Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng

TÓM TẮT

Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín

dụng chính thức của nông hộ trồng lúa dựa trên số liệu thu thập từ 190 nông hộ ở thị xã

Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. Kết quả phân tích hồi quy Probit và Tobit cho thấy tuổi của chủ

hộ, giá trị tài sản thế chấp và tham gia vào đoàn thể tại địa phương là các yếu tố ảnh

hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa. Ngoài ra, nghiên

cứu tìm thấy mối quan hệ phi tuyến tính dạng hình chữ U ngược giữa tuổi của chủ hộ và

khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ. Trên cơ sở kết quả phân tích, các giải

pháp được đề xuất giúp nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng có khả năng

tiếp cận vốn tín dụng chính thức tốt hơn.

pdf 15 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng

Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
74 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG 
CHÍNH THỨC CỦA NÔNG HỘ TRỒNG LÚA Ở THỊ XÃ NGÃ NĂM, 
TỈNH SÓC TRĂNG 
Phan Ngọc Bảo Anh* và Huỳnh Thị Cẩm Thơ 
Khoa Kế toán – Tài chính ngân hàng, Trường Đại học Tây Đô 
(Email: phanngocbaoanh@tdu.edu.vn) 
Ngày nhận: 15/01/2020 
Ngày phản biện: 04/02/2020 
Ngày duyệt đăng: 15/4/2020 
TÓM TẮT 
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín 
dụng chính thức của nông hộ trồng lúa dựa trên số liệu thu thập từ 190 nông hộ ở thị xã 
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. Kết quả phân tích hồi quy Probit và Tobit cho thấy tuổi của chủ 
hộ, giá trị tài sản thế chấp và tham gia vào đoàn thể tại địa phương là các yếu tố ảnh 
hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa. Ngoài ra, nghiên 
cứu tìm thấy mối quan hệ phi tuyến tính dạng hình chữ U ngược giữa tuổi của chủ hộ và 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ. Trên cơ sở kết quả phân tích, các giải 
pháp được đề xuất giúp nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng có khả năng 
tiếp cận vốn tín dụng chính thức tốt hơn. 
Từ khóa: Tín dụng chính thức, nông hộ trồng lúa, khả năng tiếp cận 
Trích dẫn: Phan Ngọc Bảo Anh và Huỳnh Thị Cẩm Thơ, 2020. Các yếu tố ảnh hưởng đến 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, 
tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại 
học Tây Đô. 08: 74-88. 
*Ths. Phan Ngọc Bảo Anh – Giảng viên Khoa Kế toán - TCNH, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
75 
1. GIỚI THIỆU 
Tín dụng nông thôn có vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy sản xuất nông 
nghiệp, tăng thu nhập và từng bước nâng 
cao đời sống của nhân dân. Thị trường 
tín dụng nông thôn ở Việt Nam nói 
chung và tỉnh Sóc Trăng nói riêng đã 
được hình thành từ rất lâu, đây là thị 
trường bao gồm tín dụng chính thức và 
phi chính thức cùng tồn tại (Phan Đình 
Khôi, 2013). Thị xã Ngã Năm là một 
trong những khu vực trọng điểm về 
trồng trọt và chăn nuôi của Sóc Trăng, 
đặc biệt là lĩnh vực trồng lúa với tổng 
diện tích trồng lúa là 18.723,55 ha, 
chiếm trên 75% diện tích đất tự nhiên 
(Theo báo cáo của Phòng Kinh Tế - 
UBND thị xã Ngã Năm năm 2017). 
Những năm trở lại đây, người dân tại thị 
xã Ngã Năm đang có xu hướng mở rộng 
quy mô sản xuất, chuyển đổi phương 
thức canh tác mới cũng như áp dụng tiến 
bộ khoa học kỹ thuật nhằm tăng giá trị 
thương phẩm của sản phẩm lúa gạo cao 
hơn. Điều đáng quan tâm là nguồn vốn 
tín dụng chính thức vẫn chưa đáp ứng đủ 
nhu cầu vốn của các nông hộ trồng lúa 
tại thị xã Ngã Năm do vẫn còn tồn tại rất 
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, các 
tổ chức tín dụng ngần ngại cho vay vì rủi 
ro cao, thủ tục rườm rà, thế chấp tài 
sản,hay số tiền vay từ các tổ chức tín 
dụng chính thức còn bị hạn chế không 
đủ để phục vụ sản xuất (Phạm Quốc Bảo 
và Nguyễn Thị Búp, 2016). 
Có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về 
tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ 
được thực hiện rộng rãi trên thế giới và 
Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh/thành 
phố đồng bằng sông Cửu Long điển hình 
có thể kể đến như nghiên cứu của 
Trương Đông Lộc và Trần Bá Duy 
(2010) trên địa bàn tỉnh Kiên Giang; 
nghiên cứu của Lê Khương Ninh và 
Phạm Văn Dương (2011) và nghiên cứu 
của Trần Ái Kết và Huỳnh Trung Thời 
(2013) thực hiện ở An Giang; nghiên 
cứu của Nguyễn Quốc Nghi (2016) ở 
thành phố Cần Thơ; Tuy nhiên, dường 
như chưa có nghiên cứu chính thức nào 
về tiếp cận tín dụng chính thức của nông 
hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc 
Trăng. 
