Các yếu tố ảnh hưởng đến không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp: nghiên cứu tại TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Bằng sự kết hợp nhiều phương pháp khoa học, trong đó có sự khai thác thông tin và kinh nghiệm
thực tiễn từ phía người nộp thuế lẫn cơ quan thuế cùng với mô hình hồi quy Probit trên mẫu nghiên
cứu gồm 187 doanh nghiệp đã được thanh tra, kiểm tra thuế tại TP.Hồ Chí Minh niên độ 2013-2017,
bài viết xác định có 8 yếu tố ảnh hưởng đến sự không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp: (1) Vốn
lưu động/Tổng tài sản; (2) Doanh thu/Tổng tài sản; (3) Tổng nợ/Tổng tài sản; (4) Lỗ năm trước liền
kề; (5) Khoản phải thu/Doanh thu; (6) Quy mô doanh nghiệp; (7) Tiền phạt vi phạm hành chính về
thuế/Số thuế phải nộp; (8) Ngành nghề kinh doanh. Trong đó, sự không tuân thủ thuế được nghiên
cứu là những vi phạm pháp luật thuế Việt Nam của các doanh nghiệp trong việc khai báo thiếu số
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách Nhà nước.
Từ khóa: không tuân thủ thuế, doanh nghiệp
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp: nghiên cứu tại TP. Hồ Chí Minh
1Các yếu tố ảnh hưởng đến... Kinh tế CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHÔNG TUÂN THỦ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP: NGHIÊN CỨU TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Loan1, Lê Thị Tuyết Hoa2, Nguyễn Việt Hồng Anh 3 TÓM TẮT Bằng sự kết hợp nhiều phương pháp khoa học, trong đó có sự khai thác thông tin và kinh nghiệm thực tiễn từ phía người nộp thuế lẫn cơ quan thuế cùng với mô hình hồi quy Probit trên mẫu nghiên cứu gồm 187 doanh nghiệp đã được thanh tra, kiểm tra thuế tại TP.Hồ Chí Minh niên độ 2013-2017, bài viết xác định có 8 yếu tố ảnh hưởng đến sự không tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp: (1) Vốn lưu động/Tổng tài sản; (2) Doanh thu/Tổng tài sản; (3) Tổng nợ/Tổng tài sản; (4) Lỗ nĕm trước liền kề; (5) Khoản phải thu/Doanh thu; (6) Quy mô doanh nghiệp; (7) Tiền phạt vi phạm hành chính về thuế/Số thuế phải nộp; (8) Ngành nghề kinh doanh. Trong đó, sự không tuân thủ thuế được nghiên cứu là những vi phạm pháp luật thuế Việt Nam của các doanh nghiệp trong việc khai báo thiếu số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách Nhà nước. Từ khóa: không tuân thủ thuế, doanh nghiệp THE FACTORS AFFECT CORPORATE INCOME TAX NON- COMPLIANCE: THE RESEARCH IN HO CHI MINH CITY ABSTRACT By combining many researching methods, including the exploitation of information and practical experiences from both taxpayers and tax authorities with Probit regression model on a sample of 187 enterprises which have been inspected or examined by tax authorities in Ho Chi Minh city during the period from 2013 to 2017, the article identified 8 factors affecting corporate income tax (CIT) non- compliance. They are: (1) Working capital / Total assets; (2) Revenue / Total assets; (3) Total debt / Total assets; (4) Loss in the previous year; (5) Receivables / Revenue; (6) The size of enterprises; (7) Tax administrative penalties / Tax payable; (8) Business field. In particular, the tax non-compliance was studied as the violation of Vietnamese tax laws of enterprises in the declaration of the insufficient amount of CIT payable to the State budget. Key words: tax non-compliance, enterprise 1 PGS.TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM. Email: loannt@buh.edu.vn 2 PGS.TS. GV. Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM. Email: hoaltt@buh.edu.vn 3 ThS. Chi Cục thuế Bình Thạnh TP.HCM, Email: nvhanh.hcm@gdt.gov.vn 2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thuế là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu đời. Ở các nước, chính phủ đều xây dựng những quy định và ban hành các chính sách pháp luật về thuế để quản lý thu thuế nhằm điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Theo Noor và cộng sự (2013), chính phủ ngày càng quan tâm nhiều hơn về vấn đề không tuân thủ thuế, trốn thuế vì các hoạt động này làm giảm nỗ lực thu ngân sách của quốc gia. Từ những nĕm 1990, công trình của Kamdar (1997) đã nghiên cứu tác động của các yếu tố về chính sách có ảnh hưởng đến sự không tuân thủ thuế tại Mỹ trong giai đoạn 1961-1987. Tiếp theo, Noor và cộng sự (2012) có nghiên cứu về các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến gian lận thuế thu nhập của doanh nghiệp tại Malaysia. Tại Việt Nam, theo thống kê của Bộ Tài chính (2016) trong các giai đoạn 2001-2005; 2006-2010 và 2011-2015, cơ cấu thu ngân sách theo sắc thuế cho thấy thuế TNDN luôn là một trong các nghĩa vụ thuế chiếm tỷ trọng cao so với những loại thuế còn lại. Theo Điều 6, Điều7, Điều 8 và Điều 9 của Luật Quản lý thuế tại Việt Nam số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về quyền, nghĩa vụ của người nộp thuế cũng như trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thuế thì doanh nghiệp có nghĩa vụ khai báo và nộp thuế hằng nĕm cho CQT, đồng thời CQT có nhiệm vụ hỗ trợ, kiểm tra việc kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo thống kê trong nĕm 2016 có đến 91.419 doanh nghiệp qua thanh kiểm tra đã bị kiến nghị thu hồi ngân sách 17.285 tỷ đồng, truy hoàn thuế 1.400 tỷ đồng, giảm khấu trừ thuế là 79 tỷ đồng (Kien and Nga 2017). Sang nĕm 2017, CQT các cấp đã thực hiện hơn 97.000 cuộc thanh tra kiểm tra doanh nghiệp và truy thu 17.960 tỷ đồng, giảm lỗ hơn 34.118 tỷ đồng (tính đến ngày 25/12/2017) (Tạp chí Thuế 2018). Như vậy, có thể thấy thực trạng không tuân thủ thuế là một vấn đề đã xuất hiện kể từ khi nghĩa vụ thuế được xác lập và nhiều nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu. Bên cạnh đó, sự tĕng lên của số thuế truy thu và những vi phạm về thuế qua thanh tra, kiểm tra hằng nĕm cho thấy vẫn còn không ít các doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của họ. Vì vậy, bài viết với mục tiêu nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến không tuân thủ thuế TNDN phù hợp với thực trạng quản lý thuế đối với doanh nghiệp tại Việt Nam. Nhóm tác giả sẽ xác định các yếu tố ảnh hưởng đến không tuân thủ thuế TNDN của doanh nghiệp thể hiện qua những vi phạm pháp luật thuế. Nội dung bài viết bao gồm 5 phần, sau Phần 1- Đặt vấn đề sẽ là Phần 2 nghiên cứu về cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước đây, Phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu, kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày ở Phần 4. Cuối cùng, dựa vào kết quả ở Phần 4, Phần 5 sẽ đưa ra kết luận về nội dung nghiên cứu của bài viết. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC 2.1. Khái niệm không tuân thủ thuế TNDN Theo Nguyễn Minh Hà và cộng sự (2012), quan điểm truyền thống của quản lý thuế chủ yếu dựa trên giả thuyết rằng hầu hết các doanh nghiệp về bản chất là không tự nguyện tuân thủ và chỉ chấp hành nghĩa vụ khi có sự cưỡng chế của CQT hay khi bị tác động bởi lợi ích kinh tế. Từ khá lâu, nghiên cứu của Alm (1991) đã đưa ra khái niệm về tuân thủ thuế là việc khai báo một cách chính xác thu nhập và chi phí được quy định bởi Luật thuế. Mô hình của BISEP (Organization for Economic Cooperation and Development 2004) đưa ra khái niệm không tuân thủ thuế phụ thuộc vào mức độ của chi phí tuân thủ và áp lực. Theo tổng hợp của Alabede và cộng sự (2011), không tuân thủ thuế xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Bất kỳ hành vi không tuân thủ nào của người nộp thuế mà kết quả là không khai báo chính xác về thu nhập chịu thuế dẫn đến không thanh toán hoặc không nộp thuế đúng quy định được xem là trốn thuế, trong đó có cả hành vi 3Các yếu tố ảnh hưởng đến... gian lận thuế. Theo Singh (2003), không tuân thủ thuế TNDN ở doanh nghiệp xảy ra khi xuất hiện các vi phạm về Luật thuế như không báo cáo chính xác nghĩa vụ thuế theo quy định chủ yếu do khai thiếu doanh