Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ: bằng chứng từ dữ liệu khảo sát người dân tại tỉnh Khánh Hòa

Biện pháp đơn giản và khoa học nhất để phát hiện sớm, hạn chế tối đa những thương tổn và ngăn

ngừa biến chứng của bệnh lý là kiểm tra sức khỏe định kỳ thì cho đến nay vẫn rất ít người ý thức

được tầm quan trọng của nó. Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam, cho thấy tỷ lệ người dân

tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ chưa cao. Vì vậy, biết được những yếu tố nào ảnh hưởng đến

việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là rất quan trọng để tạo ra một hệ thống và

môi trường làm cho người dân nhiều khả năng tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ hơn. Nghiên

cứu dựa trên dữ liệu khảo sát với kích thước mẫu là 420 người dân ở Khánh Hòa nhằm xác định các

yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ bằng việc áp dụng mô hình hồi

quy Logit. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ phụ thuộc vào

nhiều yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, tuổi tác, tiểu sử bệnh mãn tính, thời

gian chờ đợi và tác động của chi phí. Nghiên cứu cũng xác định rằng giới tính và tình trạng hôn

nhân không có ảnh hưởng đến việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Kết quả nghiên cứu cho

thấy sự cần thiết phải xem xét sự ưu tiên về thời gian, cũng như vấn đề chi phí khi xây dựng các

chính sách khuyến khích kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người dân

pdf 9 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ: bằng chứng từ dữ liệu khảo sát người dân tại tỉnh Khánh Hòa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ: bằng chứng từ dữ liệu khảo sát người dân tại tỉnh Khánh Hòa

Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ: bằng chứng từ dữ liệu khảo sát người dân tại tỉnh Khánh Hòa
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1050-1058
Open Access Full Text Article Bài nghiên cứu
1Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha
Trang
2Viện Pasteur Nha Trang
Liên hệ
Phạm Thành Thái, Khoa Kinh tế - Trường
Đại học Nha Trang
Email: [email protected]
Lịch sử
 Ngày nhận: 29/07/2020
 Ngày chấp nhận: 22/10/2020
 Ngày đăng: 08/11/2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i4.676
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ:
bằng chứng từ dữ liệu khảo sát người dân tại tỉnh Khánh Hòa
Phạm Thành Thái1,*, Võ Chí Nam2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Biện pháp đơn giản và khoa học nhất để phát hiện sớm, hạn chế tối đa những thương tổn và ngăn
ngừa biến chứng của bệnh lý là kiểm tra sức khỏe định kỳ thì cho đến nay vẫn rất ít người ý thức
được tầm quan trọng của nó. Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam, cho thấy tỷ lệ người dân
tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ chưa cao. Vì vậy, biết được những yếu tố nào ảnh hưởng đến
việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là rất quan trọng để tạo ra một hệ thống và
môi trường làm cho người dân nhiều khả năng tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ hơn. Nghiên
cứu dựa trên dữ liệu khảo sát với kích thướcmẫu là 420 người dân ở Khánh Hòa nhằm xác định các
yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ bằng việc áp dụngmô hình hồi
quy Logit. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, tuổi tác, tiểu sử bệnh mãn tính, thời
gian chờ đợi và tác động của chi phí. Nghiên cứu cũng xác định rằng giới tính và tình trạng hôn
nhân không có ảnh hưởng đến việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Kết quả nghiên cứu cho
thấy sự cần thiết phải xem xét sự ưu tiên về thời gian, cũng như vấn đề chi phí khi xây dựng các
chính sách khuyến khích kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người dân.
Từ khoá: yếu tố ảnh hưởng, kiểm tra sức khỏe định kỳ, hành vi sức khỏe, Khánh Hòa
GIỚI THIỆU
Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người, là vấn đề cốt
lõi quyết định sự phát triển của một địa phương, một
quốc gia vì nó quyết định chất lượng của nguồn vốn
nhân lực. Trong khi đó, vốn nhân lực lại là một yếu
tố đầu vào quan trọng quyết định đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc chăm sóc
sức khỏe có thể được thực hiện bằng cách thay đổi lối
sống và cách suy nghĩ, thực hiện kiểm tra sức khỏe
định kỳ,... để đẩy lùi triệt để, hạn chế thấp nhất các
nguy cơ gây nên bệnh tật. Trong đó, việc thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ là một biện pháp hiệu quả
nhất, với phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”.
Kiểm tra sức khỏe định kỳ để ngănngừa bệnh tật, phát
hiện bệnhở giai đoạn sớmvà duy trì sức khỏe tốt được
xem làmột trong những biện pháp dự phòng hiệu quả
nhất. Thông qua kiểm tra sức khỏe định kỳ, một cá
nhân có thể đánh giá tình trạng sức khỏe của họ, nhận
biết được các nguy cơ có thể gặp phải và thực hiện các
biện pháp điều trị bệnh nếu cần thiết để tiết kiệm thời
gian, chi phí và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đối
với những người có kết quả kiểm tra sức khỏe không
tốt, điều đó có thể giúp họ thay đổi những hoạt động
hàng ngày, lối sống theo hướng tích cực, lành mạnh
hơn, chẳng hạn như thay đổi thói quen ăn uống, tập
thể dục, ... Ngay cả đối với những người khi kiểm tra
sức khỏe cho thấy không có vấn đề về sức khỏe, đơn
giản chỉ cần họ biết được tình trạng sức khỏe của họ
có thể sẽ rất hữu ích, giúp họ có thể yên tâm về tình
trạng sức khỏe của mình. Chính hành động quyết
định có nên thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ hay
không sẽ liên quan đến nhận thức của một người về
việc duy trì sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật. Xã hội
càng phát triển thì kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề
về môi trường sống sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của
con người, các yếu tố như ô nhiễmmôi trường, áp lực
công việc càng làm gia tăng nguy cơ các bệnh hiểm
nghèo như ung thư, bệnh lý timmạch, gan, thận, tăng
huyết áp, cholesterol, đái tháo đường,Trong khi đó,
biện pháp đơn giản và khoa học nhất để phát hiện
sớm, hạn chế tối đa những thương tổn và ngăn ngừa
biến chứng của bệnh lý là kiểm tra sức khỏe định kỳ