Vì vậy, việc nghiên cứu khả năng tiếp 
cập nguồn vốn tín dụng chính thức của 
nông hộ trồng lúa ở thị xã Ngã Năm, 
tỉnh Sóc Trăng là cần thiết nhằm đánh 
giá thực trạng và phân tích các yếu tố 
ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín 
dụng chính thức, từ đó đề xuất một số 
giải pháp phù hợp để giúp nông hộ trồng 
lúa có khả năng tiếp cận được nguồn vốn 
tín dụng chính thức tốt hơn và qua đó 
các tổ chức tín dụng chính thức cũng có 
cơ hội để thực thi nghiệp vụ tín dụng 
hiệu quả hơn. 
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
Vấn đề tiếp cận tín dụng của nông hộ 
đã được luận giải bởi nhiều lý thuyết, 
trong đó nổi bật lên hai lý thuyết được 
thừa nhận rộng rãi là lý thuyết cung cầu 
tín dụng và lý thuyết thông tin bất cân 
xứng (Hesser and Schuh, 1962; Stiglitz 
and Weiss, 1981; Hoff and Stiglitz, 
1990; Swain, 2002; Lê Khương Ninh và 
Phạm Văn Dương, 2011; Phan Đình 
Khôi, 2013). 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
76 
2.1. Lý thuyết cung cầu tín dụng 
Hesser and Schuh (1962) cho rằng 
việc tiếp cận tín dụng được bắt đầu với 
lý thuyết cầu tín dụng của một cá nhân 
hoặc một hộ gia đình với mong muốn tối 
đa hữu dụng kỳ vọng của họ từ việc vay 
tiền từ các nhà cung cấp tín dụng. Quyết 
định cung vốn tín dụng phụ thuộc vào lãi 
suất. Lãi suất chính là chi phí cơ hội của 
khoản vay và được xác định dựa trên số 
tiền vay và chất lượng của người đi vay 
(Swain, 2002; Phan Đình Khôi, 2003). 
Tuy nhiên, Stiglitz and Weiss (1981) với 
giả định thị trường tín dụng là không 
hoàn hảo lại lập luận rằng lý thuyết cung 
cầu tín dụng dựa vào lãi suất không thể 
giải thích khả năng tiếp cận vốn của 
người đi vay do trên thực tế quyết định 
cung tín dụng không được điều chỉnh 
bởi lãi suất trên thị trường, trong khi 
quyết định cho vay phụ thuộc vào cách 
mà người cho vay lựa chọn người đi vay 
dựa trên thông tin của người đi vay. 
2.2. Lý thuyết thông tin bất cân 
xứng 
Lý thuyết thông tin bất cân xứng ngụ 
ý rằng người cho vay không hiểu rõ mức 
độ rủi ro của người đi vay nên họ không 
thể phân biệt giữa người đi vay ít rủi ro 
và người đi vay nhiều rủi ro cũng như 
mức độ cố gắng hoàn trả nợ vay của 
người đi vay. Nếu không phân biệt được, 
điều tự nhiên là người cho vay sẽ yêu 
cầu người đi vay trả lãi suất cao hơn để 
bù đắp thiệt hại do rủi ro gây ra. Việc 
tăng lãi suất có thể làm giảm lợi nhuận 
của người cho vay do sự lựa chọn sai 
lầm của người cho vay và động cơ lệch 
lạc của người đi vay (Stiglitz and Weiss, 
1981; Lê Khương Ninh và Phạm Văn 
Dương, 2011). Các tổ chức tín dụng 
quyết định cấp tín dụng và cấp bao nhiêu 
dựa trên tập hợp các thông tin mà họ 
nhận được từ người đi vay như đặc điểm 
của người đi vay, lịch sử khả năng trả 
nợ, tài sản thế chấp của người vay, mục 
đích sử dụng tiền vay và khả năng tạo ra 
thu nhập để hoàn trả nợ vay (Hoff and 
Stiglitz, 1990). 
2.3. Lược khảo các nghiên cứu có 
liên quan 
Chủ đề tiếp cận tín dụng chính thức 
của nông hộ từ lâu đã thu hút được sự 
quan tâm của các nhà nghiên cứu thực 
nghiệm trong và ngoài nước. Nghiên 
cứu của Diagne (1999) về tiếp cận tín 
dụng của nông hộ ở Malawi bằng phân 
tích hồi quy OLS, đã kết luận có nhiều 
yếu tố tác động tới nhu cầu vay và giới 
hạn tiền vay của nông hộ, đó là tỷ lệ giá 
trị đất đai trên tổng giá trị tài sản, quy 
mô lao động, tỷ lệ nhân khẩu phụ thuộc 
của hộ và khoảng cách từ nhà ở tới nơi 
vay vốn. Guangwen and Lili (2005) thực 
hiện nghiên cứu các nông hộ ở huyện 
Tongren, Trung Quốc, qua phân tích hồi 
quy Probit đã chỉ ra các yếu tố gồm trình 
độ học vấn, tuổi của chủ hộ, số con dưới 
tuổi lao động, nguồn thu nhập, giá trị tiết 
kiệm của hộ và chính sách của địa 
phương có ảnh hưởng đến khả năng tiếp 
cận tín dụng chính thức của nông hộ. 
