Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định

Tóm tắt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến năng

suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định và đề xuất các giải pháp chủ yếu

nhằm nâng cao hiệu quả nuôi tôm của các hộ trên địa bàn trong thời gian tới.

Nghiên cứu điều tra 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã trọng điểm gồm Phước Hòa, Phước Sơn,

Phước Thắng, sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để xác định các yếu tố ảnh

hưởng đến năng suất tôm nuôi theo các hình thức nuôi của các hộ điều tra. Trên cơ

sở đó, phân tích ảnh hưởng cận biên của các yếu tố đầu vào đến năng suất tôm nuôi

và xác định hiệu quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư theo hình thức nuôi tôm của

các hộ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện hiện nay để đảm bảo đạt hiệu quả

kinh tế cao, các hộ nên đầu tư nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh, tập trung

nuôi ở thời vụ chính bắt đầu từ tháng 3 đến cuối tháng 5 trong năm (vụ 1) và chỉ sử

dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng thêm thức ăn tươi.

pdf 8 trang phuongnguyen 2900
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định

Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
317 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72B, số 3, năm 2012 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT TÔM NUÔI 
Ở HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH 
Hoàng Quang Thành, Nguyễn Đình Phúc 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 
Tóm tắt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến năng 
suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định và đề xuất các giải pháp chủ yếu 
nhằm nâng cao hiệu quả nuôi tôm của các hộ trên địa bàn trong thời gian tới. 
Nghiên cứu điều tra 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã trọng điểm gồm Phước Hòa, Phước Sơn, 
Phước Thắng, sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để xác định các yếu tố ảnh 
hưởng đến năng suất tôm nuôi theo các hình thức nuôi của các hộ điều tra. Trên cơ 
sở đó, phân tích ảnh hưởng cận biên của các yếu tố đầu vào đến năng suất tôm nuôi 
và xác định hiệu quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư theo hình thức nuôi tôm của 
các hộ. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện hiện nay để đảm bảo đạt hiệu quả 
kinh tế cao, các hộ nên đầu tư nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh, tập trung 
nuôi ở thời vụ chính bắt đầu từ tháng 3 đến cuối tháng 5 trong năm (vụ 1) và chỉ sử 
dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng thêm thức ăn tươi. 
1. Đặt vấn đề 
Vốn có nhiều tiềm năng về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, trong những năm gần 
đây phong trào nuôi tôm ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định phát triển mạnh, với diện 
tích nuôi tôm từ 1.000,60 ha năm 2008 tăng lên 1.030,60 ha năm 2010, nâng sản lượng 
tôm nuôi từ 580 tấn lên đến 1.594,5 tấn năm 2010 với hai hình thức nuôi chủ yếu là quảng 
