Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng Báo cáo tài chính: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa vào dữ liệu từ 279 công ty niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam trong khoảng thời gian 2009-2015, bằng phương pháp nghiên cứu định

lượng, tác giả kết luận quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng đến chất

lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư,

cơ quan quản lý và góp phần làm minh bạch thông

pdf 7 trang phuongnguyen 6180
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng Báo cáo tài chính: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng Báo cáo tài chính: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng Báo cáo tài chính: nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 13Số 128 - tháng 6/2018
CAÙC YEÁU TOÁ AÛNH HÖÔÛNG ÑEÁN CHAÁT LÖÔÏNG 
BAÙO CAÙO TAØI CHÍNH: NGHIEÂN CÖÙU
THÖÏC NGHIEÄM TAÏI VIEÄT NAM
PHùNG ANH THƯ*
THáI HồNG THụY KHáNH*
*Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa vào dữ liệu từ 279 công ty niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam trong khoảng thời gian 2009-2015, bằng phương pháp nghiên cứu định 
lượng, tác giả kết luận quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng đến chất 
lượng báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư, 
cơ quan quản lý và góp phần làm minh bạch thông tin báo cáo tài chính.
Từ khóa: Chất lượng báo cáo tài chính, công ty niêm yết, Việt Nam.
Factors affecting financial reporting quality: Experimental research in Vietnam 
The research was conducted to provide empirical evidence on the factors influencing the quality 
of financial statements of companies listed on the Vietnam’s stock market. Based on the data from 279 
companies listed on two stock exchanges in Vietnam in the 2009-2015 period, by quantitative research, 
the author concludes that enterprise size, profitability, financial leverage affects the quality of financial 
statements of listed companies. Research results are meaningful for investors, regulators and contribute to 
transparency of financial reporting information.
key words: Quality of financial statements, listed companies, Vietnam.
1. Giới thiệu
Thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và 
đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển 
vững chắc thị trường vốn Việt Nam. Nhưng khi đó 
vấn đề sở hữu và quản lý ngày trở nên tách biệt như 
chúng ta biết tới đó là lý thuyết đại diện. Sự tách 
biệt giữa sở hữu doanh nghiệp và quản lý doanh 
nghiệp, sẽ mang đến rất nhiều thuận lợi như việc 
chuyển nhượng quyền sở hữu không ảnh hưởng 
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi 
thuê được những nhà quản lý chuyên nghiệp đảm 
bảo thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy 
nhiên, việc tách biệt này lại dẫn tới một vấn đề nổi 
bật khác - vấn đề đại diện, hay còn gọi là vấn đề 
về xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các chủ sở 
hữu. Các nhà đầu tư hay còn gọi là các chủ sở hữu 
rất muốn biết chính xác tiền của mình đã được sử 
dụng như thế nào và tình hình hoạt động thực tế 
của công ty. Vì vậy, vấn đề minh bạch báo cáo tài 
chính và chất lượng công bố thông tin trên báo cáo 
tài chính rất được xem trọng đối với các nhà đầu tư 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN14 Số 128 - tháng 6/2018
và trên thế giới nói chung. Chất lượng thông tin 
trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt 
là thông tin về lợi nhuận có ảnh hưởng rất lớn đến 
quyết định nhiều bên liên quan.
Theo các nghiên cứu trước đây, có nhiều nghiên 
cứu xem xét đến chất lượng báo cáo tài chính khác 
nhau tập trung vào độ chính xác của thông tin kế 
toán: (1) mô hình thu nhập tùy ý do McNichols 
và Stubben phát triển (2008); (2) mô hình của các 
