Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng công bố thông tin (CBTT)

tài chính và các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các công ty

niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE). Tác giả

sử dụng các chỉ số đo lường mức độ CBTT và mô hình hồi quy để

đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong báo cáo tài

chính (BCTC) của 99 công ty niêm yết trên HOSE. Kết quả phân

tích cho thấy: (i) Mức độ CBTT trong BCTC của các công ty niêm

yết không cao; và (ii) Các yếu tố quy mô, tỉ lệ sở hữu của cổ đông

nước ngoài, công ty kiểm toán, mức độ sinh lời và thời gian niêm yết

của doanh nghiệp tác động đến mức độ công bố. Bên cạnh đó, một

số yếu tố có ý nghĩa trong các nghiên cứu trước đây trên thế giới như

tỉ lệ sở hữu của nhà nước, đòn bẩy tài chính, quản trị công ty, số

công ty con, lĩnh vực hoạt động, khả năng thanh toán, thị trường

niêm yết và tính phức tạp của hoạt động kinh doanh không ảnh

hưởng đến mức độ CBTT của các công ty nghiên cứu.

pdf 19 trang phuongnguyen 5540
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết

Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính của công ty niêm yết
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 15 
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố 
thông tin tài chính của công ty niêm yết 
Nguyễn Công Phương 
Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, Đại học Đà Nẵng - phuong.nc@due.edu.vn 
Nguyễn Thị Thanh Phương 
Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng - thanhphuong0408@gmail.com 
Ngày nhận: 
 11/10/2013 
Ngày nhận lại: 
 03/09/2014 
Ngày duyệt đăng: 
 10/09/2014 
Mã số: 
 10-13-CF-09 
Tóm tắt 
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thực trạng công bố thông tin (CBTT) 
tài chính và các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các công ty 
niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE). Tác giả 
sử dụng các chỉ số đo lường mức độ CBTT và mô hình hồi quy để 
đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trong báo cáo tài 
chính (BCTC) của 99 công ty niêm yết trên HOSE. Kết quả phân 
tích cho thấy: (i) Mức độ CBTT trong BCTC của các công ty niêm 
yết không cao; và (ii) Các yếu tố quy mô, tỉ lệ sở hữu của cổ đông 
nước ngoài, công ty kiểm toán, mức độ sinh lời và thời gian niêm yết 
của doanh nghiệp tác động đến mức độ công bố. Bên cạnh đó, một 
số yếu tố có ý nghĩa trong các nghiên cứu trước đây trên thế giới như 
tỉ lệ sở hữu của nhà nước, đòn bẩy tài chính, quản trị công ty, số 
công ty con, lĩnh vực hoạt động, khả năng thanh toán, thị trường 
niêm yết và tính phức tạp của hoạt động kinh doanh không ảnh 
hưởng đến mức độ CBTT của các công ty nghiên cứu. 
Abstract 
This paper studies the extent of disclosure and factors influencing 
the disclosure in the financial statements of listed companies on 
HOSE. Based on 99 companies listed on HOSE, the disclosure 
indexes and regression model are employed to measure the 
disclosure. The results demonstrate that: (i) The extent of disclosure 
is not high, and (ii) The extent of disclosure is significantly 
influenced foreign shareholdings, size, profitability, age, and 
auditing companies. Otherwise, such other factors as state 
shareholding, financial leverage, firm management, number of 
subsidiaries, industry type, liquidity, listed market, and complexity 
of business identified in previous studies do not affect the extent of 
disclosure. 
Từ khóa: 
Công bố thông tin, chỉ số 
CBTT, yếu tố ảnh hưởng. 
Keywords: 
Disclosure, disclosure 
indexes, determinants 
16 | Nguyễn Công Phương & Nguyễn Thị Thanh Phương | 15 - 33  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
CBTT nói chung và thông tin kế toán nói riêng của các công ty niêm yết trong thời 
gian qua là một chủ đề có tính thời sự. Công bố ít thông tin hay che dấu thông tin làm 
cho thị trường chứng khoán kém minh bạch. Từ đó, người tham gia thị trường sẽ phải 
sử dụng các phương thức không trung thực để có được thông tin hoặc đầu cơ dựa vào 