thì cho đến nay vẫn rất ít người ý thức được tầm quan
trọng của nó.
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ người dân
tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ chưa cao. Nghiên
cứu của Olayinka và cộng sự. 1 tại Tây Nam Nigeria,
cho thấy tỷ lệ thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của
người dân trongmẫu khảo sát là 62,34%; Kết quả khảo
sát của Trung tâm bảo vệ sức khỏe tại Hồng Kông2,
cho thấy tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ là 16,7% trong tổng dân
Trích dẫn bài báo này: Thái P T, Nam V C. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe
định kỳ: bằng chứng từ dữ liệu khảo sát người dân tại tỉnh Khánh Hòa. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law
Manag.; 4(4):1050-1058.
1050
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1050-1058
số từ 15 tuổi trở lên; Cherrington và cộng sự. 3, thực
hiện một nghiên cứu tại Hoa Kỳ, kết quả cho thấy có
42%những người dân trongmẫu khảo sát có xác nhận
kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tại Nhật Bản, nghiên cứu
của Noguchi và Shen4 cho thấy có 77,81% người dân
trong mẫu khảo sát tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ.
Tại Việt Nam, việc tham gia khám sức khỏe định kỳ
mới chỉ được thực hiện cho người lao động làm việc
ở một số cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, còn
phần lớn người dân chỉ đến cơ sở khám chữa bệnh khi
có bệnh mà chưa có thói quen đi kiểm tra sức khỏe
định kỳ vì tâm lý e ngại khi phải xếp hàng chờ đợi
ở các bệnh viện, các trung tâm y tế, các cơ sở khám
chữa bệnh cũng như chi phí phải bỏ ra. Theo thống
kê của Bộ Y tế5, tỷ lệ lượt khám chữa bệnh trên tổng
số lượt khám, chữa bệnh chung: tuyến tỉnh 8,86%,
tuyến huyện 8,96%, tuyến xã 28,49%, chỉ khoảng 6,7
triệu người cao tuổi được khám sức khỏe định kỳ ít
nhất 1 lần/năm. Theo báo cáo tổng kết ngành Y tế
khu vực miền Trung năm 2019, thì chỉ khoảng 2,8%
số lao động, tương đương 28.000 người trong tổng số
gần 1 triệu lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp
tham gia khám sức khỏe định kỳ. Với số dân khu vực
miền trung (khu vực từ BìnhThuận đến Quảng Bình)
là 26,46 triệu người (tỷ lệ 27,4% so với tổng dân số cả
nước) nhưng số người được khám sức khỏe định kỳ
ít nhất 1 lần/năm, chỉ khoảng 8,1 triệu người, tương
đương 30,6% 6. Nghiên cứu của Trương Công Hiếu
và cộng sự. 7 tại thành phố Huế cho thấy chỉ có 36,9%
người dân trongmẫu khảo sát đã từng tham gia khám
sức khỏe định kỳ. Trần TịnhMinh Trí 8 thực hiệnmột
nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra rằng
có 68,75% người dân trong mẫu khảo sát có tham gia
kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Từ những vấn đề trên, cho thấy vẫn còn khá ít các
nghiên cứu liên quan được thực hiện tại Việt Nam,
và cũng cho thấy tỷ lệ người dân ở Việt Nam tham
gia kiểm tra sức khỏe định kỳ còn thấp. Vì vậy, việc
nghiên cứu để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết
định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân là một
yêu cầu cần thiết và hữu ích. Nghiên cứu này dựa trên
dữ liệu từmột khảo sát người dân tại tỉnh KhánhHòa
nhằm xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết
định tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người
dân, trên cơ sở đó đề xuất một số hàm ý chính sách
nhằm khuyến khích người dân thực hiện kiểm tra sức
khỏe định kỳ nhiều hơn. Các kết quả chỉ ra rằng quyết
định kiểm tra sức khỏe định kỳ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập,
tuổi tác, tiểu sử bệnh mãn tính, thời gian chờ đợi và
tác động của chi phí. Nghiên cứu cũng xác định rằng
giới tính và tình trạng hôn nhân không có ảnh hưởng
đến việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ.
KHUNG LÝ THUYẾT
Hành vi sức khỏe của một người liên quan đến việc
người đó có sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
hay không, chẳng hạn, cá nhân đó có tiến hành kiểm
tra sức khỏe định kỳ hoặc có thực hiện việc tầm soát
ung thư hay không. Lý thuyết kinh tế học sức khỏe chỉ
ra rằng việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
chịu tác động của các yếu tố nhân khẩu, kinh tế, xã
hội, lối sống, ... Một số nghiên cứu đã xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe
định kỳ. Mô hình hành vi sử dụng các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe của Andersen 9, cho rằng ảnh hưởng đến
quyết định sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của