thu hoặc khai khống chi phí được trừ. Những doanh nghiệp không khai báo đúng hai yếu tố: thu nhập và chi phí hoặc không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đều được hiểu là không tuân thủ thuế TNDN (Tan và Sawyer 2003). Các biểu hiện không phù hợp về số liệu trên báo cáo tài chính sẽ dẫn đến sự không phù hợp của các báo cáo thuế, đây là một trong những biểu hiện của sự không tuân thủ thuế TNDN (Frank và cộng sự 2004). Theo United States Government Accountability Office - Vĕn phòng Chính phủ Hoa Kỳ (2012), sự không tuân thủ thuế TNDN được đo lường bởi những chênh lệch về thuế trong nhiều trường hợp. Đó là các hành vi khai báo thu nhập ít hơn hoặc kê khai chi phí cao hơn so với thực tế, vi phạm những quy định của Luật thuế. Theo quy định tại Điều 103 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Việt Nam, những hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế bao gồm: (1) Vi phạm các thủ tục về thuế; (2) Chậm nộp tiền thuế; (3) Khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tĕng số tiền thuế được hoàn; (4) Trốn thuế, gian lận thuế. Tuy nhiên, khá nhiều công trình khoa học đã nghiên cứu không tuân thủ thuế TNDN là việc khai báo sai thu nhập liên quan đến thông tin phản ánh nghĩa vụ thuế TNDN không đúng quy định vì đó là hành vi tác động chủ yếu đến số thuế phải nộp ngân sách nhà nước. Trong cơ chế tự khai tự nộp thuế tại Việt Nam, việc khai báo thông tin xác định nghĩa vụ thuế là rất quan trọng, phản ánh rõ nét sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Bài viết nghiên cứu không tuân thủ thuế TNDN là việc không khai báo đúng nghĩa vụ thuế của mình liên quan đến thu nhập có được, phản ánh số thuế TNDN phải nộp đối với nhà nước. Đó là những vi phạm của doanh nghiệp về pháp luật thuế Việt Nam trong việc khai thuế TNDN, được biểu hiện qua các số liệu trên báo cáo tài chính đã kê khai cho cơ quan quản lý thuế. 2.2. Lý thuyết nghiên cứu không tuân thủ thuế 2.2.1. Lý thuyết mô hình ngĕn chặn kinh tế (Economic Deterrence Model) Nguyên lý của các mô hình ngĕn chặn kinh tế lần đầu tiên được khám phá vào những nĕm 1960 từ tác phẩm của Becker (1968), nhà nghiên cứu đã phân tích các hành vi trái pháp luật sử dụng cùng một khung lý thuyết kinh tế. Becker (1968) đề xuất một luận cứ hẹp rằng các biện pháp ngĕn chặn như xác suất phát hiện xử phạt và những hình phạt có ảnh hưởng đến sự tuân thủ. Đến những nĕm 1970, dựa trên “Thuyết hữu dụng”, Allingham và Sandmo (1972) cho rằng người nộp thuế sẽ tìm cách tối ưu hóa lợi ích của họ để thực hiện các quyết định tuân thủ trong các báo cáo thuế; nơi mà việc trốn thuế xuất hiện nếu như các lợi ích về mặt tài chính thấp hơn các chi phí tài chính. Từ đó, mô hình ngĕn chặn kinh tế được phát triển với quan điểm nghiên cứu rằng, sự ngĕn chặn có tác động đến hành vi tuân thủ (Devos 2014). Sau đó, mô hình ngĕn chặn kinh tế đã xuất hiện nhiều phiên bản nhưng nhìn chung, theo quan điểm này, các nhà khoa học đã kết luận rằng các yếu tố quyết định chi phí tài chính có ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế như: sự phức tạp của hệ thống thuế; thuế suất, xác suất phát hiện vi phạm, mức thu nhập và cấu trúc hình phạt. Tuy nhiên ít bằng chứng thực nghiệm chứng minh được những dự đoán của mô hình ngĕn chặn kinh tế là hoàn toàn đúng đắn (Devos 2014). Một phương pháp tiếp cận khác mô hình ngĕn chặn kinh tế đã xuất hiện là mô hình tâm lý xã hội và tài chính. 2.2.2. Lý thuyết mô hình tâm lý xã hội và tài chính (Fiscal and Social Psychology Models) Hướng tiếp cận của mô hình tâm lý xã hội và tài chính là kiểm tra các yếu tố của con người ảnh hưởng đến thái độ và hành vi tuân thủ thuế. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ thuế được 4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nhận định theo quan điểm của mô hình này biến đổi từ những chuẩn mực xã hội và đặc điểm cá nhân đến sự nhận thức về công bằng và thái độ của người nộp thuế (Devos 2014). Một trong những nghiên cứu sớm nhất về trốn thuế đã khám phá ra khái niệm “tư duy thuế” được trình bày bởi Schmolders (1959). Do đó, nếu người nộp thuế càng có thái độ tích cực về thuế cũng như cách làm việc với CQT, họ càng sẵn sàng đóng thuế. Kinsey (1986) diễn giải khái niệm “sẵn sàng hợp tác” có liên quan đến sự tuân thủ, trong đó những người nộp thuế rất hợp tác với CQT, có thể sẽ tuân thủ nhiều hơn những người không hợp tác. Spicer (1974) đã đề cập đến yếu tố bất bình đẳng giữa các khoản thuế trả cho hàng hóa so với dịch vụ công do chính phủ cung cấp. Hai nghiên cứu tiếp theo, Vogel (1974); Song và Yarborough (1978) đã kiểm tra tác động của các giá trị đạo đức khi tuân thủ của người nộp thuế và đưa ra nhận định rằng cả hai biến số phi kinh tế, công bằng và đạo đức đều có liên quan đáng kể đến hành vi tuân thủ. Lewis (1982) cũng đã tiến hành một nghiên cứu tâm lý học về thuế, kiểm tra thái độ và nhận thức của người nộp thuế nhằm hiểu rõ hành vi tuân thủ, đặc biệt là trốn thuế. Trong suốt những nĕm 1990 và đầu những nĕm 2000, các biến số khác xuất hiện trong các mô hình tâm lý xã hội và tài chính cũng không có trong mô hình ngĕn chặn kinh tế (Devos 2014). Như vậy, trong suốt nhiều nĕm nghiên cứu, nền tảng lý thuyết về tuân thủ thuế đã xuất hiện như mô hình ngĕn chặn kinh tế và mô hình tâm lý xã hội và tài chính. Tuy nhiên, các kết luận của những nhà nghiên cứu vẫn còn nhiều tranh cãi. 2.2.3. Lý thuyết Tam giác gian lận của Cressey (1953) Theo Alabede và cộng sự (2011), không tuân thủ thuế bao gồm khái niệm gian lận thuế nên lý thuyết hành vi gian lận được đề cập để phân tích nhằm tìm ra khung nghiên cứu cho bài viết. Kết quả của Cressey (1953) đã đưa ra mô hình tam giác gian lận (Fraud Triangle) với nội dung: hành vi gian lận hay tổng quát hơn là tội phạm hoặc những vi phạm pháp luật chỉ được thực hiện trên cơ sở hội đủ 3 yếu tố. Đó là: cơ hội, áp lực (động cơ) và thái độ, cá tính hay sự hợp lý hóa hành vi gian lận của con người. Cụ thể là: + Áp lực (động cơ): Khởi nguồn của việc thực hiện vi phạm pháp luật là do người thực hiện chịu những áp lực. Các áp lực có thể do những khó khĕn về tài chính, ví dụ như: hao hụt về tiền bạc trong cuộc sống mà cá nhân phải vượt qua; hoặc mối quan hệ không suôn sẻ giữa người chủ và nhân viên. Theo lý giải của mô hình tam giác gian lận, khi áp lực tĕng thì gian lận xuất hiện. + Cơ hội: Yếu tố này còn thể hiện phương thức thực hiện hành vi vi phạm. Một khi đã tồn tại những áp lực thúc đẩy như đã đề cập, nếu có cơ hội thì hành vi gian lận sẽ được thực hiện. + Thái độ của con người hay khả nĕng hợp lý hóa hành vi gian lận của con người: Cressey (1953) cho thấy rằng, tùy theo cá tính của mỗi người mà hành vi gian lận có được tiến hành thực hiện hay không. Có những người khi có cơ hội và chịu áp lực họ sẽ thực hiện hành vi gian lận với lý lẽ tự an ủi rằng họ sẽ không để chuyện này lặp lại. Cressey (1953) cũng cho rằng, đây là phản ứng tự nhiên của con người, lần đầu tiên làm những điều trái với lương tâm và đạo đức của mình họ sẽ bị ám ảnh, nhưng ở những lần kế tiếp họ thực hiện gian lận sẽ không cảm thấy bĕn khoĕn và mọi việc diễn ra dễ dàng hơn, dễ được chấp nhận hơn. Do đó, ảnh hưởng của thái độ đến hành vi gian lận còn phụ thuộc vào quan điểm, nhận định của người thực hiện. Tam giác gian lận của Cressey (1953) được dùng để lý giải rất nhiều vụ gian lận hoặc vi phạm các quy định của Luật pháp và được áp dụng trong việc nghiên cứu, đánh giá rủi ro có gian lận phát sinh trong nhiều lĩnh vực nghề nghiệp. Nội dung nghiên cứu là không tuân thủ thuế TNDN, được định hướng nghiên cứu qua những vi phạm pháp luật về thuế TNDN dẫn đến 5Các yếu tố ảnh hưởng đến... thất thu thuế, gian lận thuế mà lý thuyết Tam giác gian lận của Cressey (1953) đã được sử dụng khá phổ biến để nghiên cứu những yếu tố tác động đến các vi phạm pháp luật trước đây trong nước và trên