tin đồn. Để bảo đảm số lượng và chất lượng thông tin tài chính công bố ra công chúng, 
BCTC phải được thiết lập trong chuẩn mực và chế độ kế toán. Mặc dù Ủy ban Chứng 
khoán có quy định về CBTT, nhưng nhiều công ty vẫn CBTT tài chính không đầy đủ, 
không kịp thời. Ví dụ: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã đình chỉ đợt chào bán cổ 
phiếu ra công chúng của CTCP Dược phẩm Viễn Đông (DVD) do doanh nghiệp này 
báo cáo một số thông tin sai lệch và bỏ sót các thông tin quan trọng trong Bản cáo bạch 
chào bán cổ phiếu. 
Nghiên cứu CBTT của doanh nghiệp là một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà 
nghiên cứu cũng như những nhà chuyên môn, và nhà hoạch định chính sách. Trên thế 
giới, nghiên cứu về CBTT bắt đầu được thực hiện từ hai thập niên trước. Ở nước ta, 
mới xuất hiện một số nghiên cứu ban đầu ở các khía cạnh khác nhau của CBTT doanh 
nghiệp, ví dụ: nghiên cứu của Đoàn Nguyễn Trang Phương (2010); và nghiên cứu của 
Nguyễn Công Phương (2012)... Tuy nhiên, kết luận của các nghiên cứu này có một số 
điểm trái chiều. Mặt khác, một số yếu tố về tỉ lệ sở hữu và quản trị công ty chưa được 
xem xét để đánh giá ảnh hưởng của nó đến mức độ CBTT tài chính của doanh nghiệp. 
Do vậy, mở rộng hướng nghiên cứu này thông qua nhận diện đầy đủ hơn các yếu tố có 
ảnh hưởng đến mức độ CBTT để đánh giá thực trạng CBTT của các công ty niêm yết 
là thật sự cần thiết. Qua đó giúp cho các nhà hoạch định chính sách có điều chỉnh hợp 
lí nhằm tăng cường chất lượng CBTT cũng như giúp cho cổ đông nhận thấy cần tăng 
cường quản trị công ty nhằm nâng cao tính minh bạch của CBTT. 
2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH 
2.1. Cơ sở lí thuyết 
Quy trình, nội dung CBTT trong BCTC được quy định trong chuẩn mực kế toán về 
lập và trình bày BCTC, và quy định của Ủy ban Chứng khoán. Tuy nhiên, việc trình bày 
và CBTT trong BCTC theo cách chi tiết hay tinh gọn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. 
Ngoài những yêu cầu có tính pháp lí về CBTT, các nhà nghiên cứu đã vận dụng các lí 
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 17 
thuyết về công ty để giải thích các yếu tố có ảnh hưởng đến CBTT của doanh nghiệp 
(Urquiza & cộng sự, 2010). 
Lí thuyết đại diện (Agency Theory) 
Lí thuyết đại diện định nghĩa mối quan hệ đại diện như một hợp đồng, theo đó một 
hay nhiều người (quan trọng) cam kết với một người khác (đại diện) thực hiện một vài 
dịch vụ nhân danh họ (Jensen & Meckling, 1976). Sự xung đột giữa chủ sở hữu và 
người đại diện có thể được hạn chế bằng cách công bố chi tiết, minh bạch thông tin về 
công ty. Một vài yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT có liên quan đến lí thuyết đại 
diện là quy mô, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời, tình trạng niêm yết, và cơ cấu quản 
lí của doanh nghiệp. 
Lí thuyết tín hiệu (Signalling Theory) 
Lí thuyết tín hiệu chỉ ra rằng thông tin không cân xứng giữa công ty và nhà đầu tư 
dẫn đến sự lựa chọn bất lợi cho nhà đầu tư. Để tránh tình huống này, các công ty tự 
nguyện CBTT và đưa các tín hiệu tích cực ra thị trường (Watts & Zimmerman, 
1986). Cũng theo lí thuyết này, các công ty càng lớn thì sự mất cân đối thông tin càng 
nhiều. Ngoài ra, các công ty có mức sinh lời cao hơn sẽ có xu hướng CBTT nhiều hơn 
để cung cấp tín hiệu tích cực cho các nhà đầu tư về triển vọng tăng trưởng, từ đó tác 
động tích cực đến giá cổ phiếu của công ty (Giner, 1997). 
Lí thuyết về ảnh hưởng chính trị (Political Theory) 
Lí thuyết về ảnh hưởng chính trị cho rằng quản lí nhà nước đưa ra những quy định, 
quyết định có liên quan đến lợi ích của công ty (chính sách thuế, hạn chế độc quyền, 
cạnh tranh,) dựa trên thông tin được công bố bởi các công ty. Từ đó, các công ty sẽ ý 
thức được việc CBTT nhiều hơn để hạn chế chi phí chính trị này. Theo lí thuyết này, 
các công ty lớn, mức độ sinh lời cao phải chịu chi phí chính trị cao hơn, nên tự nguyện 
CBTT nhiều hơn (Watts & Zimmerman, 1986). 
Lí thuyết chi phí sở hữu (Proprietary Cost Theory) 