canh cải tiến và bán thâm canh, tổng số hộ tham gia nuôi tôm lên đến 1073 hộ, năng suất 
bình quân hằng năm đạt từ 3,7- 4,5 tấn/ha [1], góp phần quan trọng trong việc xóa thế độc 
canh cây lúa, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng về đất đai, vốn, lao động, gia 
tăng khối lượng sản phẩm tôm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, tạo việc làm và 
tăng thêm thu nhập cho người lao động, từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên, 
do phát triển còn mang tính tự phát, đầu tư thâm canh thiếu đồng bộ, các hộ nuôi tôm còn 
lung túng trong tổ chức sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư mở 
rộng sản xuất kinh doanh v.v nên năng suất và hiệu quả nuôi tôm còn thấp, chưa tương 
xứng với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu phát triển [3]. 
Chính vì vậy, nhận diện các yếu tố và xác định chính xác ảnh hưởng của chúng 
đến năng suất cũng như kết quả và hiệu quả nuôi tôm, để từ đó đề xuất định hướng và các 
318 
giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả và phát triển nuôi tôm của các hộ trên địa bàn 
trong thời gian tới là việc làm có tính cấp thiết. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Ngoài các thông tin, số liệu thứ cấp được thu thập từ các sở, ban ngành và cơ quan 
quản lý ở địa phương, nghiên cứu thực hiện điều tra khảo sát 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã: Phước 
Hòa, Phước Sơn và Phước Thắng vào năm 2010. Mỗi xã chọn 30 hộ để điều tra, phương 
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên không lặp lại, sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas phân tích 
các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi theo hình thức nuôi của các hộ. 
3 5 1 1 2 2 3 31 2 4α α (β D + β D + β D + )α α α
1 2 3 4 5
εY = A.X .X .X .X .X .e 
Logarit hóa hai vế của phương trình trên được phương trình tuyến tính theo các 
tham số α, β như sau: 
1 1 2 2 3 3 4 4 5 5 1 1 2 2 3 3LnY = LnA + αLnX + α LnX + α LnX + α LnX + α LnX + β D+ β D + β D + ε 
Trong đó, Y: Năng suất tôm nuôi (tấn/ha); X1: Mật độ thả giống (vạn con/ha); 
X2 : Số lượng thức ăn công nghiệp (tấn/ha); X3: Số lượng thức ăn tươi (tấn/ha); X4: Số 
ngày công lao động (ngày công/ha); X5: Số năm kinh nghiệm sản xuất (năm); 
iα (i = 1 5): Các hệ số ảnh hưởng của các biến độc lập Xi đến năng suất tôm nuôi; 
iβ (i = 1 3): Các hệ số hồi quy cần được ước lượng của mô hình; D1: Hình thức nuôi 
(D1 = 1: Hình thức BTC; D1 = 0: Hình thức QCCT); D2: Kiểm dịch (D2 = 1: Giống 
được kiểm dịch; D2 = 0: Giống chưa được kiểm dịch); D3: Xử lý ao nuôi (D3 = 1: Ao 
nuôi được xử lý; D3 = 0: Ao nuôi chưa được xử lý); ε: Sai số ngẫu nhiên của mô hình, 
đại diện cho các nhân tố không được đưa vào mô hình. 
 Trên cơ sở đó, phân tích ảnh hưởng cận biên của các yếu tố đầu vào đến năng 
suất tôm nuôi và xác định hiệu quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư cụ thể theo hình thức 
nuôi tôm của các hộ. 
3. Kết quả và thảo luận 