Khi nghiên cứu khả năng tiếp cận tín 
dụng của nông hộ ở Philippin bằng phân 
tích hồi quy Logit, Gan et al. (2007) đã 
kết luận rằng nông dân và ngư dân trẻ ít 
có khả năng tiếp cận tín dụng hơn nhóm 
đối tượng lớn tuổi. Tuy nhiên, theo lý 
thuyết vòng đời, tuổi càng lớn thì sức 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
77 
khoẻ và khả năng lao động kém dần, dễ 
dẫn đến rủi ro không trả được nợ nếu sự 
cố sức khỏe bất ngờ xảy ra, do đó tuổi 
càng lớn thì khả năng tiếp cận vốn vay 
càng thấp (Okten and Osili, 2004; Pham 
and Lensink, 2007). 
Ở Việt Nam, các nghiên cứu thực 
nghiệm về tiếp cận tín dụng chính thức 
đã chỉ ra các yếu tố thuộc về đặc điểm 
của nông hộ như tuổi tác, giới tính, quy 
mô hộ gia đình, trình độ học vấn, kinh 
nghiệm sản xuất, diện tích đất, tình trạng 
tài sản của hộ, có ảnh hưởng đến khả 
năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính 
thức (Trương Đông Lộc và Trần Bá 
Duy, 2010; Nguyễn Quốc Nghi, 2016; 
Lê Khương Ninh và Phạm Văn Dương, 
2011). Ngoài ra, nguồn tín dụng chính 
thức cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố 
như địa vị xã hội, việc tham gia đoàn thể 
địa phương, kế hoạch đầu tư khả thi, lịch 
sử vay vốn trong quá khứ, khả năng đi 
vay từ nguồn không chính thức, 
(Nguyễn Quốc Oánh và Phạm Thị Mỹ 
Dung, 2010; Trần Ái Kết và Huỳnh 
Trung Thời, 2013). 
Các biến sử dụng trong bài viết này 
được chọn lọc dựa trên cơ sở lý thuyết 
và kế thừa các nghiên cứu trước đây sao 
cho phù hợp với địa bàn nghiên cứu. Mô 
hình nghiên cứu và phương pháp nghiên 
cứu được trình bày ở phần tiếp theo. 
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1. Phương pháp thu thập số liệu 
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu là 
số liệu sơ cấp được thu thập qua việc 
phỏng vấn trực tiếp 190 hộ trồng lúa trên 
địa bàn 8 xã/phường thuộc thị xã Ngã 
Năm, tỉnh Sóc Trăng bao gồm phường 1, 
phường 2, phường 3, xã Tân Long, xã 
Vĩnh Quới, xã Mỹ Quới, xã Long Bình 
và xã Mỹ Bình. Các nông hộ được chọn 
theo phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên 
phân tầng. Tiêu thức phân tầng theo 
nông hộ có tiếp cận nguồn tín dụng 
chính thức và không tiếp cận được 
nguồn tín dụng chính thức. Sau khi phân 
nhóm, ta tiến hành chọn mẫu thuận tiện 
trong từng nhóm (Võ Thị Thanh Lộc, 
2015; Nguyễn Văn Anh Vũ, Phạm Phi 
Hùng và Bùi Hoàng Nam, 2016). Số liệu 
nghiên cứu được khảo sát từ tháng 
11/2018 đến tháng 12/2018. 
3.2. Phương pháp phân tích số liệu 
Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, 
nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy 
Probit nhị phân và tiếp theo sử dụng mô 
hình hồi quy Tobit để phân tích các yếu 
tố ảnh hưởng đến lượng tiền vay mà 
nông hộ nhận được từ nguồn tín dụng 
chính thức trên địa bàn thị xã Ngã Năm, 
tỉnh Sóc Trăng. 
Mô hình Probit 
Mô hình Probit được trình bày như 
sau: 
Yi = β0 + βiXi + ui 
Trong đó, biến phụ thuộc Yi là biến 
giả, nhận giá trị bằng 1 nếu hộ vay được 
vốn từ nguồn tín dụng chính thức và 
nhận giá trị 0 là ngược lại, Xi là các biến 
độc lập ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận 
nguồn vốn tín dụng chính thức, β0 là 
tung độ gốc; βi là các tham số hồi quy; ui 
là sai số ngẫu nhiên. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
78 
Mô hình Tobit 
Mô hình Tobit được trình bày như 
sau: 
yi = {
y1
∗ = βXi + ui nếu y1
∗ > 0 
 0 nếu y1
∗ ≤ 0
với ui ≈ in (0,σ2) 
Trong đó, biến phụ thuộc Yi thể hiện 
lượng tiền vay được từ nguồn tín dụng 
chính thức, Xi là các biến độc lập có ảnh 
hưởng đến lượng tiền vay của hộ; ui là 
sai số ngẫu nhiên. 