Chi phí sở hữu được xem xét như một hạn chế quan trọng của việc CBTT. Việc 
CBTT nhiều hơn cho nhà đầu tư có thể làm tổn hại đến vị thế cạnh tranh của công ty 
trên thị trường. Darrough (1993) lập luận các công ty hạn chế CBTT để tránh làm giảm 
vị thế cạnh tranh của họ mặc dù chi phí huy động vốn có thể cao hơn. Các nghiên cứu 
trước đây cũng xem xét chi phí bắt nguồn từ việc tập hợp và chuẩn bị thông tin là một 
cản trở trong việc tự nguyện tiết lộ nhiều hơn thông tin. Theo lí thuyết này, quy mô và 
18 | Nguyễn Công Phương & Nguyễn Thị Thanh Phương | 15 - 33  
mức sinh lời khuyến khích các công ty công bố nhiều thông tin hơn để giảm các chi phí 
này. 
2.2. Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu 
Căn cứ vào cơ sở lí thuyết và kết quả nghiên cứu thực nghiệm về những yếu tố ảnh 
hưởng đến mức độ CBTT của công ty, các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng như 
sau: 
Các yếu tố thuộc về quản trị công ty 
Tỉ lệ thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) không điều hành của công ty 
Theo Fama (1983), các thành viên HĐQT có vai trò giảm bớt mâu thuẫn đại diện 
giữa chủ sở hữu và nhà quản trị, và thực hiện các kiểm tra cần thiết để nâng cao hiệu 
quả của HĐQT. Như vậy, kì vọng rằng chi phí đại diện sẽ giảm đi và mức độ công bố 
tăng nếu tăng tỉ lệ số thành viên HĐQT không điều hành tại công ty. Từ đó, nghiên cứu 
đưa ra giả thuyết: 
H1: Tỉ lệ thành viên HĐQT không điều hành càng cao thì mức độ CBTT tài chính 
càng lớn. 
Chức danh chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc do cùng một người đảm nhận 
Theo lí thuyết đại diện, kiêm nhiệm làm giảm đáng kể vai trò kiểm soát và tăng khả 
năng thoả thuận mức thưởng cho các nhà quản trị cấp cao (Barako, 2007). Ngoài ra, 
người kiêm nhiệm dễ dàng thống trị quyền lực và thực hiện những hành vi cơ hội, 
nguy hại cho các cổ đông khác. Do đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H2: Việc kiêm nhiệm sẽ làm giảm mức độ CBTT tài chính của doanh nghiệp. 
Quy mô HĐQT công ty 
Số lượng thành viên của HĐQT càng lớn thì năng lực kiểm soát và ra quyết định 
càng cao đồng thời tránh được sự tập trung quyền lực vào một vài nhân vật then chốt. 
Như vậy quyền lợi của cổ đông không có mặt trong HĐQT được bảo vệ ở mức cao 
hơn, từ đó mức CBTT sẽ tăng. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H3: HĐQT càng nhiều thành viên thì mức độ CBTT càng lớn. 
Ban kiểm soát 
Theo McMullen (1996), Ban kiểm soát đóng vai trò quan trọng trong việc tăng độ 
tin cậy của BCTC. Thông qua những giải pháp và ràng buộc nhằm hạn chế các sai sót 
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 19 
kỹ thuật, hành vi bất hợp pháp và dấu hiệu của một BCTC thiếu tin cậy sẽ được nhận 
biết. Do đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H4: Sự tồn tại của Ban kiểm soát làm gia tăng mức độ CBTT. 
Các yếu tố thuộc về cấu trúc sở hữu 
Sở hữu của cổ đông nước ngoài 
Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư luôn có sự cẩn trọng cao do sự cách biệt về địa lý, 
văn hóa giữa chủ sở hữu và nhà quản trị. Sự cách biệt này cần được bù đắp bằng sự gia 
tăng mức độ CBTT. Để tiếp cận và thoả mãn các đối tượng này, công ty phải gia tăng 
việc công bố (Singhvi, 1968). Từ đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H5: Tỉ lệ sở hữu nước ngoài trong cấu trúc vốn của công ty càng cao thì mức CBTT 
càng lớn. 
Sở hữu nhà nước 
Nhà nước khi sở hữu vốn tại công ty sẽ áp đặt một cơ chế giám sát khá nghiêm 
ngặt. Chính vì vậy, kì vọng tồn tại mối liên hệ thuận chiều giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước 
và mức CBTT tài chính. Từ đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H6: Tỉ lệ sở hữu nhà nước càng lớn thì mức độ CBTT càng cao. 
Các yếu tố thuộc về đặc điểm công ty 
Quy mô công ty 
Theo Chavent & cộng sự (2006), quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng đến mức độ 
CBTT do: (i) Xuất phát từ thuyết lợi thế về quy mô trong sản xuất, và lưu trữ thông tin; 
(ii) Áp lực từ cạnh tranh; (iii) Chi phí trực tiếp để CBTT là một áp lực với các công ty 