Qua điều tra 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã của huyện Tuy Phước, cho thấy có 49 hộ nuôi 
tôm hình thức BTC, 41 hộ nuôi tôm hình thức QCCT. Bình quân diện tích nuôi tôm của 1 
hộ điều tra là 1,38 ha; tương ứng đầu tư 59,04 triệu đồng cho TSCĐ; 42,35 triệu đồng vốn 
XDCB và vốn vay mượn là 32,55 triệu đồng. Bình quân mỗi hộ nuôi tôm cần 4,47 nhân 
khẩu; 2,73 lao động; tuổi đời bình quân của chủ hộ là 46,38 tuổi; trình độ văn hóa của chủ 
hộ là trên lớp 8; số năm kinh nghiệm nuôi tôm của chủ hộ là 7,04 năm. Năng suất tôm 
nuôi bình quân trong 1 vụ ở hình thức BTC đạt 3,71 (tấn/ha), QCCT đạt 1,91 (tấn/ha). 
Bằng phương pháp ước lượng mô hình hồi quy OLS (Ordinary Least Square) 
ở Bảng 1, cho kết quả kiểm định mô hình đối với vụ nuôi tôm 1 và 2 lần lượt với F = 
64,495 và F = 56,466 tại mức ý nghĩa thống kê 99%. 
319 
Bảng 1. Kết quả ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi 
Vụ 1 Vụ 2 
Các biến và hệ số 
Coefficients Sig. Coefficients Sig. 
Hằng số (C) - 0,885 0,001 - 0,574 0,015 
LnX1 - Ln(Mật độ giống) 0,042 0,041 0,037 0,081 
LnX2 - Ln(Thức ăn CN) 0,125 0,000 0,118 0,001 
LnX3 - Ln(Thức ăn tươi) - 0,088 0,000 - 0,089 0,000 
LnX4 - Ln(Lao động) 0,252 0,000 0,203 0,000 
LnX5 - Ln(Kinh nghiệm) 0,297 0,003 0,228 0,005 
 D1 - Hình thức nuôi 0,071 0,072 0,091 0,025 
 D2 - Kiểm dịch 0,099 0,090 0,104 0,088 
 D3 - Xử lý ao nuôi 0,161 0,010 0,163 0,006 
 F - Statistic 64,495 0,000 56,466 0,000 
 R2 0,864 0,848 
 R2 điều chỉnh 0,851 0,833 
 Số quan sát (N) 90 90 
Kết quả kiểm định cho thấy, mô hình đưa ra là hoàn toàn phù hợp với thực tế 
tại mức ý nghĩa thống kê 99%. Có tới 86,4% sự thay đổi về năng suất tôm nuôi đối 
với vụ 1 và 84,80% đối với vụ 2 là do sự thay đối của các biến trong mô hình tạo ra. 
Các biến độc lập trong mô hình đối với vụ 1 như: Mật độ giống, Thức ăn công 
nghiệp (CN), Lao động, Kinh nghiệm, Hình thức nuôi, Kiểm dịch, Xử lý ao nuôi đều 
có hệ số hồi quy dương và có mức ý nghĩa thống kê 90%, 95% và 99%. Riêng hệ số 
hồi quy của biến thức ăn tươi mang dấu âm, với mức ý nghĩa thống kê 99%. Như vậy, 
các biến: Mật độ giống, Thức ăn CN, Lao động, Kinh nghiệm, Hình thức nuôi, Kiểm 
dịch, Xử lý ao nuôi đều có ảnh hưởng theo hướng làm tăng năng suất tôm nuôi của 
các hộ, riêng biến Thức ăn tươi làm giảm năng suất tôm nuôi. 
Ở vụ 2 các biến độc lập nói trên cũng đều mang dấu dương và có các mức ý 
nghĩa thống kê tương ứng là 90%, 95% và 99%. Hệ số hồi quy của biến thức ăn tươi 
cũng mang dấu âm với mức ý nghĩa thống kê 99%, tương tự cho phép kết luận các 
biến: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Lao động, Kinh nghiệm, Hình thức nuôi, 
Kiểm dịch, Xử lý ao đều có ảnh hưởng làm tăng năng suất tôm nuôi, đối với biến 
Thức ăn tươi lại làm giảm năng suất tôm nuôi. 
Hàm sản xuất Cobb – Douglas ứng với từng vụ nuôi và hình thức nuôi có dạng: 
320 
Vụ 1 với hình thức nuôi quảng canh cải tiến (QCCT): 
2 3[0,099D + 0,161D ](0,042) (0,125) (- 0,088) (0,252) (0,297)
1 2 3 4 5Y = (0,413).X .X .X .X .X .e 
Vụ 1 với hình thức nuôi bán thâm canh (BTC): 