thế giới ở lĩnh vực kinh tế tài chính. Mặt khác, theo Devos (2014), thái độ và cơ hội là những yếu tố đã được phát hiện có tác động đến sự tuân thủ thuế trong quá trình phát triển nghiên cứu dựa trên mô hình tâm lý xã hội và tài chính; áp lực là yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình biến đổi hành vi từ tuân thủ thuế đến không tuân thủ thuế mà tam giác tuân thủ của BISEP đưa ra (Organization for Economic Cooperation and Development 2004). Vì vậy, lý thuyết Tam giác gian lận Cressey (1953) sẽ được nhóm tác giả sử dụng làm cơ sở phân tích và xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến khôn ... (*) đã cho thấy trong 11 yếu tố đề xuất qua quá trình nghiên cứu bằng cách thảo luận lấy ý kiến, chỉ có 8 yếu tố tác động đến sự không tuân thủ thuế của doanh nghiệp được xác định qua phương pháp định lượng. Đó là: Vốn lưu động/Tổng tài sản; Doanh thu/Tổng tài sản; Lỗ nĕm trước liền kề; Tổng nợ/Tổng tài sản; Khoản phải thu/Doanh thu; Quy mô doanh nghiệp; Tiền phạt vi phạm hành chính về thuế/Số thuế phải nộp và ngành nghề kinh doanh. Bằng cách phân loại các doanh nghiệp theo các ngành nghề kinh doanh chính trong mẫu nghiên cứu, bài viết đã có kết luận yếu tố ngành nghề có ảnh hưởng đến sự không tuân thủ thuế TNDN. 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU Kết quả nghiên cứu bám sát với thực tế môi trường kinh doanh và cơ chế quản lý thuế hiện nay tại Việt Nam cho thấy có 8 yếu tố ảnh hưởng đến sự không tuân thủ thuế TNDN: • Vốn lưu động/Tổng tài sản: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ số này có mối quan hệ nghịch chiều với không tuân thủ thuế TNDN nghĩa là doanh nghiệp kê khai tỷ số này càng thấp càng có khả nĕng không tuân thủ thuế cao. Yếu tố này phản ánh khả nĕng thanh toán của doanh nghiệp nên tạo áp lực trong việc tuân thủ thuế. Do đó, nếu Nhà nước có những quy định phân loại về từng trường hợp nộp thuế TNDN cụ thể theo quy mô, lợi nhuận kinh doanh cho phù hợp sẽ càng giảm bớt áp lực cho doanh nghiệp khi thực hiện nghĩa vụ thuế trong trường hợp thiếu hụt khả nĕng thanh toán. • Doanh thu/Tổng tài sản: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ này có mối quan hệ thuận chiều với sự không tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Chứng tỏ doanh nghiệp có doanh thu càng cao càng có khả nĕng không tuân thủ thuế TNDN bởi áp lực từ phía chủ đầu tư muốn chia sẻ lợi nhuận với việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Do đó, việc tĕng cường quản lý vấn đề xuất và kê khai hóa đơn giá trị gia tĕng rất quan trọng, tránh tình trạng kê khai thiếu doanh thu làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ thuế TNDN. • Lỗ nĕm trước liền kề: Kết quả nghiên cứu cho thấy biến này có ý nghĩa thống kê và yếu tố kê khai lỗ nĕm trước liền kề có tác động rõ ràng đến không tuân thủ thuế của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp kê khai lỗ có khả nĕng không tuân thủ thuế TNDN cao nên cần có những quy định giới hạn về việc chuyển lỗ cho hợp lý cũng như kế hoạch kiểm tra sớm về việc kê khai lỗ hoạt động sản xuất kinh doanh để hạn chế tình trạng doanh nghiệp lợi dụng số lỗ mà không thực hiện nộp thuế. • Tổng nợ/Tổng tài sản: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ này có mối quan hệ cùng chiều với không tuân thủ thuế TNDN do doanh nghiệp kinh doanh phụ thuộc vào vốn vay để có chi phí lãi vay làm giảm nghĩa vụ thuế TNDN. Vì vậy, cần có những quy định cụ thể để khống chế việc sử dụng vốn vay trong hoạt động của doanh nghiệp nhằm hạn chế sự không tuân thủ thuế TNDN. • Khoản phải thu/Doanh thu: Kết quả định lượng hoàn toàn phù hợp với những nhận định thực tế từ phía CQT và doanh nghiệp khi thảo luận. Điều này đã được lý giải khi doanh nghiệp có nợ phải thu treo nhiều nĕm sẽ tận dụng việc _cons 2.192 (0.621)*** Số quan sát 935 * p<0.1; ** p<0.05; *** p<0.01 Ghi chú: Sai số chuẩn được thể hiện trong dấu ngoặc