Các biến độc lập trong mô hình được 
diễn giải như sau: 
Tuổi của chủ hộ: Zeller (1994) cho 
rằng tuổi làm tăng khả năng tiếp cận tín 
dụng ở nông thôn, nơi mà tuổi của chủ 
hộ được gắn liền với việc tích lũy kinh 
nghiệm và của cải. Tuy nhiên, chủ hộ 
càng lớn tuổi thì sức khoẻ thường không 
ổn định, dễ mắc bệnh, khả năng lao động 
kém dần, dễ dẫn đến rủi ro không trả 
được nợ (nếu sự cố sức khỏe bất ngờ xảy 
ra), do đó chủ hộ càng lớn tuổi càng khó 
tiếp cận được vốn vay (Okten and Osili, 
2004; Pham and Lensink, 2007). Đồng 
thời, cùng với tuổi tác và kinh nghiệm, 
các hộ thường tích lũy được nhiều tài 
sản cũng như vốn nên có thể ít có nhu 
cầu vay hơn (Lê Khương Ninh và Phạm 
Văn Dương, 2011). Do đó, nhóm tác giả 
đã sử dụng thêm biến tuổi bình phương 
(tuoibinhphuong) để làm sáng tỏ vấn đề 
nghiên cứu. 
Kinh nghiệm sản xuất: Là số năm 
tham gia trồng lúa của chủ hộ. Theo thời 
gian, chủ hộ tích lũy thêm nhiều kinh 
nghiệm sản xuất phù hợp với đặc điểm 
và đảm bảo tính mùa vụ, qua đó có thể 
làm tăng năng suất và hạn chế được rủi 
ro trong quá trình sản xuất, tạo được 
nguồn thu nhập ổn định, vì vậy rủi ro 
mất vốn sẽ giảm nên dễ dàng tiếp cận 
được vốn tín dụng chính thức hơn (Bùi 
Văn Trịnh và Trương Thị Phương Thảo, 
2014). 
Thu nhập bình quân năm của hộ là 
thu nhập bình quân của hộ tính bằng 
triệu đồng/năm. Một trong những điều 
kiện để vay được vốn từ các tổ chức tín 
dụng chính thức là khả năng “tạo ra 
tiền” và “thu nhập” của người đi vay. 
Những hộ có thu nhập bình quân hàng 
năm cao dễ dàng tiếp cận tín dụng chính 
thức hơn (khi có nhu cầu) bởi thường 
được xem là có nhiều uy tín và khả năng 
trả nợ tốt hơn (Nguyễn Quốc Oánh và 
Phạm Thị Mỹ Dung, 2010). Tuy nhiên, 
các hộ có thu nhập cao thường tích lũy 
được nhiều vốn để sản xuất nên nhu cầu 
vay vốn của họ là rất ít, những hộ nghèo 
thì có thu nhập thấp, nên họ thường có 
nhu cầu về vốn cao (Vương Quốc Duy 
và Đặng Hoàng Trung, 2015) 
Tham gia đoàn thể là biến giả, nhận 
giá trị 1 nếu thành viên của hộ có tham 
gia các hội đoàn thể và nhận giá trị 0 là 
ngược lại. Các thành viên của tổ chức 
hội đoàn thể có cơ hội tiếp cận thông tin 
nhanh hơn những đối tượng khác do các 
chương trình tín dụng thường được phổ 
biến thông qua các tổ chức hội, đoàn thể 
(Nguyễn Quốc Oánh và Phạm Thị Mỹ 
Dung, 2010; Nguyễn Quốc Nghi, 2016). 
Giá trị tài sản thế chấp: Giá trị tài 
sản thế chấp của hộ (triệu đồng). Các hộ 
có tài sản thế chấp vay được nhiều vốn 
từ nguồn tín dụng chính thức hơn các hộ 
không có tài sản thế chấp. Các TCTD 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
79 
thường dùng tài sản thế chấp làm tài sản 
đảm bảo các khoản vay và cũng nhằm 
mục đích ràng buộc nông hộ trong vấn 
đề trả nợ (Phạm and Izumida, 2002; 
Nguyễn Quốc Oánh và Phạm Thị Mỹ 
Dung, 2010; Nguyễn Văn Anh Vũ và 
ctv., 2016). 
Tín dụng không chính thức là biến 
giả, nhận giá trị 1 nếu hộ có vay từ 
nguồn không chính thức và nhận giá trị 
0 là ngược lại. Lê Khương Ninh và 
Phạm Văn Dương (2011) cho rằng các 
hộ vay từ nguồn không chính thức 
thường ít tiếp cận được nguồn vốn tín 
dụng chính thức vì không đáp ứng được 
yêu cầu của các TCTD về thế chấp, thu 
nhập hay kế hoạch sử dụng vốn. Thực 
tế, các hộ có vay vốn không chính thức 
thường muốn vay vốn từ khu vực chính 
thức với lãi suất thấp để trả cho các 
khoản vay không chính thức với lãi suất 
cao là lý do chủ yếu (Nguyễn Quốc 
Oánh và Phạm Thị Mỹ Dung, 2010). 