2 3[0,071+ 0,099D + 0,161D ](0,042) (0,125) (- 0,088) (0,252) (0,297)
1 2 3 4 5Y = (0,413).X .X .X .X .X .e 
Vụ 2 với hình thức nuôi quảng canh cải tiến (QCCT): 
2 3[0,104D + 0,163D ](0,037) (0,118) (- 0,089) (0,203) (0,228)
1 2 3 4 5Y = (0,563).X .X .X .X .X .e 
Vụ 2 với hình thức nuôi bán thâm canh (BTC): 
2 3[0,091+ 0,104D + 0,163D ](0,037) (0,118) (- 0,089) (0,203) (0,228)
1 2 3 4 5Y = (0,563).X .X .X .X .X .e 
Trong các yếu tố đưa vào mô hình làm tăng năng suất tôm nuôi ở vụ 1 của cả 2 
hình thức nuôi QCCT và BTC thì yếu tố Số năm kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ có 
tác động ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất tôm nuôi so với các yếu tố còn lại, khi số 
năm kinh nghiệm của chủ hộ tăng thêm 1% so với mức trung bình thì năng suất tôm 
nuôi của hộ sẽ tăng thêm tương ứng là 0,297%, với điều kiện cố định các yếu tố khác. 
Riêng biến Thức ăn tươi có tác động làm giảm năng suất tôm nuôi đáng kể. Cụ thể là, 
trong điều kiện cố định các yếu tố khác, khi lượng thức ăn tươi tăng thêm 1% so với 
mức trung bình thì năng suất tôm nuôi của hộ sẽ giảm đi 0,088% ở cả 2 hình thức nuôi 
đối với vụ 1. Ở vụ 2 đối với cả 2 hình thức nghiên cứu cũng cho thấy kết quả tương tự. 
Trong điều kiện cố định các yếu tố khác, khi số năm kinh nghiệm của chủ hộ tăng thêm 
1% so với mức trung bình thì thì năng suất tôm nuôi của hộ sẽ tăng thêm 0,228%; khi 
tăng lượng thức ăn tươi thêm 1% so với mức trung bình thì năng suất giảm đi tương ứng 
là 0,089%. 
Bảng 2. Năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào nuôi tôm 
Năng suất cận biên MPXi (tấn/ha) 
Vụ 1 Vụ 2 
Yếu tố đầu vào 
(Xi) 
ĐVT (X )i 
QCCT BTC QCCT BTC 
X1 - Mật độ giống 
Vạn 
con/ha 
42,16 0,0019 0,0037 0,0017 0,0032 
X2 - Thức ăn CN Tấn/ha 3,36 0,0709 0,1377 0,0668 0,1298 
X3 - Thức ăn tươi Tấn/ha 0,83 
- 
0,2024 
-0,3932 -0,2038 -0,3959 
X4 - Lao động Công/ha 165,87 0,0029 0,0056 0,0023 0,0045 
X5 - Kinh nghiệm Năm 7,04 0,0806 0,1566 0,0618 0,1200 
321 
Qua các hàm sản xuất được thiết lập ứng với từng vụ nuôi và hình thức nuôi trên 
đây, chúng ta sẽ xác định được năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào tương ứng có 
trong mô hình ở Bảng 2, trên cơ sở đó xác định được mức độ đầu tư các yếu tố đầu vào 
nuôi tôm của các hộ điều tra để làm cơ sở xác định mức thu nhập tăng thêm (MPVXi) khi 
tăng thêm các yếu tố đầu vào đó. 
Kết quả tính toán ở Bảng 2 cho thấy, cả 2 vụ nuôi năng suất cận biên của các yếu 
tố đầu vào như: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Lao động và Kinh nghiệm của chủ 
hộ đều mang dấu dương (tức làm tăng năng suất tôm), năng suất cận biên của thức ăn tươi 
là âm (làm giảm năng suất tôm nuôi). 
Giả định rằng, trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào khác như: Mật độ giống 
(42,16 vạn con/ha), thức ăn công nghiệp (3,36 tấn/ha), thức ăn tươi (0,83 tấn/ha), công lao 
động (165,87 ngày công/ha), kinh nghiệm (7,04 năm) ở mức trung bình. Nếu tính bình 
quân trong 1 vụ, các hộ nuôi tôm tăng đầu tư thêm 1 vạn con giống/ha so với mức trung 
