạng 
hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập hàng 
tháng, chi phí điều trị, điều kiện sống. Phần thứ 
hai được hoàn thành bởi người nghiên cứu từ 
hồ sơ bệnh án và bao gồm các thông tin về bệnh 
kèm theo, nguyên nhân suy tim.
Bộ câu hỏi về hành vi tự chăm sóc bản thân: 
The Revised European Heart Failure Self-care 
Behavior Scale (EHFScBS-9)
Bộ câu hỏi này được phát triển bởi Jaarsma 
(2009) [12] gồm 9 câu hỏi về hành vi tự chăm 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201328
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
sóc bản thân của người bệnh suy tim bao gồm 
theo dõi cân nặng hàng ngày, hạn chế nước, 
thuốc, liên lạc với cán bộ y tế khi người bệnh 
có các triệu chứng như tăng cân. Bộ câu hỏi này 
gồm 5 mức độ trả lời từ 1 “rất đồng ý” đến 5 “rất 
không đồng ý”. Sau khi thảo luận với tác giả của 
bộ câu hỏi, người nghiên cứu đã thay đổi mức 
độ từ 5 “rất đồng ý” đến 1 “rất không đồng ý”. 
Do đó, số điểm càng cao xác định hành vi tự 
chăm sóc tốt hơn. 
Bộ câu hỏi về sự hỗ trợ xã hội:
The Multidimensional Scale of Perceived 
Social Support (MSPSS)
Được phát triển bởi tác giả Zimet (1988) 
với mục tiêu để đo lường sự nhận thức về sự hỗ 
trợ xã hội. Bộ câu hỏi này gồm 12 câu hỏi với 3 
nhóm về hỗ trợ xã hội của (1) Người thân (4 
câu hỏi), (2) Gia đình (4 câu hỏi), và (3) Bạn 
bè (4 câu hỏi). Mỗi câu hỏi có 7 phương án trả 
lời từ 1 rất “đồng ý” đến 7 “rất không đồng ý”. 
Tổng điểm của sự hỗ trợ xã hội từ 1-7. Tổng 
điểm cao mà người già suy tim có, thì họ sẽ 
nhận được nhiều hơn về sự hỗ trợ xã hội.
Bộ câu hỏi về kiến thức suy tim: The Dutch 
Heart Failure Knowledge Scale (DHFKS)
Được phát triển bởi tác giả Van der Wal 
(2005) gồm 15 câu hỏi nhiều lựa chọn và được 
chia ra làm 3 nhóm: 1) 4 câu hỏi về thông tin 
chung về suy tim, 2) 6 câu hỏi đánh giá về chế 
độ ăn, giới hạn cước và các hành động để đánh 
giá điều trị suy tim; và 3) 5 câu hỏi đánh giá 
triệu chứng và sự phát hiện triệu chứng. Mỗi 
câu hỏi người bệnh nhận được 1 điểm cho sự 
lựa chọn câu trả lời đúng từ 3 sự lựa chọn và 
ngược lại nhận điểm 0 cho lựa chọn câu trả lời 
sai. Tổng số điểm bộ câu hỏi này là 0-15 điểm. 
Tổng điểm cao người già suy tim có, họ có kiến 
thức về suy tim tốt hơn. 
2. Psychometric properties of the instruments
Quy trình dịch 3 bộ câu hỏi EHFScBS-9, 
DHFKS, và MSPSS được thực hiện bởi 3 
chuyên gia thông thạo về tiếng Anh và tiếng 
Việt và sử dụng phương pháp dịch ngược. Sau 
đó 3 tác giả đã cùng nhau thống nhất lại và 
đưa ra bản dịch. Cuối cùng bản tiếng Anh dịch 
ngược từ bản tiếng Việt đã được 3 tác giả của 
bộ câu hỏi kiểm tra và thống nhất một số vấn 
đề không phù hợp. Độ tin cậy của ba bộ câu hỏi 
EHFScBS-9 và MSPSS là .73, và .74; and KR-
20 của DHFKS là .72.