Lịch sử tín dụng là biến giả, nhận giá 
trị 1 nếu nông hộ trả nợ vay của các 
TCTD đúng hạn trong quá khứ, nhận giá 
trị 0 là ngược lại. Các hộ thanh toán lãi 
và/hoặc gốc trễ hạn hoặc không thanh 
toán trong quá khứ được xem như có 
lịch sử tín dụng “xấu”, thông thường các 
hộ này sẽ khó có khả năng tiếp cận 
nguồn tín dụng chính thức từ các TCTD 
(Sarap, 1990; Pham và Lensink; 2007). 
Bảng 1.  ... ược nợ nếu sự cố sức khỏe bất ngờ xảy 
ra, do đó chủ hộ càng lớn tuổi càng khó 
tiếp cận được vốn vay (Okten và Osili, 
2004; Pham và Lensink, 2007). 
Biến giá trị tài sản thế chấp (X5) có 
tác động thuận chiều đến xác suất tiếp 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
83 
cận vốn tín dụng chính thức của nông hộ 
với mức ý nghĩa thống kê 1%. Cụ thể, 
khi giá trị tài sản thế chấp tăng 1 triệu 
đồng thì khả năng tiếp cận nguồn tín 
dụng chính thức của nông hộ tăng thêm 
0,025 điểm phần trăm với điều kiện các 
yếu tố khác không đổi. Kết quả này 
đúng với kỳ vọng ban đầu và phù hợp 
với kết quả nghiên cứu của Phạm và 
Izumida (2002), Nguyễn Quốc Oánh và 
Phạm Thị Mỹ Dung (2010), Nguyễn 
Văn Anh Vũ và ctv. (2016). 
Biến tham gia vào đoàn thể (X6) có ý 
nghĩa thống kê ở mức 10%, hệ số ước 
lượng bằng 0,639 mang dấu dương. 
Những hộ có tham gia vào đoàn thể địa 
phương có khả năng tiếp cận vốn tín 
dụng chính thức cao hơn các hộ khác. 
Kết quả này đúng với kỳ vọng ban đầu 
và đồng nhất với kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Quốc Oánh và Phạm Thị Mỹ 
Dung (2010), Nguyễn Quốc Nghi 
(2016). 
Các biến kinh nghiệm (X3), thu nhập 
(X4), hộ có vay nguồn không chính thức 
(X7), lịch sử tín dụng (X8) có giá trị p-
value lớn hơn 10% nên không có ý nghĩa 
về mặt thống kê. Nghĩa là trong một 
chừng mực nhất định của nghiên cứu thì 
các biến này không có ảnh hưởng đến 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức 
của nông hộ trên địa bàn nghiên cứu. 
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến 
lượng vốn tín dụng chính thức của hộ 
trồng lúa trên địa bàn thị xã Ngã Năm 
tỉnh Sóc Trăng 
Sau khi phân tích các yếu tố ảnh 
hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng 
chính thức của nông hộ, nghiên cứu tiếp 
tục xác định các yếu tố ảnh hưởng đến 
lượng tiền vay từ tín dụng chính thức 
của nông hộ trồng lúa trên địa bàn thị xã 
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. 
Theo số liệu trình bày ở Bảng 6 cho 
thấy giá trị LR Chi2 = 572,84, Prob > 
Chi2 = 0,0000 < 0,01, điều này cho thấy 
ta có thể bác bỏ giả thuyết H0 (H0: tất cả 
các biến độc lập đưa vào mô hình không 
có biến nào tác động đến lượng vốn tín 
dụng chính thức của hộ trồng lúa) và có 
thể kết luận rằng mô hình nghiên cứu là 
phù hợp với mức ý nghĩa 1%. Kết quả 
ước lượng hồi quy Tobit ở Bảng 6 cho 
thấy rằng trong số 8 biến độc lập đưa 
vào mô hình thì có 4 biến có ảnh hưởng 
đến lượng tiền vay từ tín dụng chính 
thức của nông hộ với mức ý nghĩa thống 
kê cao bao gồm tuổi của chủ hộ (X1), 
tuổi bình phương (X2), giá trị tài sản thế 
chấp (X5) và tham gia vào đoàn thể địa 
phương (X6). Trong điều kiện các yếu tố 
khác không đổi, sự thay đổi của từng 
yếu tố sẽ tác động đến lượng vốn tín 
dụng chính thức mà nông hộ trồng lúa 
nhận được trong mỗi năm được diễn giải 
như sau: 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
84 
Bảng 6. Kết quả phân tích mô hình Tobit 
 Hệ số β dy/dx Giá trị z p-value 
Hằng số -228,057 - -6,51 0,000 
Tuổi của chủ hộ (X1) 8,864 8,8636 5,52 0,000 
Tuổi bình phương (X2) -0,094 
-0,0943 
-5,08 
0,000 
Kinh nghiệm (X3) 0,289 0,2890 1,00 0,319 
Thu nhập (X4) -0,033 -0,0332 -0,92 0,358 
Giá trị thế chấp (X5) 0,822 
0,8223 
42,75 
0,000 
Tham gia đoàn thể (X6) 6,668 6,6681 2,46 0,015 
Hộ có vay nguồn không chính thức 
(X7) 
-3,611 
-3,2280 
-1,20 
0,230 
Lịch sử tín dụng (X8) 3,661 3,6111 1,33 0,186 
Số quan sát: 190 
Pseido R2 = 30,00% 
LR Chi2 = 572,84 
Prob > Chi2 = 0,000 
Log likehood = -668,396 
Phần trăm dự báo chính xác: 95,99 % 
Biến tuổi của chủ hộ (X1) có ý nghĩa 
thống kê ở mức 1%, hệ số ước lượng 
bằng 8,864 mang dấu dương, kết quả 
này đúng với kỳ vọng ban đầu và phù 
hợp với kết quả nghiên cứu của Zeller 
(1994). Hệ số ước lượng của biến tuổi 
bình phương (X2) là -0,094 mang dấu 
âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% 
cho thấy mối quan hệ có dạng chữ U 
ngược giữa tuổi của chủ hộ và lượng vốn 
tín dụng chính thức mà nông hộ nhận 
được. Khi tuổi của chủ hộ tăng lên đến 
một mức nào đó thì lượng vốn tín dụng 
chính thức mà hộ nhận được sẽ giảm. 