một cá nhân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm: (1)
Khuynh hướng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
của cá nhân (giới tính, độ tuổi, thái độ đối với sức
khỏe, yếu tố di truyền, yếu tố tâm lý cá nhân), (2)
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tiếp cận và sử dụng dịch
vụ của cá nhân (thu nhập, bảo hiểm, sự sẵn có của
dịch vụ, các chi phí đi lại và thời gian chờ đợi) và (3)
Nhu cầu được chăm sóc sức khỏe của từng cá nhân.
Iwasaki và cộng sự.10 cho rằng các yếu tố nhân khẩu
- xã hội, yếu tố lối sống và lịch sử y tế cá nhân là các
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra
sức khỏe định kỳ. Funahashi và cộng sự. 11 phát hiện
ra rằng thu nhập hộ gia đình, nghề nghiệp, giới tính
và sự hỗ trợ của những người thân có ảnh hưởng đến
quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của họ.
Tuổi, học vấn cũng được xác định là có ảnh hưởng
đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ12,13. Thompson
và Yarnold14, cho rằng quyết định kiểm tra sức khỏe
định kỳ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phải
kể đến yếu tố thời gian chờ đợi. Evashwick và cộng
sự.15, chỉ ra rằng nhóm các biến số liên quan tới khả
năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế bao gồm
thu nhập, nghề nghiệp, bảo hiểm, khó khăn đi lại và
việc có sử dụng dịch vụ bác sĩ riêng có ảnh hưởng đến
quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ. Nghiên cứu
cũng cho thấy yếu tố nhu cầu có khả năng dự báo tốt
cho việc sử dụng các dịch vụ khám bác sĩ, nằm viện,
khám bệnh lưu động và khám bệnh tại nhà. Nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng giới tính, tuổi tác, chủng tộc, giáo
dục, thành phần gia đình, hôn nhân và việc có tham
gia các dịch vụ y tế phòng ngừa cũng là các yếu tố có
ảnh hưởng đến việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe của cá nhân. Nghiên cứu của Noguchi và Shen4
cũng chỉ ra rằng các yếu tố tác động đến sự tham gia
kiểm tra sức khỏe định kỳ bao gồm: giới tính, tuổi, thu
nhập, quy mô hộ gia đình, nghề nghiệp, quy mô dân
số, học vấn, lịch sử bệnh tật của cá nhân,... Cherring-
ton và cộng sự 3, cũng cho thấy các yếu tố ảnh hưởng
đến sự tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ bao gồm:
1051
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1050-1058
tuổi, giới tính, sắc tộc, bảo hiểm, trình độ học vấn,
tình trạng sức khỏe.
Lê Thị Hạnh và Nguyễn Thành Đức 16, đã tiến hành
một nghiên cứu về kiến thức, thái độ của người bệnh
đối với sự giáo dục sức khỏe của điều dưỡng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người bệnh có kiến thức
đúng về sự giáo dục sức khỏe của điều dưỡng đạt 66%,
tỷ lệ người bệnh có thái độ đúng là 84%. Nhóm người
bệnh có kiến thức đúng về sự giáo dục sức khoẻ của
điều dưỡng có tỷ lệ thái độ đúng cao hơn so với nhóm
người bệnh có kiến thức chưa đúng. Nghiên cứu cũng
xác định được các liên quan giữa yếu tố nghề nghiệp,
trình độ và kiến thức, thái độ của người bệnh đối với
sự giáo dục sức khỏe của điều dưỡng. Trương Công
Hiếu và cộng sự.7, chỉ ra rằng 42,6% người dân có
kiến thức chung tốt về kiểm tra sức khỏe định kỳ,
92,4% người dân cho rằng tất cả mọi người cần thực
hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ nhưng chỉ có 41,8%
người dân có thái độ chung tốt về kiểm tra sức khỏe
định kỳ. Có 21,2% người dân có tiến hành kiểm tra
sức khỏe định kỳ trong 12 tháng. Nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng kiến thức, thái độ tốt về kiểm tra sức khỏe
định kỳ là khá cao, nhưng tỷ lệ thực hiện kiểm tra
sức khỏe định kỳ còn thấp. Trình độ học vấn, nghề
nghiệp, mức thu nhập và bảo hiểm y tế là các yếu
tố liên quan đến thực hành kiểm tra sức khỏe định
kỳ. Trần Tịnh Minh Trí 8, chỉ ra rằng các yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ kiểm tra sức
khỏe định kỳ bao gồm: giới tính, trình độ học vấn,
tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, thu nhập, lịch sử
bệnh mãn tính, thời gian chờ đợi và giá dịch vụ.
Dựa trên các cơ sở lý thuyết nền liên quan đến hành vi
sức khỏe của cá nhân và các nghiên cứu thực nghiệm
liên quan, nghiên cứu đề xuất 3 nhóm yếu tố chính tác
động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ, bao
gồm: Nhóm các yếu tố thuộc về cá nhân (các yếu tố
đặc điểm nhân khẩu – xã hội), nhóm các yếu tố thuộc
về chất lượng dịch vụ, và nhóm các yếu tố thuộc về
tình trạng sức khỏe của người dân. Khung phân tích