đơn. *** p<0,01; ** p<0,05; * p<0,1: có ý nghĩa thống kê ở mức lần lượt là 1%; 5%; 10% (Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 12.0) 17 Các yếu tố ảnh hưởng đến... trích lập chi phí dự phòng theo quy định của pháp luật Việt Nam nhằm làm giảm thu nhập chịu thuế TNDN ở mỗi nĕm. Đây cũng là hành vi được phát hiện trong quá trình nghiên cứu thông tin thảo luận, thuộc nhóm vi phạm kê khai tĕng chi phí được trừ dẫn đến không tuân thủ thuế TNDN. Kết quả nghiên cứu cho thấy biến ar có ý nghĩa thống kê với mối quan hệ nghịch chiều (do khoản phải thu trên báo cáo tài chính đã trừ phần chi phí dự phòng) chứng tỏ tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, việc ghi nhận nợ phải thu không đúng thực tế là rủi ro khá phổ biến. Tuy nhiên để quản lý và có cơ sở phát hiện vấn đề này là một khó khĕn cho CQT. Do đó, việc quản lý xuất hóa đơn giá trị gia tĕng và những quy định về các khoản chi phí của doanh nghiệp bắt buộc thanh toán qua ngân hàng cần phải nghiêm ngặt hơn giúp hạn chế không tuân thủ thuế TNDN. • Quy mô doanh nghiệp: quy mô doanh nghiệp càng nhỏ càng có khả nĕng không tuân thủ thuế TNDN vì thiếu sự đầu tư cho lĩnh vực pháp lý thuế và kế toán. Do vậy, đây là một yếu tố tạo cơ hội cho doanh nghiệp không tuân thủ pháp luật thuế nếu như Nhà nước không có những biện pháp tích cực tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn việc thực thi chính sách thuế cũng như xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể, chuyên biệt đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ. • Tiền phạt vi phạm hành chính về thuế/Số thuế phải nộp: tại Việt Nam, hình thức phạt tiền đối với doanh nghiệp khi phát hiện doanh nghiệp có hành vi không tuân thủ thuế là phổ biến. Nếu số tiền phạt so với số thuế TNDN phải nộp thấp thì doanh nghiệp sẽ có khả nĕng không tuân thủ thuế cao. Vì thế, Nhà nước cần có những quy định nghiêm khắc hơn, phù hợp hơn về mức hình phạt đối với những vi phạm pháp luật thuế. • Ngành nghề kinh doanh: kết quả nghiên cứu cho thấy ngành nghề kinh doanh có ảnh hưởng đến không tuân thủ thuế TNDN do đặc thù hoạt động của các ngành, đối tượng khách hàng,... Kết quả nghiên cứu định lượng tại TP.HCM cho thấy có sự phù hợp với những nghiên cứu trước đây; tuy nhiên, hệ số và dấu của biến ngành nghề có thể khác nhau do ảnh hưởng của môi trường kinh doanh ở mỗi nước, mỗi khu vực được chọn làm mẫu nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Abdixhiku, L. 2013. Determinants Of Business Tax Evasion In Transition Economies. Doctor Of Philosophy, Staffordshire University Business School. Alabede, J. O., Ariffin, Z. B. Z. & Idris, K. M. 2011. Determinants Of Tax Compliance Behaviour: A Proposed Model For Nigeria. International Research Journal Of Finance And Economics, 121-136. Allingham, M. G. & Sandmo, A. 1972. Income Tax Evasion: A Theoretical Analysis. Journal Of Public Economics, 1, 323-338. Alm, J. 1991. A Perspective On The Experimental Analysis Of Taxpayer Reporting. Accounting Review 66, 577. Awan, A. G. & Hannan, A. 2014. The Determinants Of Tax Evasion In Pakistan – A Case Study Of Southern Punjab. International Journal Of Development And Economic Sustainability, 2, 50-69. Becker, G. S. 1968. Crime And Punishment: An Economic Approach. Journal Of Political Economy, 76, 169-217 Bộ Tài Chính 2016. Báo Cáo Quyết Toán NSNN. Braithwaite, V. 2009. Defiance In Taxation And Governance: Resisting And Dismissing Authority In A Democracy, Uk: Edward Elgar. Brautigam, Deborah, Odd-Helge Fjeldstad and Mick Moore (eds.) 2008, Taxation andstate- building in developing countries. Capacity and consent, Cambridge University Press. Bùi Ngọc Toản 2017. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế thu nhập của doanh nghiệp - Nghiên Cứu Thực Nghiệm Trên Địa Bàn Tp.Hcm. Tạp Chí Khoa Học - Đại Học Huế, 126, 77-88. 