3. Phân tích số liệu
Phương pháp mô tả đã được sử dụng để 
mô tả về thông tin cơ bản và mức độ hành vi tự 
chăm sóc bản thân. Mối liên quan giữa các biến 
và hành vi tự chăm sóc được sử dụng Pearson 
Product Moment Correlation Coefficient and 
Spearman Correlation Coefficient với độ tin cậy 
.05 và SPSS 17 được sử dụng để phân tích số liệu. 
KếT quả
Bảng 1: Thông tin cơ bản của người già suy tim (n=126)
Biến n %
Tuổi 
60-69
70-79
>80
Mean = 70.38; SD =8.14
68
38
20
54
30.1
15.9
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 29
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
Biến n %
Giới
Nam
Nữ
61
65
48.4
51.6
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
Lập gia đình
Ly dị
Góa vợ (chồng)
8
58
17
43
6.3
46
13.5
34.1
Điều kiện sống
Một mình
Sống với vợ (chồng)
Với gia đình
17
11
98
13.5
8.7
77.8
Trình độ văn hóa 
Không đi học (0)
Bậc học phổ thông (1-12)
(cấp 1, cấp 2, cấp 3)
Đại học hoặc cao hơn (>12)
Mean = 9.12, SD = 5.224
Range = 0-20
10
86
30
 7.9
68.3
23.8
Chi phí điều trị
Thẻ bảo hiểm
Tự chi trả
98
28
77.8
22.2
Thu nhập hàng tháng (Vietnam dong)
≤ 4,500,000
4,500,001 - 5,500,000
5,500,001 - 6,500,000
≥ 6,500,000
Mean = 5,634,127
SD = 2,239,934
36
18
26
46
28.6
14.3
20.6
36.5
Bệnh kèm theo
Không
Tăng huyết áp
Đái tháo đường
COPD
Bệnh khác (Viêm phổi, xơ gan, viêm phế quản, hen phế quản, viêm khớp)
64
25
17
5
15
50.8
19.8
13.5
 4.0
11.9
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201330
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Nhận xét: Nghiên cứu này có 61 nam (48.4%), và 65 nữ (51.6%) với tuổi từ 60 to 90 tuổi (tuổi 
trung bình = 70.38). Khoảng 46% đối tượng nghiên cứu là đã lập gia đình, và 34.1 % đã ly hôn. Phần 
lớn đối tượng nghiên cứu (68.3%) chỉ hoàn thành trình độ học vấn là tốt nghiệp trung học. Hầu hết họ 
đều sống với gia đình (77.8%), và chi phí điều trị đều được trả bởi bảo hiểm y tế (77.8%). Tỉ lệ cao nhất 
(36.5%) người già suy tim và gia đình có thu nhập hàng tháng hơn 6,500,000 VND. Đa số đối tượng 
nghiên cứu (50.8%) không có bệnh kèm theo. 
Bảng 2. Mối liên quan giữa giới, trình độ học vấn, thu nhâp, bệnh kèm theo, kiến thức về suy tim, và sự hỗ 
trợ xã hội (n=126).
Biến Hành vi tự chăm sóc bản thân
Giới .04
Trình độ học vấn .05
Thu nhập -.074
Bệnh kèm theo -.12
Kiến thức suy tim .66**
Sự hỗ trợ xã hội .53**
**p<.01
Nhận xét: 
Có sự liên quan giữa kiến thức suy tim, sự hỗ trợ xã hội và hành vi tự chăm sóc bản thân (r = .66, 
and r = .53, p <.01).