cho nghiên cứu được thể hiện ở Hình 1.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu
Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định
kiểm tra sức khỏe định kỳ, mô hình hồi quy Binary
Logistic sau được đề xuất:
KTRA_DKi = b1+b2Gioitinhi+b3Tuoii+b4Hocvani
+b5Honnhani+b6Nghenghiepi+b7Thunhapi (1)
+b8KTRA_CPi+b9KTRA_TGi+b10Mantinhi+Ui
Trong đó, KTRA_ĐK là biến phụ thuộc, cụ thể
KTRA_ĐK là xác suất thực hiện kiểm tra sức khỏe
định kỳ. Gioitinh là giới tính, Tuoi là tuổi, Honnhan
là tình trạng hôn nhân, Nghenghiep là nghề nghiệp,
Thunhap là thu nhập, KTRA_CP là tác động của chi
phí, KTRA_TG là tác động của thời gian, Mantinh là
bệnhmãn tính, và U là sai số. Các biến trongmô hình
(1) được mô tả trong Bảng 1.
DỮ LIỆU
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu
chéo được thu thập từ một cuộc khảo sát người dân
tỉnh Khánh Hòa trong năm 2019 do người nghiên
cứu thực hiện. Một mẫu khảo sát với kích thước là
420 người dân từ 18 tuổi trở lên được phân bổ cho
8 huyện/thành phố dựa trên dân số tại tỉnh Khánh
Hòa. Việc thu thập mẫu được thực hiện theo phương
pháp thuận tiện tại các địa bànThành phốNha Trang,
Thành phố Cam Ranh, Thị xã Ninh Hòa, huyện Cam
Lâm, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Diên Khánh, và Vạn
Ninh, với thời gian phỏng vấn cho một bản câu hỏi là
15 - 20 phút. Để có thể tiếp xúc với người dân và thực
hiện phỏng vấn, người nghiên cứu đến các cơ sở khám
chữa bệnh trên địa bàn các huyện/thành phố của tỉnh
Khánh Hòa vào các ngày trong tuần (từ tháng 10 đến
tháng 12 năm 2019).
Khánh Hòa là một tỉnh thuộc Nam Trung bộ của
Việt Nam, với dân số toàn tỉnh ước khoảng 1.297.000
người. Phần lớn dân số sống tập trung ở các thành
phố, huyện, thị đồng bằng, chiếm khoảng hơn 90%
dân số toàn tỉnh. Tỉnh Khánh Hòa có hai huyện miền
núi là Khánh Sơn và Khánh Vĩnh với dân số ước tính
khoảng hơn 5%dân số toàn tỉnh. Dựa trên sự phân bố
dân số của các huyện, thị, thành phố tại tỉnh Khánh
Hòa và kích thước mẫu cho nghiên cứu là 420 quan
sát như đã đề cập ở trên, số lượng mẫu khảo sát được
phân bổ cho các địa bàn nghiên cứu được trình bày
ở Bảng 2. Một tóm tắt thống kê mô tả cho tất cả các
biến được trình bày ở Bảng 3.
KẾT QUẢNGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
Kết quả ước lượng mô hình và các tác động biên thu
được từ hồi quy Logit được trình bày trong Bảng 4.
Nhìn chung, kết quả ước lượng cho thấy hầu ... ra_cp -0,430*
(0,237)
-0,098*
(0,054)
1.ktra_tg -0,163***
(0,061)
-0,037***
(0,014)
1.mantinh 0,335**
(0,146)
0,075**
(0,033)
1.tuoi 0,114***
(0,025)
0,092***
(0,021)
Hằng số -0,020
(0,420)
Số quan sát 420
LR_Chi2(9) 41,80
Prob > Chi2 0,000
Pseudo R2 0,072
Chú thích: - Sai số chuẩn ở trong ngoặc đơn.
- (***), (**), (*) lần lượt có ý nghĩa thống kê ở mức 1%; 5%; 10%
quả này trái ngược với các nghiên trước, rằng khả
năng tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của nam
thấp hơn so với nữ 4,8,11,15. Tương tự, hệ số hồi quy
của biến tình trạng hôn nhân (honnhan) là dương và
cũng không có ý nghĩa thống kê, cho thấy giữa những
người đã lập gia đình và còn độc thân không có sự
khác nhau trong việc tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ. Kết quả này cũng trái ngược với nghiên cứu trước,
cho rằng những người đã lập gia đình thì khả năng
tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ cao hơn so với
những người chưa lập gia đình8,15. Kết quả này có
thể được giải thích là hiện nay ở Việt Nam chưa có
quy định thực hiện kiểm tra sức khỏe trước hôn nhân.
Ý thức về việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ
của người dân nói chung và những người đã lập gia
đình và chưa lập gia đình không cao. Do vậy, những
người chưa lập gia đình và những người đã lập gia
đình không có sự khác nhau trong thực hiện kiểm tra
sức khỏe định kỳ.
Hệ số hồi quy của biến nghề nghiệp (nghenghiep)
mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê cao, hàm ý
rằng quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của những
người là nông dân, ngư dân, học sinh, sinh viên, tự
kinh doanh, buôn bán, khác là thấp hơn những người
đang công tác tại cơ quan nhà nước, doanh nghiệp.
Cụ thể, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, đối
với những người làm việc trong cơ quan nhà nước,
doanh nghiệp có xác suất sử dụng dịch vụ kiểm tra
sức khỏe định kỳ cao hơn những người nông dân, học
sinh, sinh viên là 13,1%. Kết quả này cũng tương tự
các nghiên cứu trước4,8. Phát hiện này có thể được