nhỏ; và (iv) Các công ty lớn có nhu cầu vốn lớn và cần huy động vốn nhiều hơn. Các lí 
do trên làm cho công ty càng lớn, mức CBTT càng cao. Từ đó, nghiên cứu đưa ra giả 
thuyết: 
H7: Quy mô công ty càng lớn thì mức độ CBTT càng nhiều. 
Đòn bẩy tài chính 
Cũng theo Chavent & cộng sự (2006), đòn bẩy tài chính càng cao, công ty sẽ công 
bố nhiều thông tin hơn nhằm: (i) Đáp ứng nhu cầu thông tin từ chủ nợ; (ii) Giảm hành 
vi kiểm soát của các chủ nợ; và (iii) Nâng vị thế của mình trong mắt chủ nợ từ đó tăng 
khả năng chuyển đổi nhà cung cấp tín dụng để tìm được nguồn vốn rẻ nhất. Từ đó, 
nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
20 | Nguyễn Công Phương & Nguyễn Thị Thanh Phương | 15 - 33  
H8: Đòn bẩy tài chính càng cao thì công ty CBTT càng nhiều. 
Mức độ sinh lời 
Theo thuyết đại diện, các công ty hoạt động hiệu quả thì nhà quản trị sẽ chủ động 
CBTT nhiều hơn để thoả thuận về mức thưởng cho họ (Singhvi & Deasi, 1971) cũng 
như nâng cao giá trị của họ trên thị trường lao động (Barako, 2007). Đồng thời, mức 
sinh lợi cao tác động tích cực đến giá cổ phiếu trên thị trường vốn (Inchausti, 1997). 
Tuy nhiên, theo quan điểm ngược lại, các công ty hoạt động kém cũng sẽ công bố 
nhiều để giải thích về thực trạng của công ty với cổ đông (Bujaki & McConomy, 
2002). Từ đó, nghiên cứu cần kiểm chứng các quan điểm trái chiều bằng giả thuyết 
sau: 
H9: Mức sinh lời càng cao thì mức độ CBTT càng lớn. 
Khả năng thanh toán 
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tồn tại hai quan điểm trái chiều: (i) Khả năng 
thanh toán càng cao, công ty càng tích cực CBTT để chứng minh tình trạng hoạt động 
tốt của công ty (Singhvi, 1968); và (ii) Khả năng thanh toán thấp, công ty có khuynh 
hướng công bố càng nhiều để biện minh tình trạng công ty với các đối tượng bên ngoài 
(Wallace & Naser, 1994). Như vậy, nghiên cứu đưa ra giả thiết để kiểm chứng như 
sau: 
H10: Khả năng thanh toán càng cao, công ty CBTT càng nhiều. 
Thời gian hoạt động 
Theo Galani & cộng sự (2011), các công ty hoạt động lâu năm có cơ hội cải thiện 
các điều kiện thực tế cho quá trình báo cáo, công nghệ, chi phí CBTT. Đồng thời các 
công ty này cũng có nhiều thành tựu để báo cáo nhằm tăng danh tiếng của công ty. Với 
các công ty non trẻ, CBTT sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh của công ty trên 
thị trường. Từ đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H11: Thời gian hoạt động càng lâu, mức độ CBTT càng cao. 
Lĩnh vực hoạt động 
Nghiên cứu này xem xét sự khác biệt về CBTT tài chính giữa các công ty trong 
ngành sản xuất công nghiệp và trong các lĩnh vực còn lại. Do các công ty trong ngành 
này thường có quy mô lớn, cấu trúc phức tạp, nhân sự nhiều hơn nên tổ chức kế toán 
mang tính chuẩn mực hơn các ngành khác. Từ đó, nghiên cứu đưa ra giả thuyết sau: 
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 21 
H12: Các công ty hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp CBTT trong BCTC 
nhiều hơn các ngành khác. 
Kiểm toán độc lập 
Theo DeAngelo (1981), các công ty kiểm toán lớn quan tâm nhiều hơn đến việc bảo 
vệ danh tiếng của mình, chính vì vậy họ sẽ đầu tư nhiều hơn vào công tác kiểm toán báo 
cáo của khách hàng. Ngoài ra, sự phụ thuộc vào khách hàng của công ty kiểm toán lớn 
thường nhỏ hơn các công ty kiểm toán nhỏ. 
H13: Nếu được kiểm toán bởi 4 hãng kiểm toán lớn gồm PWC, Deloitte, E&Y, và 
KPMG (Big4), BCTC các công ty sẽ công bố nhiều thông tin hơn. 
Số công ty con 
Một cấu trúc doanh nghiệp phức tạp yêu cầu công ty có một hệ thống thông tin quản 
lí hiệu quả phục vụ mục đích kiểm soát (Cooke, 1989) và việc sẵn có một hệ thống như 
vậy sẽ giúp giảm chi phí trên mỗi đơn vị thông tin. Vì vậy, nghiên cứu kì vọng rằng 
những công ty có nhiều công ty con thì mức độ CBTT sẽ nhiều hơn. 
H14: Công ty sẽ công bố nhiều thông tin hơn khi càng có nhiều công ty con. 
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1. Mẫu nghiên cứu 
Các công ty niêm yết phải công bố BCTC năm và BCTC bán niên. Có hai cách tiếp 