Giới, trình độ học vấn, thu nhập hàng tháng, và bệnh kèm theo không liên quan với hành vị tự chăm 
sóc bản thân 
Bàn luận
Kết quả nghiên cứu này đã đưa ra hơn nửa người già suy tim (50.9%) có hành vi tự chăm 
sóc ở mức độ thấp. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác đã tìm thấy hành vi tự chăm sóc 
của người già suy tim vẫn thấp. Hành vi tự chăm sóc của người già có thể khó bởi các thay đổi về 
tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, mắt, và tai... [8]. Trong nghiên cứu này, hầu hết đối tượng nghiên cứu 
(76.2%) đã hoàn thành trình độ học vấn thấp. Hơn nữa, khi những yếu tố này kết hợp với thiếu giáo 
dục, với sự phức tạp của hành vi tự chăm sóc để thành công trong hành vi tự chăm sóc suy tim là 
khó. Mặc dù hàng tháng, điều dưỡng đều giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân suy tim về hành vi tự 
chăm sóc bản thân tại Khoa Nội Tim mạch - Cơ xương khớp, Bệnh viện Đa khoa Trung tương Thái 
Nguyên, nhưng quá trình tự chăm sóc bản thân đã không được hầu hết các người già suy tim học và 
hiểu một cách thấu đáo. Rõ ràng, hành vi tự chăm sóc phải được học, và phải tuân thủ liên tục. Đó 
là lý do tại sao người già suy tim không thể thực hiện được hành vi này và có thể làm cho hành vi tự 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 31
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
chăm sóc của họ ở mức độ thấp. 
Kiến thức suy tim liên quan với hành vi tự 
chăm sóc bản thân (r= .66, p <.01). Nghiên cứu 
này đã chỉ ra đa số người già suy tim (76.2%) có 
trình độ văn hóa thấp, có thể dẫn tới họ có kiến 
thức về suy tim thấp. Orem, (2001) đã chứng 
minh rằng kiến thức là sức mạnh để có thể thực 
hiện được hành vi tự chăm sóc; Nó có thể rất 
đặc biệt và tổ chức để gặp những kiến thức cần 
thiết. Theo thuyết Orem’s, người già suy tim 
có hành vi tự chăm sóc bản thân bị ảnh hưởng 
bởi kiến thức của họ về suy tim để họ thực hiện 
được hành vi tự chăm sóc bản thân. Để giúp 
người bệnh có được các kiến thức để họ thực 
hiện hành vi tự chăm sóc thì họ phải hiểu và có 
các năng lực cơ bản để thực hiện hành vi này. 
Hơn nữa, kiến thức suy tim là yếu tố quan trọng 
liên quan đến sự tuân thủ hành vi tự chăm sóc 
ở người già suy tim [9]. Nhiều nghiên cứu cũng 
đã chỉ ra được kiến thức suy tim là yếu tố ảnh 
hưởng đến sự thực hiện hành vi tự chăm sóc 
bản thân. Trong nghiên cứu này, kiến thức về 
suy tim ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi tự chăm 
sóc bản thân của người già suy tim được chỉ rõ. 
Thậm chí, kiến thức suy tim là yếu tố cần thiết 
để thực hiện hành vi này. Kết quả này phù hợp 
với nhiều nghiên cứu khác . 
Sự hỗ trợ xã hội liên quan với hành vi tự 
chăm sóc bản thân (r = .53, p <01). Kết quả này 
giống với các nghiên cứu trước của Gallager và 
cộng sự (2011) và Sayer và cộng sự (2008) chỉ 
ra rằng sự hỗ trợ xã hội đã liên quan hành vi tự 
chăm sóc bản thân ở người bệnh suy tim. Một lý 
do có thể giải thích được là văn hóa người Việt 
Nam theo truyền thống khuyến khích thành 
viên trẻ trong gia đình sẽ chăm sóc người già 
khi họ ốm. Điều đó phù hợp với khoảng 77.8% 
đối tượng trong nghiên cứu này họ đều sống với 
gia đình. Thêm nữa, sự hỗ trợ xã hội từ gia đình 
và bạn bè liên qua đến sự tuân thủ điều trị suy 
tim tốt hơn. Đó có thể là lý do tại sao người già 
suy tim tuân thủ hành vi tự chăm sóc bản thân. 
Giới không liên quan đến hành vi tự chăm 
sóc bản thân, trái với kết quả của Riegel và cộng 
sự (1995) đã tìm ra là phụ nữ thường tự chăm 
sóc bản thân tốt hơn so với nam giới. Tuy nhiên, 
Lee và cộng sự (2009) chỉ ra được người già suy 
tim liên quan với hành vi tự chăm sóc không 
tốt, đặc biệt là sự nhận biết về triệu chứng ở cả 
nam và nữ. Do vậy, nó có thể giải thích được 
tại sao giới lại không liên quan đến hành vi tự 
chăm sóc bản thân ở người già suy tim. 