bình như hiện tại thì năng suất tôm nuôi ở vụ 1 sẽ tăng tương ứng là 0,0019 tấn/ha đối với 
hình thức nuôi quảng canh cải tiến (QCCT) và 0,0037 tấn/ha đối với hình thức nuôi bán 
thâm canh (BTC). Tương tự cho vụ 2, trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào khác 
cũng ở mức trung bình, nếu các hộ nuôi tôm tăng đầu tư thêm 1 vạn con giống/ha thì năng 
suất tôm nuôi sẽ tăng lên 0,0017 tấn/ha đối với hình thức nuôi QCCT và 0,0032 tấn/ha đối 
với trường hợp nuôi BTC. Việc xác định năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào khác 
như: Thức ăn công nghiệp, Công lao động, Số năm kinh nghiệm của hộ cũng cho kết quả 
tương tự đều làm cho năng suất cận biên dương, thể hiện năng suất tôm nuôi tăng lên 
tương ứng cho cả hai hình thức nuôi QCCT, BTC ở cả vụ 1 và 2 (Bảng 2). Nhưng đối với 
thức ăn tươi thì cho kết quả ngược lại, tức là năng suất cận biên sẽ âm. Cụ thể, khi cố định 
các yếu tố đầu vào khác ở mức trung bình, nếu chủ hộ nuôi tôm tăng thêm 1 tấn thức ăn 
tươi/ha so với mức trung bình là 0,83 tấn/ha thì năng suất tôm nuôi ở vụ 1 giảm đi 0,2024 
tấn/ha đối với hình thức nuôi QCCT và 0,3932 tấn/ha đối với nuôi BTC; năng suất tôm 
nuôi ở vụ 2 cũng sẽ giảm 0,2038 tấn/ha đối với hình thức nuôi QCCT và giảm 0,3959 
tấn/ha đối với nuôi BTC. Mặc dù các hộ thường cố gắng tăng lượng thức ăn tươi nhằm 
tăng năng suất tôm nuôi, tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy kết quả mà các hộ thu được 
thì lại ngược lại. Nguyên nhân của thực trạng này có thể được lý giải là: khác với thức ăn 
công nghiệp, khi sử dụng nhiều thức ăn tươi sẽ dễ gây ô nhiễm môi trường nước, gây dịch 
bệnh cho tôm nuôi trong ao [2]. Vì thế, sử dụng nhiều thức ăn tươi để nuôi tôm là không 
tốt và kết quả là sẽ làm giảm năng suất tôm nuôi của hộ. 
Giá trị sản phẩm cận biên (MPVXi) của từng yếu tố đầu vào được thể hiện qua số 
liệu được tính toán ở Bảng 3. Đây chính là phần giá trị sản phẩm tăng thêm của hộ nuôi tôm 
khi yếu tố đầu vào Xi tăng thêm 1 đơn vị. 
322 
Bảng 3. Giá trị sản phẩm cận biên của các yếu tố đầu vào nuôi tôm 
(ĐVT:Triệu đồng/ha) 
Giá trị sản phẩm cận biên (MPVXi) 
Vụ 1 Vụ 2 
Yếu tố đầu vào 
(Xi) 
QCCT BTC QCCT BTC 
X1 - Mật độ giống 0,16 0,31 0,12 0,23 
X2 - Thức ăn CN 5,88 11,41 4,82 9,36 
X3 - Thức ăn tươi -16,77 -32,58 -14,70 -28,55 
X4 - Lao động 0,24 0,47 0,17 0,33 
X5 - Kinh nghiệm 6,68 12,98 4,46 8,66 
Với năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào nói trên, giá trị sản phẩm cận biên 
của yếu tố Số năm kinh nghiệm đối với hình thức nuôi BTC có giá trị cao nhất ở cả 2 vụ 
nuôi lần lượt là 12,98 triệu đồng/ha; 8,66 triệu đồng/ha; nghĩa là khi số năm kinh nghiệm ở 
hình thức nuôi này của chủ hộ tăng thêm 1 năm thì mức thu nhập của chủ hộ tăng thêm 
tương ứng là 12,98 triệu đồng/ha (vụ 1) và 8,66 triệu đồng/ha (vụ 2). Ở hình thức nuôi 
QCCT khi số năm kinh nghiệm của chủ hộ tăng thêm 1 năm thì thu nhập của chủ hộ 
tăng thêm tương ứng là 6,68 triệu đồng/ha (vụ 1); 4,46 triệu đồng/ha (vụ 2). Giá trị sản 