cận để nghiên cứu mức độ CBTT trong BCTC của các công ty. Cách thứ nhất là nghiên 
cứu theo chuỗi thời gian cho nhiều công ty. Cách này có ưu điểm là đánh giá được tiến 
triển mức độ CBTT theo thời gian. Cách tiếp cận này được sử dụng khi muốn đánh giá 
mức độ CBTT tài chính của doanh nghiệp với những thay đổi về quy định pháp lí cơ 
chế CBTT. Cách tiếp cận thứ hai được phần lớn các nghiên cứu trên thế giới vận dụng 
(Wallace & Naser, 1994; Xiao, 1999) là nghiên cứu tại một thời điểm. Các nhà nghiên 
cứu cho rằng nghiên cứu CBTT tại một thời điểm phản ánh được thực tế CBTT. Nghiên 
cứu này sử dụng cách tiếp cận thứ hai: Nghiên cứu CBTT trong báo cáo tài chính của 
các công ty năm 2011. Một m ... cầu đặt ra trước hết là 
xác định được dạng của biến độc lập trong mối quan hệ với biến phụ thuộc. Thực hiện 
việc xác định này bằng lệnh Analyze/ Regression/ Curve Estimation, trong đó chọn các 
dạng Linear (tuyến tính), Logarithmic (Log), Invers (nghịch đảo), Quadratic (bậc hai), 
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 27 
Cubic (bậc ba), trong mục Models. Tiêu chí được đưa ra là mức ý nghĩa (Sig.) đạt 
yêu cầu phải nhỏ hơn 0,1 (mức ý nghĩa thống kê chấp nhận được nâng lên so với 0,05 
để tránh chạy hồi quy sót biến). Biến tỉ lệ thành viên HĐQT không điều hành, khả năng 
thanh toán bị loại do các dạng biến đều mang giá trị Sig. lớn hơn 0,1. Kết quả các biến 
sau được chọn: Số thành viên HĐQT, tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài, tỉ lệ sở hữu 
nhà nước, Logarit của tổng tài sản, Logarit của doanh thu 2011, LN/DT, thời gian niêm 
yết, công ty kiểm toán, và số công ty con. 
Tiếp theo, thực hiện mô hình hồi quy tuyến tính với các biến được chọn. Kiểm 
định ý nghĩa toàn phần của mô hình bằng kiểm định Fisher và kiểm định ý nghĩa từng 
phần của các biến bằng kiểm định T-student. Các biến không có ý nghĩa được loại khỏi 
mô hình. Thực hiện kiểm định các giả thuyết của mô hình hồi quy tuyến tính. Sau đó 
nghiên cứu chạy lại mô hình và kiểm định chạy như một vòng lặp đến khi tìm được mô 
hình tối ưu [1]. Kết quả được trình bày ở Bảng 4. 
Bảng 4. Mô hình hồi quy các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT 
Hệ số chưa chuẩn hóa Hệ số 
chuẩn hóa Giá trị 
t 
Mức ý 
nghĩa 
Sig. 
VIF 
B 
Độ lệch 
chuẩn Beta 
Hằng số 0,408 0,07 5,835 0 
Tỉ lệ sở hữu của cổ 
đông nước ngoài -0,014 0,008 -0,182 -1,78 0,08 1,64 
Log Tổng tài sản 0,055 0,012 0,446 4,663 0 1,43 
LN/DT -0,014 0,003 -0,326 -3,99 0 1,05 
Tuổi niêm yết 0,005 0,002 0,22 2,424 0,02 1,29 
Kiểm toán 0,026 0,013 0,189 1,965 0,05 1,45 
Biến phụ thuộc: Chỉ số CBTT 
R2 = 41,8%, Adjust R2 = 38,6%, Sig. = 0,000, Durbin-Watson = 2,102 
Nguồn: Tính toán của tác giả 
Mức ý nghĩa F của mô hình =0,000 (< 0,05) cho thấy mô hình có ý nghĩa về mặt 
thống kê, biến chỉ số CBTT phụ thuộc vào các biến độc lập của mô hình. 
28 | Nguyễn Công Phương & Nguyễn Thị Thanh Phương | 15 - 33  
Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính bội cho thấy R2 điều chỉnh có giá trị 38,6%. Kết 
quả này gần tương đồng với nhiều nghiên cứu trước đây (nghiên cứu của Ahmed, 1996 
có R2 điều chỉnh là 33,2 %, của Owusu - Ansah, 1998 là 34,5 %, và của Nguyễn Công 
Phương & cộng sự, 2012 là 37,7 %). 
Hệ số phóng đại phương sai VIF của 5 nhân tố đều nhỏ hơn 10, kết luận mô hình 
không có hiện tượng đa cộng tuyến. Hệ số Durbin-Watson (DB) = 2,102 nằm ở miền 
không có tự tương quan (với n=99, k=5, dU=1,571, dL=1,780 do đó dU<DB<4-dU) 
nên có thể kết luận mô hình không vi phạm giả định về tự tương quan. 
Kiểm định phương sai sai số thay đổi được thực hiện bằng thủ tục như sau với từng 
biến độc lập trong mô hình. 
Bước 1: Thực hiện lệnh hồi quy và sao lưu phần dư với mô hình vừa có. 
Bước 2: Tạo biến trị tuyệt đối của phần dư bằng lệnh Compute. Sau đó thực hiện 
kiểm định tương quan hạng Spearman cho từng biến độc lập với phần dư. 
Kết quả Bảng 5 cho thấy mức ý nghĩa (Sig.) đều lớn hơn 0,05. Vậy kết luận giả định 
về phương sai sai số thay đổi không bị vi phạm. 
5. PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN KẾT QUẢ 