Điều ngạc nhiên là mối liên quan giữa 
trình độ học vấn và hành vi tự chăm sóc bản 
thân lại không được đưa ra ở nghiên cứu này. 
Điều đó giải thích rằng người bệnh có có trình 
độ học vấn thấp thì không có khả năng học về 
hành vi tự chăm sóc bản thân. Bởi vì, hành vi 
tự chăm sóc là cả quá trình mà người bệnh có 
thể học được. Người già suy tim có trình độ học 
vấn thấp có thể họ phải dành nhiều thời gian 
để học được hành vi đó hơn là những người có 
trình độ văn hóa cao hơn [13]. Hơn nữa, trình 
độ học vấn luôn liên quan đến thu nhập, do vậy 
nó có thể ảnh hưởng đến hành vi tự chăm sóc, 
mặc dù thu nhập không liên quan đến hành vi 
tự chăm sóc trong nghiên cứu này.
Bệnh kèm theo không liên quan đến hành 
vi tự chăm sóc bản thân ở người già suy tim. 
49.2% đối tượng trong nghiên cứu này không 
có bệnh kèm theo. Điều đó có thể giải thích 
tại sao người bệnh suy tim có kèm theo nhiều 
bệnh là hàng rào ngăn cản người bệnh đó thực 
hiện hành vi tự chăm sóc. Khi có nhiều bệnh 
kèm theo thì hành vi tự chăm sóc sẽ khó thực 
hiện về 4 mặt chính: Uống thuốc, tuân thủ chế 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201332
y NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
độ ăn bệnh lý, theo dõi triệu chứng, và đưa ra 
quyết định để quản lý các bệnh kèm theo như 
thế nào. Tuy nhiên ở nghiên cứu này tác giả mới 
chỉ đưa ra được là người già suy tim chỉ có duy 
nhất một bệnh kèm theo. Số người già suy tim 
không có bệnh kèm theo chiếm gần nửa (49.2% 
and 50.9%). Do đó, không ngạc nhiên tại sao 
trong nghiên cứu này không tìm ra được mối 
liên quan giữa bệnh kèm theo và hành vi tự 
chăm sóc. 
KếT luận và Kiến nghị
Suy tim là bệnh thường gặp ở người cao 
tuổi. Hành vi tự chăm sóc bản thân là yếu tố 
cần thiết cho người bệnh suy tim để họ nhận 
được tình trạng sức khỏe tốt nhất có thể. Kết 
quả quan trọng từ số liệu của nghiên cứu này đã 
chỉ ra là hành vi tự chăm sóc của người cao tuổi 
mắc suy tim ở Việt Nam là thấp. Các yếu tố có 
thể can thiệp được để nâng cao hành vi tự chăm 
sóc là kiến thức về suy tim và sự hỗ trợ xã hội. 
Dựa vào kết quả nghiên cứu này, điều 
dưỡng có thể phát triển kế hoạch để xác định 
người cao tuổi suy tim có hành vi tự chăm sóc 
bản thân thấp. Đưa ra kế hoạch giáo dục sức 
khỏe về sự hỗ trợ xã hội và kiến thức suy tim 
được đưa ra để nâng cao hành vi tự chăm sóc 
bản thân của người cao tuổi suy tim.
AcKnOWlEDgEmEnT
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới 
Ban lãnh đạo Bệnh viện Đa khoa Trung ương 
Thái Nguyên, toàn thể cán bộ khoa Nội Tim 
mạch - Cơ xương khớp, cùng các bệnh nhân đã 
tham gia giúp chúng tôi hoàn thành nghiên cứu 
này.