18 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Chan, K. H. & Mo, P. L. L. 2000. Tax Holidays And Tax Noncompliance: An Empirical Study Of Corporate Tax Audits In China’s Developing Economy. The Accounting Review: October 2000, 75, 469-484. Chipeta, C. 2002. The Second Economy and Tax Yield in Malawi,Research Paper No. 113, African Research Consortium, Nairobi Cressey, D. R. 1953. Other People’s Money: A Study Of The Social Psychology Of Embezzlement. New York, Ny, Us: Free Press. Devos, K. 2014. Factors Influencing Individual Taxpayer Compliance Behaviour, Springer ScienceBusiness Media Dordrecht. Duong, C. M. 2011. How Market Mispricing Affects Investor Behaviour, Corporate Investment And Real Earnings Management: The Uk Evidence. University Of Kent. Fishlow, A. and J. Friedman 1994. Tax evasion, inflation and stabilization,Journal of Development Economics, Vol. 43, No. 1, pp. 105-123 Frank, M. M., Lynch, L. J. & Rego, S. O. 2009. Tax Reporting Aggressiveness And Its Relation To Aggressive Financial Reporting. Accounting Review, 84. Giz Sector Programme Public Finance 2010. Addressing Tax Evasion And Tax Avoidance In Developing Countries. Deutsche Gesellschaft Fur Internationale Zusammenarbeit. Green, S. B. 1991. How Many Subjects Does It Take To Do A Regression Analysis, Uk, Routledge. Hanlon, M., Mills, L. F. & Slemrod, J. 2005. An Empirical Examination Of Corporate Tax Noncompliance. Cambridge University Press, 171-225. Joulfaian, D. 2000. Corporate Income Tax Evasion And Managerial Preferences. The Review Of Economics And Statistics, 82, 698-701. Kamdar, N. 1997. Corporate Income Tax Compliance: A Time Series Analysis. Atlantic Economic Journal, 25, 37-49. Kien and Nga 2017. 2017 Budget Collection Task To Need New Thinking And New Human Resources. Viet Nam Taxation, The Magazine Of General Department Of Taxation, 1, 6-7. Kinsey, K. A. 1986. Theories And Models Of Tax Cheating. Criminal Justice Abstracts, 18. Kirchler, E., Muehlbacher, S., Kastlunger, B. & Wahl, I. 2007. Why Pay Taxes? A Review Of Tax Compliance Decisions. Working Paper, 07-30. Lewis, A. 1982. The Social Psychology Of Taxation. British Journal Of Social Psychology, 21, 151-158. Lê Xuân Trường & Nguyễn Đình Chiến 2013. Nhận diện các hành vi gian lận thuế. Tạp Chí Tài Chính. Lieberman, E. 2002, Taxation Data as Indicators of State-Society Relations:Possibilities and Pitfalls in Cross-National Research,Studies of Comparative International Development 36(1), pp. 89-115 Lisowsky, P. 2010. Seeking Shelter: Empirically Modeling Tax Shelters Using Financial Statement Information. The Accounting Review, 85, 1693-1720. Loebbecke, J. K., Eining, M. M. & Willingham, J. J. 1989. Auditors’ Experience With Material Irregularities: Frequency, Nature, & Detectability. Auditing: A Journal Of Practice & Theory, 9. Lou, Y. I. & Wang, M. L. 2009. Fraud Risk Factor Of The Fraud Triangle Assessing The Likelihood Of Fraudulent Financial Reporting. Journal Of Business And Economics Research, 7. Mills, L. F. 1996. Corporate Tax Compliance And Financial Reporting. National Tax Journal, 49, 421-435. 19 Các yếu tố ảnh hưởng đến... Mo, P. L. L. 2003,Tax avoidance and anti- avoidance measures in major developing economies, Westport Murray, M. N. 1995. Sales Tax Compliance And Audit Selection. National Tax Journal, 48, 515-530. Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang 2009. Nghiên Cứu Thị Trường, Tp.HCM, NXB Lao Động. Nguyễn Đình Thọ 2011. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, NXB Lao Động Xã Hội. Nguyễn Minh Hà & Nguyễn Hoàng Quân 2012. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp tư nhân-xét khía cạnh nộp thuế đúng hạn. Tạp Chí Công Nghệ Ngân Hàng, 80, 23-34. Nguyễn Thị Lệ Thúy. 2009. Hoàn thiện quản lý thu thuế của nhà nước nhằm tĕng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp (Nghiên cứu tình huống của Hà Nội). Luận Án Tiến Sĩ, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Noor, R. M., Aziz, A. A. & Mastuki, N. A. 2012. Tax Fraud Indicators. Malaysian Accounting Review, 11, 43-57. Noor, R. M., Jamaludin, N. E., Omar, N. & Aziz, R. A. 2013. Measuring Tax Gap In The Service Industry. Finance And Economics Conference. Rydges Melbourne, Australia. Organization For Economic Cooperation And Development 2004. Compliance Risk Management: Managing And Improving Tax Compliance. Centre For Tax Policy And Administration. Pashev, K. 2005. Tax Compliance of Small Business in Transition Economies: Lessons fromBulgaria. Working paper 05-10. Andrew Young School of Policy Studies. Atlanta Georgia. Persons, O. S. 1995. Using Financial Statement Data To Indentify Factors Associated With Fraudulent Financial Reporting. Journal Of Applied Business Research, 11, 38-46. Rice, E. 1992. The Corporate Tax Gap: Evidence On Tax Compliance By Small Corporations. In: Slemrod, J. (Ed.) Why People Pay Taxes: Tax Compliance And Enforcement. Ann Arbor, Mi: University Of Michigan. Sapiei, N. S., Kasipillai, J. & Eze, U. C. 2014. Determinants Of Tax Compliance Behaviour Of Corporate Taxpayers In Malaysia. Ejournal Of Tax Research, 12, 383-409. Schilit, H. 2002. Financial Shenanigans, New York, Mcgraw-Hill. Schmolders, G. 1959. Fiscal Psychology: A New Branch Of Public Finance. National Tax Journal, 12, 340-345. Singh, V. 2003. Tax Compliance And Ethical Decision-Making: A Malaysian Perspective. Pearson Malaysia Sdn. Bhd. Skousen, C. J., Smith, K. R. & Wright, C. J. 2009. Detecting And Predicting Financial Statement Fraud: The Effectiveness Of The Fraud Triangle And Sas No. 99. Advances In Financial Economics, 13, 53-81. Spathis, C. T. 2002. Detecting False Financial Statements Using Published Data: Some Evidence From Greece. Managerial Auditing Journal, 17, 179-191. Spicer, M. W. 1974. A Behavioral Model Of Income Tax Evasion. Ph.D. Thesis. Song, Y. & Yarbrough, T. E. 1978. Tax Ethics And Taxpayer Attitudes: A Survey. Public Administration Review, 38, 442-452. Summers, S. L. & Sweeney, J. T. 1998. Fraudulently Misstated Financial Statements And Insider Trading: An Empirical Analysis. Accounting Review, 131-146. Tan, L. M. & Sawyer, A. J. 2003. A Synopsis Of Taxpayer Compliance Studies: Overseas Vis-À-Vis New Zealand. New Zealand Journal Of Taxation Law And Policy, 9, 431- 454. Tạp chí thuế 2018, ’10 sự kiện công tác thuế 2017’, truy cập tại < vn/tin-tuc-su-kien/148-tieu-diem/12869-10- 20 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật su-kien-cong-tac-thue-217.html>[ngày truy cập: 09/08/2018] United States Government Accountability Office 2012. Sources Of Noncompliance And Strategies To Reduce It. Gao-12-651t Washington Dc, April 19, 2012. Vogel, J. 1974. Taxation And Public Opinion In Sweden: An Interpretation Of Recent Survey Data. National Tax Journal, 27, 499-513. Vũ Hữu Đức và cộng sự 2009. Sử dụng các tỷ số trên báo cáo tài chính để phát hiện sai lệch thuế. Tạp Chí Phát Triển Kinh Tế, 56-61. Yahyapour, Y., Boroujeni, A. G. & Kheradyar, S. 2015. The Influence Of Factors On Corporate Tax Evasion: Evidence From The Firms Of Guilan Province. International Journal Of Review In Life Sciences, 5, 567-574. Yalama, G. O. & Gumus, E. 2013. Determinants Of Tax Evasion Behavior: Empirical Evidence From Survey Data. International Business And Management, 6, 15-23. Yusof, N. A. M., Ling, L. M. & Wah, Y. B. 2014. Tax Noncompliance Among Smcs In Malaysia: Tax Audit Evidence. Applied Accounting Research, 15, 215-234. Zainal Abidin, M. Y., Hasseldine, J. & Paton, D. 2010. An Analysis Of Tax Non-Compliance Behaviour Of Small And Medium-Sized Corporations In Malaysia. In: K. Datt, T.- N., B., And Bain, K (Ed.) International Tax Administration: Building Bridges. Sydney: Cch Australia Limited. Từ viết tắt: Cơ quan thuế (CQT), Thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_khong_tuan_thu_thue_thu_nhap_doanh.pdf