Từ kết quả được trình bày ở mục 4, có thể rút ra một số ý chính sau: 
(1) Yếu tố quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn nhất đến mức độ CBTT (hệ số B 
bằng 0,055, độ tin cậy 99%). Điều này phù hợp với giả thiết H7, và kết quả nghiên cứu 
của Nguyễn Công Phương (2012), Cooke (1989), và Wallace & cộng sự (1994). 
(2) Yếu tố mức sinh lời ảnh hưởng ngược chiều đến mức độ CBTT (độ tin cậy 
99%). Kết quả này trái ngược với giả thiết H9 nhưng tương đồng với nghiên cứu của 
Bujaki & McConomy (2002). Bujaki & McConomy (2002) lập luận rằng doanh nghiệp 
đang đối mặt với sự sụt giảm doanh thu sẽ có xu hướng công bố nhiều thông tin hơn. 
Điều này phù hợp với bối cảnh nghiên cứu hiện tại. Năm 2011, nền kinh tế ở nước ta 
gặp nhiều khó khăn, tình hình sản xuất kinh doanh ở phần lớn các công ty giảm sút. 
Việc các công ty tích cực CBTT để giải thích nguyên nhân của kết quả kinh doanh 
nhằm gây dựng lòng tin ở nhà đầu tư và các tổ chức tín dụng. 
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 29 
Bảng 5. Tóm tắt kết quả kiểm tra giả thiết phương sai sai số thay đổi. 
(3) Yếu tố thời gian niêm yết có ảnh hưởng tích cực đến mức độ CBTT (mức ý 
nghĩa 5%). Kết quả này phù hợp với giả thuyết H11 và kết quả của một số nghiên cứu 
trước đây như nghiên cứu của Caferman & Cooke (2002), và Alsaeed (2006). Kết quả 
cho thấy những công ty có thời gian niêm yết trên 7 năm thì có mức độ CBTT cao, chỉ 
số Ij đều từ 0,7 trở lên (mức công bố đạt trên 70%) và ổn định hơn các công ty mới 
niêm yết. 
Hình 1. Yếu tố tuổi niêm yết và mức độ CBTT 
Nguồn: Phân tích của tác giả 
(4) Những công ty có BCTC được kiểm toán bởi các công ty thuộc nhóm Big4 có 
mức độ CBTT cao hơn các công ty còn lại. Hệ số beta 0,026 cho thấy khi các nhân tố 
khác không đổi, các doanh nghiệp lựa chọn công ty kiểm toán thuộc nhóm Big4 có 
mức độ CBTT trung bình cao hơn các doanh nghiệp còn lại 0,026 (hay 2,6%). Kết quả 
này phù hợp với giả thiết H13 cũng như kết quả nghiên cứu của Nguyễn Công Phương 
& cộng sự (2012), và Alsaeed (2006). 
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
0 2 4 6 8 10 12 14
Ch
ỉ số
 CB
TT
Tuổi
Biến Tỉ lệ sở hữu của 
cổ đông nước ngoài 
Log 
Tổng tài sản LN/DT Tuổi niêm yết Kiểm toán 
Sig. (2-tailed) 0,962 0,314 0,669 0,452 0,326 
1
0,8
0,6
0,4
0,2
0
30 | Nguyễn Công Phương & Nguyễn Thị Thanh Phương | 15 - 33  
Hình 2. Yếu tố công ty kiểm toán và mức độ CBTT 
Nguồn: Phân tích của tác giả 
(5) Tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài càng cao thì mức độ CBTT càng thấp. Kết 
quả này đối nghịch với giả thiết H5 và kết quả nghiên cứu của Hanifa & Cooke (2002). 
Điều này có thể được giải thích rằng cổ đông nước ngoài là những nhà đầu tư có tính 
nhạy cảm cao; vì vậy, luôn tiềm ẩn nguy cơ họ rút vốn về nước. Do đó từ phương diện 
của công ty, tình hình càng khó khăn, những công ty có tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư 
nước ngoài càng cao thì càng có khuynh hướng che dấu thông tin. 
Ngược lại, kết quả phân tích cũng cho thấy không có bằng chứng về mối quan hệ 
giữa mức độ CBTT và các yếu tố về cơ cấu quản trị công ty, tỉ lệ sở hữu của cổ đông 
nhà nước, và đòn bẩy tài chính. Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu thực 
nghiệm trước đây như Haniffa & Cooke (2002) về yếu tố tỉ lệ thành viên hội đồng 
quản trị không phải nhà quản trị; Cooke (1989) về yếu tố lĩnh vực hoạt động; và 
Singhvi & Desai (1971) về yếu tố số công ty con. 
Công ty kiểm toán 
Ch
ỉ số
 C
BT
T 
1,00
0,95
0,90
0,85
0,80
0,75
0,70
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 31 
6. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 
6.1. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu chứng minh mức độ CBTT của các công ty niêm yết không cao. 
Điều này ngụ ý các doanh nghiệp cần tăng cường mức độ CBTT nhằm nâng cao tính 
minh bạch của thị trường. Các yếu tố quy mô, thời gian niêm yết, tỉ lệ vốn đầu tư nước 
ngoài và công ty kiểm toán ảnh hưởng đáng kể đến mức độ CBTT. 
Nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế do chỉ mới tập trung vào nhóm yếu tố 
thuộc về sở hữu, đặc điểm quản trị và tính chất công ty, nhóm yếu tố thuộc về văn hóa 
quản trị doanh nghiệp hay trình độ, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của bộ máy 
kế toán vẫn chưa được nghiên cứu. Đây chính là một hướng mới cho các nghiên cứu 
tiếp theo. 
6.2. Gợi ý chính sách 
Đối với cơ quan quản lí nhà nước 
Kết quả ước lượng chứng minh kiểm toán độc lập là một trong các yếu tố ảnh 
hưởng đáng kể và thuận chiều đến mức độ công bố của doanh nghiệp. Do đó cần phải 
nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập. Cần tăng cường và hoàn chỉnh khung pháp lí 
để kiểm soát công tác kiểm toán. Hiện nay được ủy quyền từ Bộ Tài chính, Hội Kiểm 
toán viên hành nghề VN (VACPA) thực hiện kiểm soát chất lượng kiểm toán hàng 
năm nhưng phạm vi thanh tra vẫn còn giới hạn. Do đó tăng số lượng công ty kiểm toán 
cần thanh tra định kì là một giải pháp thiết thực để cải thiện mức công bố của BCTC. 
Trong quá trình thu thập số liệu, nghiên cứu đã chỉ ra mức độ CBTT hiện nay là 
chưa cao. Rất nhiều nhóm thông tin không được công bố, đặc biệt là nhóm thông tin đã 
được yêu cầu trong chuẩn mực kế toán nhưng chưa được cụ thể trong chế độ kế toán. 
Do vậy cần bổ sung biểu mẫu BCTC cho phù hợp với hệ thống chuẩn mực và yêu cầu 
được thông tin từ người sử dụng báo cáo. Mặt khác cần tăng cường chế tài đối với 
trường hợp cung cấp thiếu thông tin. 
Đối với người sử dụng báo cáo tài chính (nhà đầu tư, tổ chức tín dụng,) 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến 
mức độ CBTT trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết. Kết quả nghiên cứu 
đưa ra những gợi ý cho người sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính như sau: 
32 | Nguyễn Công Phương & Nguyễn Thị Thanh Phương | 15 - 33  
- Người sử dụng cần lưu ý mức độ thông tin cung cấp trong BCTC của những công 
ty có quy mô nhỏ, mới niêm yết, được kiểm toán bởi công ty kiểm toán ngoài nhóm 
Big4, có độ sinh lợi cao và tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài lớn. 
- Người sử dụng BCTC cần tìm hiểu những thông tin mang tính chất tự nguyện 
cung cấp trong BCTC (thuyết minh). Mức độ cung cấp thông tin tự nguyện càng cao 
đồng nghĩa với sự minh bạch thông tin càng lớn 
Ghi chú 
[1] Phương pháp này được dùng trong nghiên cứu của Võ Thị Thúy Anh và đồng sự (2013). 
Tài liệu tham khảo 
Ahmed, K. (1996), “Disclosure Policy Choice and Corporate Characteristics: A Study of Bangladesh”, 
Asia-Pacific Journal of Accounting, 3 (1), 183–203. 
Alsaeed, K. (2006), “The Association between Firm-Specific Characteristics and Disclosure: The Case of 
Saudi Arabia”, Journal of American Academy of Business, 7(1), 310-321. 
Bujaki. M., & McConomy, B. (2002), “Corporate Governance: Factors Influencing Voluntary Disclosure 
by Publicly Traded Canadian Firms”, Canadian Accounting Perspective, 1, 105-39. 
Barako, D. G. (2007), “Determinants of Voluntary Disclosure in Kenyan Companies Annual Reports”, 
African Journal of Business management , 1(5), 113-128. 
Camfferman, K., & Cooke , T. E. (2002), “An Analysis of Disclosure in the Annual Reports of U.K and 
Dutch Companies”, Journal of International Accounting Research, 1(1), 3-30 
Chavent, M., Dinh, Y., Fu, L., Stolowy, H., & Wang, H. (2006), “Disclosure and Determinants Studies: An 
Extension Using the Divisive Clustering Method (DIV)”, European Accounting Review, 15(2), 181-
218. 
Coombs, H. M., & Tayib, M. (1998), Developing a Disclosure Index of Local Authority Published 
Accounts: A Comparative Study of Local Authority Financial Reports between the UK and Malaysia, 
Paper presented at the Asian Pacific Interdisciplinary Research in Accounting Conference in Osaka, 
Japan. 
Cooke, T. E. (1989), “Disclosure in the Corporate Annual Report of Swedish Companies”, Accounting and 
Business Research, 19, 113. 
Cooke, T. E. (1992), “The Impact of Size, Stock Market Listing and Industry Type on Disclosure in the 
Annual Reports of Japanese Listed Corporations”, Accounting and Business Research, 22 (87), 229-