SUMMAry
Self-care behavior is well known to prevent frequent hospitalization and to reduce the mortality rates 
among older adults with heart failure. This descriptive correlational study aimed to explore the level of 
self-care behavior and to examine the relationships between related factors (gender, income, educational 
level, co-morbidity, heart failure knowledge and social support) and self-care behaviors among older 
adults with heart failure. One hundred and twenty-six participants were conveniently sampled and 
participated into this study during March to September 2012. The data collection was performed at the 
Cardiology-Rheumatology Unit of Thai Nguyen General Hospital, Vietnam using four questionnaires: 
The Demographic and Clinical Data Form, The Dutch Heart Failure Knowledge Scale (with its reliability 
of .72), The European Heart Failure Self-care Behaviors Scale-9 (with its reliability of .73), and The 
Multidimensional Scale Perceived Social Support (with its reliability of .74). Percentage, mean, standard 
deviation, Spearman Correlation Coefficient and the Pearson Product Moment Correlation Coefficient 
was used to analyze the data. The results revealed that the samples had low level of self-care behaviors of 
heart failure ( X =33.58, SD = 5.32). Knowledge of heart failure and social support statistically significant 
correlated with self-care behaviors (r =.66, and r =.53, p <.01, respectively). Nursing intervention 
programs in regarding of social support and knowledge of heart failure are recommended for enhancing 
self-care behaviors of older adults with heart failure.
Key words: Older adults, Heart failure, Self-care behaviors.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 33
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG x
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. S.A. Hunt, W.T. Abraham, M.H. Chin, A.M. Feldman, and G.S. Francis, et al, “ACC/AHA 2005 
Guideline update for the diagnosis and management of chronic heart failure in the adult—Summary 
article: A report of the American College of Cardiology/American Heart Association task force on practice 
guidelines: Developed in collaboration with the international society for heart and lung transplantation,” 
Circulation., Vol. 112, pp. e154-e235, Sep. 2005. 
2. J.J. Mc Murray, and M.A. Pfeffer, “Heart failure,” Lancet., Vol. 365, pp. 1877-1889, May-Jun. 2005. 
3. M. Imazio, A. Cotroneo, G. Gaschino, A. Chinaglia and P. Gareri, et al, “Management of heart failure in 
the elderly people,” International Journal of Clinical Practice., Vol. 62, pp. 270-280, Feb. 2008.
4. American Heart Association. (2009). Heart disease and stroke statistics: Our guide to current statistics 
and the supplement to our heart and stroke facts 2009 Update At-A-Glance. Retrieved December 29, 
2009, from 
5. M. Lainscak, J.G.F. Cleland, M.J. Lenzen, I. Keber & K. Goode, et all, “Nonpharmacologic Measures 
and Drug Compliance in Patients with Heart Failure: Data from the EuroHeart Failure Survey,” The 
American Journal of Cardiology., Vol. 99, pp. 31D-37D, Apr. 2007.
6. T. Jaarsma, H.H. Abu-Saad, K. Dracup, and R. Halfens, “Self-care behavior of patients with heart 
failure,” Scandinavian Journal of Caring Sciences., Vol. 14, pp. 112-119, 2000.
7. B. Carlson, B. Riegel, and D. Moser, “Self-care abilities of patients with heart failure,” Heart Lung., Vol. 
30, pp. 351-359, Sep. 2001. 
8. C.A. Miller, Nursing for wellness in older adults, 5th ed., Lippincott Williams & Wilkins, 2010.
9. M.H.L. van der Wal, and T. Jaarsma, “Adherence in heart failure in the elderly: Problem and possible 
solutions,” International Journal of Cardiology, Vol. 125, pp. 203-208, Apr. 2008.
10. D.K. Moser, and J.F. Watkins, “Conceptualizing self-care in heart failure a life course model of patient 
characteristics,” Journal of Cardiovascular Nursing, Vol. 23, pp. 205-218, May-Jun. 2008.
11. National Heart, Lung, and Blood Institute (2010). Heart failure. Available:
/health/dci/Diseases/Hf/ HF_WhatIs.html.
 12. T. Jaarsma, K.F. Arestedt, J. Martensson. K. Dracup, and A. Stromberg, “The European heart failure 
self-care behaviour scale revised into a nine-item scale (EHFScB-9): a reliable and valid international 
instrument,” European Journal Heart Failure, Vol. 11, pp. 99-105, 2009
 13. R. Gallager, M.L. Luttik, and T. Jaarsma, “Social Support and Self-care in Heart Failure,” Journal of 
Cardiovascular Nursing, Mar. 2011.

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_den_hanh_vi_tu_cham_soc_cua_nguoi_gia_s.pdf