Okten và Osili (2004) và Pham và 
Lensink (2007) cho rằng chủ hộ càng 
lớn tuổi thì sức khoẻ và khả năng lao 
động kém dần, dễ dẫn đến rủi ro không 
trả được nợ nếu sự cố sức khỏe bất ngờ 
xảy ra, do đó chủ hộ càng lớn tuổi càng 
khó tiếp cận được vốn vay và lượng vốn 
vay từ tín dụng chính thức càng giảm. 
Biến giá trị tài sản thế chấp (X5) có 
tác động thuận chiều đến lượng vốn vay 
từ tín dụng chính thức mà nông hộ nhận 
được với mức ý nghĩa thống kê 1%. 
Những hộ có tài sản thế chấp vay được 
nhiều vốn hơn các hộ không có hoặc có 
ít tài sản thế chấp. Cụ thể, khi giá trị tài 
sản thế chấp tăng 1 triệu đồng thì lượng 
vốn vay từ tín dụng chính thức mà nông 
hộ nhận được tăng thêm 0,8223 triệu 
đồng với điều kiện các yếu tố khác 
không đổi. Kết quả này đúng với kỳ 
vọng ban đầu và phù hợp với kết quả 
nghiên cứu của Phạm và Izumida 
(2002), Nguyễn Quốc Oánh và Phạm 
Thị Mỹ Dung (2010), Nguyễn Văn Anh 
Vũ và ctv. (2016). Đây là một trong 
những điều kiện đảm bảo trong cho vay 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
85 
mà các tổ chức tín dụng đưa ra nhằm 
đảm bảo tiền vay và buộc người vay 
phải chấp hành. 
Biến tham gia vào đoàn thể (X6) có 
hệ số ước lượng bằng 6,668 mang dấu 
dương cho thấy mối quan hệ thuận chiều 
giữa việc tham gia đoàn thể và lượng 
vốn vay từ các tổ chức tín dụng chính 
thức với mức ý nghĩa thống kê 5%. 
Trong điều kiện các yếu tố khác không 
đổi, những hộ có tham gia vào các tổ 
chức đoàn thể địa phương như Hội Phụ 
nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, các 
tổ vay vốn, sẽ vay được từ các tổ chức 
tín dụng chính thức số tiền cao hơn các 
hộ không tham gia là 6,668 triệu đồng. 
Khi nông hộ tham gia vào các tổ chức 
đoàn thể địa phương sẽ giúp nông hộ 
nắm bắt các thông tin về tín dụng nhanh 
hơn, đặc biệt là các gói tín dụng ưu đãi. 
Thêm vào đó, các nông hộ này sẽ tận 
dụng hết tất cả những mối quan hệ để có 
thể vay vốn nhiều hơn so với khả năng 
có thể trả nợ của hộ (Nguyễn Quốc 
Oánh và Phạm Thị Mỹ Dung, 2010; 
Nguyễn Quốc Nghi, 2016; Nguyễn Văn 
Vũ An và ctv., 2016). 
Bên cạnh đó, các biến kinh nghiệm 
(X3), thu nhập (X4), hộ có vay nguồn 
không chính thức (X7), lịch sử tín dụng 
(X8) có giá trị p-value lớn hơn 10% nên 
không có ý nghĩa về mặt thống kê hay 
nói cách khác không có đủ bằng chứng 
cho rằng các biến này có ảnh hưởng đến 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức 
của nông hộ trồng lúa trên địa bàn 
nghiên cứu. 