lý giải là do các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp
thường có các chính sách phúc lợi cho người lao động
tốt hơn. Hàng năm, các doanh nghiệp, các cơ quan
nhà nước thường tổ chức cho cán bộ, công nhân, viên
chức và người lao động khám sức khỏe định kỳ. Biến
trình độ học vấn (hocvan) cũng có ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 5%, hệ số hồi quy mang dấu dương, kết
1055
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1050-1058
quả này cho thấy những người có trình độ học vấn
cao thì khả năng thực hiện quyết định kiểm tra sức
khỏe định kỳ cao hơn những người có trình độ học
vấn thấp. Hệ số tác động biên của biến học vấn là
0,143, có nghĩa là xác suất sử dụng dịch vụ kiểm tra
sức khỏe định kỳ của những người có trình độ học
vấn từ trung học phổ thông trở lên cao hơn những có
trình độ học vấn dưới trung học phổ thông là 14,3%,
với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này là
phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đó 4,13,
cũng như phù hợp với lý thuyết về hành vi sử dụng các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Điều này có thể được giải
thích là do những người có trình độ học vấn cao hơn
thường có hiểu biết, nhận thức, và xu hướng thực hiện
kiểm tra sức khỏe định kỳ tốt hơn. Hơn nữa, những
người có học vấn cao thường có xu hướng tìm kiếm và
khả năng tiếp cận thông tin y tế tốt hơn so với nhóm
còn lại.
Kết quả ước lượng mô hình cũng cho thấy hệ số hồi
quy của biến thu nhập (thunhap) mang dấu dương và
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%, ngụ ý rằng
những người có thu nhập trên 10 triệu đồng/tháng
thì khả năng tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ
cao hơn những người có thu nhập dưới 10 triệu
đồng/tháng. Với mẫu quan sát, kết quả phân tích tác
động biên cho thấy nhóm người có thu nhập trên 10
triệu đồng/tháng có xác suất sử dụng dịch vụ khám
sức khỏe định kỳ cao hơn 16% so với nhóm người có
thu nhập dưới 10 triệu đồng/tháng. Kết quả nghiên
cứu này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết kinh tế
học sức khỏe và kết quả của các nghiên trước đã chỉ
ra4,8,11. Phát hiện này cho thấy thu nhập luôn là một
trong các yếu tố quyết định đến chi tiêu của mỗi cá
nhân nói chung, trong đó có chi tiêu cho việc chăm
sóc sức khỏe của họ. Nó là một yếu tố mang tính rào
cản trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm
sóc sức khỏe. Thu nhập cao hơn giúp người dân nâng
cao khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế bởi
vì họ có thể chi trả được các chi phí y tế. Do vậy, thu
nhập cao thì người dân sẽ chú trọng hơn đến vấn đề
chăm sóc sức khỏe gia đình và cá nhân. Tương tự,
hệ số hồi quy của biến tuổi (tuoi) mang dấu dương và
có ý nghĩa thống kê cao tại mức ý nghĩa 1%, cho thấy
nhữngngười có tuổi trên 40 thì xác suất thamgia kiểm
tra sức khỏe định kỳ cao hơn so với những người dưới
40 tuổi. Những người trên 40 tuổi có xác suất kiểm tra
sức khỏe định kỳ cao hơn những người dưới 40 tuổi là
9,2%. Rõ ràng là khi tuổi càng lớn, nguy cơ mắc bệnh
cao hơn, dẫn đến việc chấp nhận kiểm tra sức khỏe
định kỳ cao hơn4.
Hệ số hồi quy của biến tác động của thời gian
(ktra_tg) và chi phí (ktra_cp) đến việc kiểm tra sức
khỏe định kỳ đềumang dấu âm và có ý nghĩa thống kê
tại mức ý nghĩa 10% và 1%, ngụ ý rằng những người
xem yếu tố thời gian chờ đợi và chi phí có tác động
đến việc khám sức khỏe định kỳ thì khả năng sử dụng
dịch vụ kiểm tra sức khỏe định kỳ thấp hơn. Cụ thể,
xác suất của nhóm người có quan tâm đến tác động
của chi phí thấp hơn nhóm người không quan tâm tới
tác động của chi phí là 9,8% và nhóm người có quan
tâm tới tác động của thời gian thấp hơn nhóm người
không quan tâm tới tác động của thời gian là 3,7%, với
điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả này cho
thấy vấn đề thời gian chờ đợi, cũng như chi phí đối với
việc sử dụng các dịch vụ khám bệnh hay kiểm tra sức
khỏe định kỳ là những rào cản làm hạn chế sự tham
gia kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Các kết
quả này cũng tương đồng với các kết quả nghiên cứu
trước đã chỉ ra 8,14. Kết quả hồi quy cũng cho thấy
hệ số hồi quy của biến có bệnh mãn tính hay không
(mantinh) mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê
tại mức ý nghĩa 5%, cho thấy rằng trong điều kiện các
yếu tố khác không đổi, khả năng tham gia kiểm tra
sức khỏe định kỳ của nhóm người có mắc bệnh mãn
tính sẽ cao hơn nhóm không mắc bệnh mãn tính là
7,5%. Điều này được hiểu rằng một khi con người