phẩm cận biên của các yếu tố đầu vào khác cũng được phân tích tương tự như trên. 
Riêng đối với Thức ăn tươi, do năng suất cận biên của yếu tố này là âm ở cả 2 
vụ và đối với cả 2 hình thức nuôi nên nếu các hộ nuôi tôm tăng thêm lượng thức ăn tươi 
1 tấn/ha thì mức thu nhập của hộ ở hình thức BTC sẽ giảm 32,58 triệu đồng/ha (vụ 1); 
28,55 triệu đồng/ha (vụ 2) và hình thức QCCT sẽ giảm 16,77 triệu đồng/ha (vụ 1); 
14,70 triệu đồng/ha (vụ 2). 
Để có các đề xuất đúng đắn về việc sử dụng các yếu tố đầu vào, cần xác định 
chênh lệch giữa giá trị sản phẩm cận biện (MPVXi) và đơn giá đầu vào của các yếu tố 
tăng thêm (PXi). Kết quả tính toán đối với các hình thức nuôi ở các vụ cho thấy: với giá 
tôm bình quân của các hộ điều tra 77,49 nghìn đồng/kg, ở vụ 1 nếu tăng thêm 1 vạn con 
giống/ha sau khi trừ đi chi phí 0,14 triệu đồng (giá bình quân 1 vạn con giống), hộ còn 
lợi được 0,04 triệu đồng/ha nếu nuôi QCCT; 0,25 triệu đồng/ha nếu nuôi BTC. 
Tương tự ở vụ 2 nếu hộ tăng thêm 1 vạn con giống/ha sau khi trừ đi chi phí 
giống, hộ còn lợi 0,02 triệu đồng/ha nếu nuôi QCCT; 0,06 triệu đồng/ha nếu nuôi BTC. 
Phân tích hiệu quả kinh tế nếu tăng thêm đầu tư thức ăn CN, công lao động cũng hoàn 
toàn tương tự. Riêng đối với thức ăn tươi, do giá trị sản phẩm cận biên của biến này là 
âm ở cả hai hình thức nuôi nên nếu tăng thêm 1 tấn thức ăn tươi/ha, sau khi trừ đi chi 
phí 1,05 triệu đồng/ha thì vụ 1 hộ sẽ lỗ 17,82 triệu đồng/ha nếu nuôi QCCT; 32,94 triệu 
323 
đồng/ha nếu nuôi BTC. Đối với vụ 2 ở các hình thức mức lỗ cũng tương ứng là 15,82 
triệu đồng/ha nuôi QCCT; 25,84 triệu đồng/ha nuôi BTC. 
Qua kết quả nghiên cứu còn cho thấy, trong hai hình thức nuôi tôm hiện đang 
được các hộ trên địa bàn áp dụng thì hình thức BTC tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn nuôi 
QCCT, nhờ tiết kiệm được diện tích nuôi trồng, dễ áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăn 
nuôi tiên tiến. Đối với hình thức nuôi BTC thì năng suất tôm nuôi bình quân đạt 3,71 
tấn/ha, cao hơn 94,24% so với nuôi tôm QCCT; giá trị gia tăng đạt 96,44 triệu đồng/ha, 
cao hơn 86,89% so với nuôi QCCT, thu nhập hỗn hợp đạt 70,04 triệu đồng/ha, cao hơn 
88,36% so với nuôi QCCT. Về hiệu quả sử dụng chi phí, cứ 1 đồng chi phí trung gian 
đầu tư nuôi tôm cho cả 2 hình thức thì nuôi tôm BTC mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn 
so với nuôi tôm QCCT là 0,19 đồng về GO; 0,19 đồng về VA và 0,14 đồng về MI. 
Để nuôi tôm ở huyện Tuy Phước thật sự đạt hiệu quả kinh tế thì các hộ cần lựa 
chọn hình thức nuôi phù hợp với mức độ đầu tư thâm canh, tăng đầu tư thêm giống, 
tăng sử dụng thức ăn công nghiệp, tăng lao động chăm sóc và xử lý ao hồ, tăng học hỏi 
kinh nghiệm, không dùng thức ăn tươi để nuôi tôm. Ngoài ra, để tăng năng suất tôm 
nuôi thì các hộ nên lựa chọn con giống có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, giống đã qua 
kiểm dịch, đầu tư xây dựng đầy đủ hệ thống kênh mương cấp thoát nước riêng, bảo vệ 
môi trường nước trong ao và môi trường xung quanh, thường xuyên theo dõi quan trắc 