4. KẾT LUẬN 
Dựa vào số liệu thu thập từ 190 nông 
hộ trồng lúa, nghiên cứu thực hiện nhằm 
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả 
năng tiếp cận tín dụng chính thức của 
nông hộ trồng lúa trên địa bàn thị xã 
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. Kết quả ước 
lượng bằng mô hình Probit và Tobit cho 
thấy tuổi của chủ hộ, giá trị tài sản thế 
chấp và tham gia vào đoàn thể địa 
phương là các yếu tố ảnh hưởng đến khả 
năng tiếp cận tín dụng chính thức của 
nông hộ trồng lúa với mức ý nghĩa thống 
kê cao. Nghiên cứu tìm thấy mối quan 
hệ phi tuyến tính dạng hình chữ U ngược 
giữa tuổi của chủ hộ và khả năng tiếp 
cận tín dụng chính thức. Nguyên nhân 
chủ yếu khiến nông hộ không tiếp cận 
được nguồn tín dụng chính thức là do 
không có tài sản thế chấp và không có 
xác nhận của địa phương. Số tiền nông 
hộ xin vay từ nguồn tín dụng chính thức 
so với số tiền vay được còn có sự chênh 
lệch nhất định. 
Đề xuất 
Dựa trên các kết quả phân tích, 
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp 
nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn 
vốn tín dụng chính thức của nông hộ 
trồng lúa tại thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc 
Trăng như sau: 
Đối với hộ trồng lúa 
* Tham gia các tổ chức đoàn thể tại 
địa phương như Hội Nông dân, Hội Phụ 
nữ, các tổ vay vốn, Các tổ chức đoàn 
thể này có thể giúp nông hộ được vay 
vốn khi có nhu cầu, đồng thời giúp hộ 
cập nhật được thông tin về các phương 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
86 
thức canh tác sản xuất mới, tiến bộ khoa 
học kỹ thuật hiện đại một cách dễ dàng 
và nhanh chóng. 
* Lượng vốn vay mà nông hộ nhận 
được từ các tổ chức tín dụng chịu ảnh 
hưởng bởi yếu tố giá trị tài sản thế chấp. 
Chính vì vậy, nông hộ nên liệt kê đầy đủ 
giá trị tài sản, sử dụng vốn vay đúng 
mục đích và mục đích chính đáng để tạo 
ra thu nhập. Thông qua đó, hộ cũng đảm 
bảo khả năng trả nợ của mình và tạo 
lòng tin với các tổ chức tín dụng, từ đó 
có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn 
chính thức khi có nhu cầu. 
Đối với các tổ chức tín dụng 
* Tăng cường mối quan hệ và phối 
hợp chặt chẽ với các tổ chức xã hội, 
chính quyền địa phương để đánh giá và 
phân tích nông hộ xin vay vốn được 
khách quan rõ ràng và sát thực tế nhằm 
giảm được thời gian thẩm định, người 
dân nhận được vốn vay nhanh hơn để 
phục vụ sản xuất. 
* Hoàn thiện chính sách tín dụng với 
lãi suất hợp lý, thời gian cho vay phù 
hợp nhằm tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho 
hoạt động tín dụng chính thức cũng như 
phát triển thị trường tín dụng nông thôn. 
Cải tiến quy trình, thủ tục cho vay theo 
hướng tinh gọn, đơn giản nhưng vẫn 
đảm bảo được các yêu cầu trong khâu 
thẩm định tín đụng. 
* Mở rộng mạng lưới các phòng giao 
dịch về nông thôn, việc cung cấp thông 
tin về nguồn tín dụng cho nông hộ cần 
chính xác và kịp thời để các hộ sản xuất 
có điều kiện tiếp cận được vốn khi có 
nhu cầu, góp phần xây dựng nền kinh tế 
nông nghiệp phát triển mạnh, người dân 
có đủ nguồn vốn phục vụ sản xuất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Diagne, A.,1999. Determinants of 
household access to and participation in 
formal and informal credit markets in 
Malawi. Discussion Paper 67. 
International Food Policy Research 
Institute, Washington, D.C. 
2. Gan, C., Nartea, G. V. and Garay, 
A., 2007. Credit accesibility of small-
scale farmers and fisherfolk in the 
Philippines. Review of Development 
and Cooperation. 
3. Guangwen, H. and Lili, L., 2005. 
People’s Republic of China: Financial 
Demand Study of Farm Households in 
Longren/Guizhou of PRC. ADB 
Technical Assistance Consult’s Report. 
Project Number: 35412, Sep. 2005. 
4. Hesser, Leon F., and G. Edward 
Schuh, 1962. The Demand for 
Agricultural Mortgage Credit," Journal 
of Farm Economics, Vol. 54, No. 5, pp. 
1583-1588. 
5. Hoff, Karla; Stiglitz, Joseph E., 
1990. Introduction: imperfect 
information and rural credit markets - 
puzzles and policy perspectives. The 
World Bank economic review, Vol. 4, 
No. 3(September 1990), pp. 235-250. 