đã có bệnh thì luôn có ý thức tốt và thường xuyên
quan tâm vấn đề chăm sóc sức khỏe hơn những người
không có bệnh mãn tính. Kết quả nghiên cứu này là
phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đó 4,8, cũng
như lý thuyết kinh tế học về hành vi sức khỏe.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong nghiên cứu này, dữ liệu khảo sát người dân tại
tại Khánh Hòa được sử dụng để xác định về mặt thực
nghiệm các yếu tố quyết định sự tham gia của một cá
nhân trong việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Phù hợp
với các kết quả được chỉ ra trong các nghiên cứu trước
đây, nghiên cứu này đã phát hiện ra các thuộc tính cá
nhân ảnh hưởng đến hành vì kiểm tra sức khỏe định
kỳ. Học vấn, thu nhập cá nhân cao hơn có nhiều khả
năng thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ hơn. Hơn
nữa, khi tuổi càng cao, nguy cơ mắc bệnh càng cao,
những người lớn tuổi có xác suất kiểm tra sức khỏe
định kỳ càng cao. Những người mắc bệnh mãn tính
có xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ cao hơn so với
những người không mắc bệnh. Thêm vào đó, những
người làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước có xác suất kiểm tra sức khỏe định kỳ cao hơn so
với những người làm trong các ngành ngề khác. Mặt
khác, trái với kết quả của một số nghiên cứu trước,
nghiên cứu này xác định rằng giới tính và tình trạng
hôn nhân không có ảnh hưởng lên xác suất kiểm tra
sức khỏe định kỳ của cá nhân.
Một khẳng định quan trọng trong nghiên cứu này là
nhóm những người có quan tâm đến tác động của chi
phí và thời gian đến hành vi sức khỏe có xác suất tham
1056
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1050-1058
gia kiểm tra sức khỏe định kỳ thấp hơn so với nhóm
những người không quan tâm tới tác động của chi phí
và thời gian. Điều này cho thấy sự cần thiết phải xem
xét sự ưu tiên về thời gian, cũng như vấn đề chi phí
khi xây dựng các chính sách khuyến khích kiểm tra
sức khỏe định kỳ cho người dân.
Biết được những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc tham
gia kiểm tra sức khỏe định kỳ là rất quan trọng để
tạo ra một hệ thống và môi trường làm cho người
dân nhiều khả năng tham gia kiểm tra sức khỏe định
kỳ hơn. Thiết lập một hệ thống hiệu quả giúp mọi
người nhận thức được tình trạng sức khỏe của chính
họ thông qua việc kiểm tra sức khỏe thường xuyên có
khả năng đem lại các biện pháp hiệu quả về mặt chi
phí như duy trì sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật sẽ giúp
làm giảm bớt nhiều vấn đề liên quan đến sự phát triển
kinh tế, xã hội ở Khánh Hòa trong thời gian tới.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
THPT: Trung học phổ thông
LR_Chi2: Thống kê Chi – bình phương
Prob: Giá trị xác suất
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo.
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC
GIẢ
PhạmThànhThái và Võ Chí Nam là đồng tác giả của
bài báo này. Võ Chí Nam thực hiện khảo sát dữ liệu.
Phạm Thành Thái thực hiện xử lý, phân tích dữ liệu.
PhạmThànhThái và Võ Chí Nam cùng đóng góp vào
việc thảo luận kết quả nghiên cứu. PhạmThànhThái
tiến hành chỉnh sửa, hiệu chỉnh bài báo. Cuối cùng,
cả hai tác giả cùng tiến hành kiểm tra và chấp thuận
bài báo.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Ilesanmi OS, Omotoso B, Alele F, Amenkhienan I. Periodic
Medical Checkup: Knowledge and Practice in a Community
in South West Nigeria. International Journal of Public Health
Research. 2015;5(1):576–583.
2. Hong Kong Census and Statistics Department. Knowledge,
Attitude and Practice of Medical Checkup. Thematic House-
hold Survey Report. 2009;(41).
3. Cherrington A, Corbie-Smith G, Pathman DE. Do adults who
believe in periodic health examinations receive more clini-
cal preventive services? . Preventive Medicine. 2007;45:282–
289. PMID: 17692368. Available from: https://doi.org/10.1016/
j.ypmed.2007.05.016.
4. RikoN, Junyi S. Factors affecting participation in health check-
ups: Evidence from Japanese survey data. Health Policy.
2009;123(4):360–366. PMID: 30691696. Available from: https:
//doi.org/10.1016/j.healthpol.2018.10.013.
5. Bộ Y tế. Báo cáo tổng kết ngành Y tế năm 2019;.
6. Viện Pasteur Nha Trang. Báo cáo tổng kết ngành Y tế khu vực
miền Trung năm. 2019;.
7. Hiếu TC, Anh LHTQ, Tâm NM. Kiến thức, thái độ, thực hành
về kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân thành phố Huế
năm 2016. Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế.