237. 
Darrough, M. (1993), “Disclosure Policy and Competition: Cournot vs. Bertrand”, The Accounting Review, 
68, 534-562. 
DeAngelo, L. E. (1981), “Auditor Independence, ‘Low Balling’, and Disclosure Regulation”, Journal of 
Accounting and Economics, 3, 113. 
Đoàn Nguyễn Trang Phương (2010), “Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các công ty niêm yết 
trên thị trường chứng khoán VN”, Kỷ yếu Hội thảo 35 năm phát triển và hội nhập Trường Đại học Kinh 
tế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
Phát triển Kinh tế 287 (09/2014)| 33 
Fama, E. F., & Jensen, M. C. (1983), “Agency Problems anh Residual Claims”, Journal of Law and 
Economics, 26(2), 327-349. 
Galani, D., Alexandridis, A., & Stavropoulos, A. (2011), “The Association between the Firm Characteristics 
and Corporate Mandatory Disclosure the Case of Greece”, World Academy of Science, Engineering and 
Technology, 53, 1048-1054. 
Giner, B. (1995), La Divuglacion de Informacion Financiera: Una Investigacion Empirica, Instituto de 
Contabilidad y Auditoria de Cuentas, Ministerio de Economia y Hacienda, Madrid. 
Giner, B. (1997), “The Influence of Company Characteristics and Accounting Regulation on Information 
Disclosed by Spanish Firms”, European Accounting Review, 6 (1): 45-68. 
Haniffa, R. M., & Cooke, T. E., (2002), “Culture, Corporate Governance and Disclosure in Malaysian 
Corporations”, Abacus, 38 (3), 317-349 
Hossain, M. (2008), “The Extent of Disclosure in Annual Reports of Banking Companies: the Case of 
India”, European journal of Scientific Research, 23(4), 659-680. 
Inchausti, B. A. G. (1997), “The Influence of Companies Characteristics and Accounting Regulation on 
Information Disclosured by Spanish Firms”, European Accounting Review, 6, 45-68. 
Jensen, M. C., & Meckling, W. H. (1976), “Theory of the Firm: Managerial Behaviour, Agency Cost and 
Ownership Structure”, Journal of Financial Economics, 3, 56. 
Owusu-Ansah, S. (1998), “The Impact of Corporate Attributes on the Extent of Mandatory Disclosure and 
Reporting by Listing Companies in Zimbabwe”, The International Journal of Accounting, 33, 605-631. 
Marston, C. L., & Shrives, P. J. (1991), “The Use of Disclosure Indece in Accouting Research: A Review 
Article”, British Accounting Review, 23(16), 23-35. 
McMullen, D. A. (1996), “Audit Committee Performance: An Investigation of the Consequences 
Associated with Audit Committee”, Auditing, 15 (1), 87-103. 
Nguyễn Công Phương, Võ Hồng Tâm, Huỳnh Ngọc Quang, Võ Thị Thùy Trang (2012), Nghiên cứu thực 
trạng CBTT trong BCTC của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM, Đề tài 
khoa học và công nghệ cấp cơ sở, Đại học Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
Singhvi, S. S. (1968), “Characteristics and Implication of Inadequate Disclosure : A Case Study of India”, 
The International Journal of Accounting, 3(2), 29-44. 
Singhvi, S. S., & Desai, H. B. (1971), “An Empirical Analysis of Quality of Corporate Financial 
Disclosure”, The Accounting Review, 129-138. 
Urquiza, F. B., Navarro, M. C. A., & Trombetta, M. (2010), “Disclosure Theories and Disclosure 
Measures”, Revista Espanola de Financiacion y contabilidad, 39(147), 393-415. 
Võ Thị Thúy Anh & Nguyễn Thanh Hải (2013), “Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến tỉ suất 
sinh lợi cổ phiếu niêm yết trên HSX”, Tạp chí Phát triển kinh tế, 275, 16-27. 
Wallace, R S., & Naser, K. (1994), “Firm Specific Determinants of Comprehensiveness of Mandatory 
Disclosure in the Corporate Annual Reports of Firms Listed on the Stock Exchange of Hong Kong”, 
Journal of Accounting & Public Policy, 14, 31-68. 
Watts, R. L., & Zimmerman, J. L. (1986). Positive Accounting Theory, Englewood Cliffs, Prentice-Hall, NJ 
Xiao, Z. (1999), “Corporate Disclosures Made by Chinese Listed Companies”, The International Journal of 
Accounting, 34 (3), 349 – 373. 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_muc_do_cong_bo_thong_tin_tai_chinh.pdf