6. Lê Khương Ninh và Phạm Văn 
Dương, 2011. Phân tích các yếu tố quyết 
định lượng vốn vay tín dụng chính thức 
của hộ nông dân ở An Giang. Tạp chí 
Công nghệ Ngân hàng, số 60, trang 8-
15. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
87 
7. Nguyễn Quốc Nghi, 2016. Các 
nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận 
tín dụng chính thức của nông hộ sản 
xuất lúa trong mô hình cánh đồng mẫu 
lớn ở thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa 
học trường Đại học Cần Thơ, số 3, trang 
11-15 
8. Nguyễn Quốc Oánh và Phạm Thị 
Mỹ Dung, 2010. Khả năng tiếp cận tín 
dụng chính thức của hộ nông dân: 
trường hợp nghiên cứu ở vùng cận ngoại 
thành Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Phát 
triển, tập 8, số 1, trang 170-177. 
9. Nguyễn Văn Anh Vũ, Phạm Phi 
Hùng và Bùi Hoàng Nam, 2016. Đánh 
giá khả năng tiếp cận tín dụng chính 
thức của nông hộ tại xã Đại An, huyện 
Trà Cú, tỉnh Trà Vinh”. Tạp chí Kinh tế 
– Văn hóa – Giáo dục, số 22, trang 28-
38. 
10. Okten, C. and Osili, U. O., 2004. 
Social Networks and Credit Access in 
Indonesia. World Development, Vol. 32, 
No. 7, pp. 1225–1246. 
11. Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Thị 
Búp, 2016. Phân tích các yếu tố ảnh 
hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng 
chính thức của nông hộ nuôi tôm thẻ 
chân trắng tại huyện Duyên Hải, tỉnh Trà 
Vinh. Tạp chí Khoa học trường Đại học 
Trà Vinh, số 22 – 6.2016, trang 10-18. 
12. Pham, B. D. and Izumida, Y., 
2002. Rural development finance in 
Vietnam: a microeconometric analysis 
of household surveys. World 
Development, Vol. 30, No. 2, pp. 319-
335. 
13. Phan Đình Khôi, 2013. Các nhân 
tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng chính 
thức và phi chính thức của nông hộ ở 
Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí 
Khoa học trường Đại học Cần Thơ, số 
28, trang 38-53. 
14. Sarap K., 1990. Factors affecting 
small farmers’ access to institutional 
credit in rural Orissa, India, 
Development and Change, London, 
Vol.21, pp.281-307. 
15. Stiglitz, J. E., and Weiss, A., 1981. 
Credit Rationing in Markets with 
Imperfect Information. The American 
Economic Review, Vol. 71, No. 3 (Jun., 
1981), pp. 393-410. 
16. Swain, R. B., 2002. Credit 
rationing in rural India. Journal of 
Economic Development, Vol. 27, No. 2, 
pp.1-20. 
17. Thi Thu Tra Pham and Robert 
Lensink, 2007. Lending policies of 
informal, formal and semiformal 
lenders: Evidence from Viet Nam. 
Economics of Transition, Vol 15, No. 2, 
pp.181-209. 
18. Trần Ái Kết và Huỳnh Trung 
Thời, 2013. Các nhân tố ảnh hưởng đến 
tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ 
trên địa bàn tỉnh An Giang. Tạp chí 
Khoa học trường Đại học Cần Thơ, số 
27, trang 17-24. 
19. Trương Đông Lộc và Trần Bá 
Duy, 2010. Các nhân tố ảnh hưởng đến 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức 
của nông hộ trên địa bàn tỉnh Kiên 
Giang. Tạp chí Ngân hàng, số 4, trang 
29-32. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08- 2020 
88 
20. Vương Quốc Duy và Đặng Hoàng 
Trung, 2015. Phân tích các nhân tố ảnh 
hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng 
chính thức của hộ chăn nuôi heo trên địa 
bàn quận Ô Môn, Cần Thơ. Tạp chí 
Khoa học trường Đại học Cần Thơ, số 
36, trang 42-51. 
21. Zeller, M., 1994. Determinants of 
credit rationing: A study of informal 
lenders and formal credit groups in 
Madagascar. World Development, Vol. 
22, No. 12, pp. 1895-1907. 
 FACTORS AFFECTING OFFICIAL CREDIT ACCESS OF RICE 
FARMERS IN NGA NAM TOWN, SOC TRANG PROVINCE 
Phan Ngọc Bao Anh and Huynh Thi Cam Tho 
Faculty of Accounting, Finance and Banking, Tay Do University 
(Email: phangocbaoanh@tdu.edu.vn) 
ABSTRACT 
The purpose of this study was to analyze factors affecting the accessibility of rice farmers 
to official credit. Data was collected from a survey of 190 households in Nga Nam town, 
Soc Trang province. Using Probit and Tobit models analysis, results showed that the age of 
farmers, value of collateral and paticipation of farmers in local unions were factors that 
effected the access of official credit. In addition, the study also found a nonlinear U-shaped 
relationship between the age of the rice farmers and access to official credit. Based on 
these results, solutions to improve the ability to access official credit of rice farmers in Nga 
Nam town, Soc Trang province were proposed. 
Keywords: Accessibility, formal credit, rice farmers 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_kha_nang_tiep_can_tin_dung_chinh_th.pdf