môi trường [4]. Nếu thực hiện tốt các vấn đề nêu trên chắc chắn năng suất tôm nuôi của 
các hộ sẽ tăng lên, không những mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần đảm bảo 
tính bền vững về môi trường sinh thái. 
4. Kết luận 
Năng suất và hiệu quả nuôi tôm của các hộ ở huyện Tuy Phước chịu ảnh hưởng 
của nhiều yếu tố khác nhau: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Thức ăn tươi, Công 
lao động, Kinh nghiệm sản xuất, v.v... Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp 
OLS cho thấy trong tất cả các yếu tố làm tăng năng suất tôm nuôi thì kinh nghiệm sản 
xuất là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất. Riêng yếu tố Thức ăn tươi có tác động làm giảm 
năng suất và hiệu quả tôm nuôi. 
Như vậy, trong điều kiện thực tiễn hiện nay để nâng cao năng suất tôm nuôi và 
đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, các hộ nên đầu tư nuôi tôm theo hình thức BTC, chỉ 
nên tập trung nuôi ở vụ 1 và chỉ nên sử dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng thức 
ăn tươi. Điều này không chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn góp 
phần đảm bảo phát triển bền vững nghề nuôi tôm – một trong những nghề có vai trò đặc 
biệt quan trọng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của địa phương. 
324 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chi cục Nuôi trồng thủy sản Bình Định. Báo cáo tổng kết hội nghị nuôi tôm năm 2011, 
Bình Định, 2011. 
2. Nguyễn Quang Đăng. Các vấn đề về sản xuất và thương mại tôm, nuôi tôn trên cát và 
những vấn đề đặt ra, Bộ Thủy sản, 2002 
3. Sở NN & PTNT Bình Định. Báo cáo tại Hội nghị tổng kết nuôi tôm nước lợ tỉnh Bình 
Định, 2010. 
4. Trung tâm tin học, Bộ Thủy Sản. Thông tin chuyên đề, Phát triển nuôi tôm bền vững, 
2/2005. 
DETERMINANTS OF SHRIMP FARMING'S PRODUCTIVITY 
IN TUY PHUOC DISTRICT, BINH DINH PROVINCE 
Hoang Quang Thanh, Nguyen Dinh Phuc 
College of Economics, Hue University 
Abstract. The paper aims to present results of the study on factors determining the 
productivity of shrimp farming in Tuy Phuoc district, Binh Dinh province and to 
propose essential solutions for raising the productivity of household's shrimp 
farming in the area. We conducted a survey of 90 households in three focused 
communes including Phuoc Hoa, Phuoc Son, Phuoc Thang. Using production 
function approach, the paper identifies factors that determine the productivity of 
shrimp farming with different farming methods. The paper then analyzes marginal 
products of inputs that determined the shrimp farming's productivity and identifies 
economic efficiency of households' shrimp farming. Results show that in the 
current situation, in order to obtain high economic efficiency, households should 
invest in semi-intensive aquaculture method, focus on one farming season and only 
use processed feeds; they should not use additional fresh feeds. 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_nang_suat_tom_nuoi_o_huyen_tuy_phuo.pdf