2017;7(3):93–98.
8. Trí TTM. Phân tích Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm
tra sức khỏe định kỳ của người dân Tp. Hồ ChíMinh. Kinh tế và
sức khỏeMột số nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam. 2016;p.
176–191.
9. Andersen R. A behavioral model of families’ use of health ser-
vices. Research SeriesNo. 25. Center forHealthAdministration
Studies, University of Chicago Chicago. 1968;.
10. Iwasaki M, Otani T, Yamamoto S, InoueM, Hanaoka T, Sobue T,
Tsugane S. Background characteristics of basic health exami-
nation participants: the JPHC Study Baseline Survey. Journal
of Epidemiology. 2003;13(4):216–225. PMID: 12934965. Avail-
able from: https://doi.org/10.2188/jea.13.216.
11. Funahashi H, Nishida T, Okamura Y, Sakakibara H. Attributes
of non-participants aged 40-59 years in specific health check-
ups. Japanese Journal of Public Health. 2013;60(3):119–127.
12. Mitsuhashi Y, Kishi R, Eguchi T, Miyake H, Maeda N. Factors as-
sociatedwith participation inmedical checkups of the elderly
at home comparison of 3 regions with different social back-
grounds. Japanese Journal of PublicHealth. 2003;50(1):49–61.
13. Yoshida Y, Iwasa H, Kwon J, Furuna T, Kim H, Yoshida H,
Suzuki T. Characteristics of non-participants in comprehen-
sive health examinations (”Otasya-kenshin”) among an urban
community dwelling elderly: Basic research for prevention of
thegeriatric syndromeandabed-ridden state. Japanese Jour-
nal of Public Health. 2008;55(4):221–227.
14. Thompson DA, Yarnold PR. Relating satisfaction to patients’
waiting time perceptions and expectations: Testing the dis-
confirmation paradigm. Acad EmergMed. 1995;2:1057–1062.
PMID: 8597916. Available from: https://doi.org/10.1111/j.
1553-2712.1995.tb03150.x.
15. Evashwick C, Rowe G, Diehr P, Branch L. Factors explaining the
use of health care services by the elderly. Health services re-
search. 1984;19(3):357–415.
16. Hạnh LT, Đức NT. Kiến thức, thái dộ của người bệnh đối
với sự giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại khoa Y học cổ
truyền Bệnh viện Thống Nhất. Tạp chí Y học TpHồ Chí Minh.
2015;5:383–387.
17. Cục thống kê tỉnh Khánh Hòa năm 2019;.
1057
Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 4(4):1050-1058
Open Access Full Text Article Research Article
1Economic Faculty, Nha Trang
University
2Pasteur Institute of Nha Trang
Correspondence
Pham Thanh Thai, Economic Faculty,
Nha Trang University
Email: [email protected]
History
 Received: 29/07/2020 
 Accepted: 22/10/2020 
 Published: 08/11/2020
DOI :10.32508/stdjelm.v4i4.676 
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Factors affecting the decision for routine health checkup:
evidence from survey data in Khanh Hoa province
Pham Thanh Thai1,*, Vo Chi Nam2
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Routine health checkup is the simplest and most scientific method for early detection, minimizing
harm, and preventing complications of diseases. However, until now, only a fraction of the pop-
ulation is aware of its importance. Studies in the world and in Vietnam show that the proportion
of the population having routine health checkups remains modest. Understanding which factors
affect the decision to have routine health checkups is important in creating a system and environ-
ment that encourage people to have regular health checkups. The study is based on the survey
data of 420 people in Khanh Hoa province to identify the main factors affecting their decision of
routine health checkups, using the Logit regression model. The results shows that factors affecting
decisions on routine health checkups include: education level, occupation, income, age, chronic
illness, waiting time, and the impact of cost. The study also determines that gender and marital
status have no effect on regular health checkups. The results highlight the importance of taking
into consideration the priorities of time and cost when developing policies to encourage regular
health checkups in the population.
Key words: associated factors, routine health checkup, health behavior, Khanh Hoa
Cite this article : Thai P T, Nam V C. Factors affecting the decision for routine health checkup: evi-
dence from survey data in Khanh Hoa province. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(4):1050-1058.
1058

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_quyet_dinh_kiem_tra_suc_khoe_dinh_k.pdf