khoản dồn tích tùy ý của Kasznik (1999); (3) mô 
hình chất lượng dồn tích của Dechow và Dichev 
(2002). Trong đó, mô hình của Dechow và Dichev 
(2002) rất phổ biến và được nhiều nhà nghiên cứu 
sử dụng. Tại Việt Nam, có nghiên cứu của Đỗ Thị 
Vân Trang (2015), Trần Thị Thùy Linh, Mai Hoàng 
Hạnh (2015), Trương Thị Thùy Dương (2017).
Nghiên cứu này thực hiện nhằm đánh giá tác 
động các yếu tố đến chất lượng báo cáo tài chính 
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng 
khoán Việt Nam dựa trên phương pháp nghiên cứu 
định lượng phù hợp với dữ liệu bảng và dữ liệu của 
279 của tất cả các công ty niêm yết từ năm 2009 
loại trừ công ty tài chính, bảo hiểm và ngân hàng 
và có công bố báo cáo tài chính trong giai đoạn 
2009-2015. 
2. Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
2.1. Giả thuyết nghiên cứu 
DeFond và Jiambalvo (1994) xem xét các khoản 
dồn tích tùy ý trong năm trước khi phá sản, phù 
hợp với thao túng thu nhập của nhà quản lý để 
ngăn ngừa việc phá sản. Dichev và Skinner (2004) 
cũng tìm thấy bằng chứng thực nghiệm tương tự. 
Đôi khi các giám đốc điều hành của các công ty cố 
ý để có thể báo cáo thu nhập cao hơn cho lợi ích của 
họ, cũng như gia tăng bồi thường hoặc lợi ích nhận 
được từ công ty. Bergstresser và Philippon (2006) 
kiểm tra mối quan hệ giữa các ưu đãi cho Giám đốc 
điều hành và quản lý thu nhập cho thấy rằng giám 
đốc điều hành được khuyến khích (những người 
có mức bồi thường tổng thể cao hơn độ nhạy cảm 
với giá cổ phiếu của công ty) dẫn đến mức độ điều 
chỉnh thu nhập cao hơn.
Các nghiên cứu của Habib và cộng sự (2013) cho 
rằng có công ty lớn tránh sử dụng thủ thuật để làm 
đẹp báo cáo tài chính bởi các công lớn luôn quan 
tâm đến danh tiếng của mình nên họ sẽ tránh việc 
thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Nghiên cứu 
của Charitou và cộng sự (2011), Chen và cộng sự 
(2010), Habib và cộng sự (2013), Selahudin và cộng 
sự (2014) cho thấy một số lý do tại sao có sự tác động 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 15Số 128 - tháng 6/2018
tiêu cực của quy mô công ty trên hành vi quản lý 
thu nhập. Các công ty có quy mô lớn thường sẽ có 
hệ thống kiểm soát nội bộ phức tạp và có kiểm toán 
viên nội bộ có thẩm quyền. Hệ thống kiểm soát nội 
bộ sẽ giúp kiểm soát việc trình bày và công bố thông 
tin tài chính đến các nhà đầu tư. Nghiên cứu cũng 
chỉ ra rằng các công ty quy mô lớn có tác động tiêu 
cực liên quan đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận kế 
toán của doanh nghiệp. Đó là một yếu tố quyết định 
trong việc làm giảm các chất lượng các thông tin 
tài chính và cải thiện chất lượng báo cáo tài chính. 
Ngược lại, đối với các công ty nhỏ thường ít bị chú ý 
từ các nhà phân tích, Chính phủ nên thường có xu 
hướng thực hiện các thủ thuật nhằm tăng lợi nhuận 
trên báo cáo tài chính vì muốn thu hút nguồn vốn bổ 
sung từ bên ngoài.
Nghiên cứu của Trần Thị Thùy Linh và Mai 
Hoàng Hạnh (2015) nhằm phân tích ảnh hưởng 
của chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ 
đến hiệu quả đầu tư. Kết quả cho thấy chất lượng 
báo cáo tài chính và kì hạn nợ có mối tương quan 
dương với hiệu quả đầu tư. Các công ty ít sử dụng 
các khoản nợ ngắn hạn thì chất lượng báo cáo tài 
chính ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư cao hơn và 
ngược lại. Kết quả này có thể giúp các nhà quản trị 
tài chính thấy được vai trò của chất lượng báo cáo 
tài chính trong mối quan hệ với kì hạn nợ và hiệu 
quả đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ nghiên cứu 
chất lượng báo cáo tài chính và kỳ hạn nợ mà chưa 
có nghiên cứu nào trong nước về các yếu tố ảnh 
hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính. Do đó, 
hướng nghiên cứu của tác giả là không trùng lắp 
với các nghiên cứu trong nước.
Bảng 1: Các giả thuyết nghiên cứu và mối quan hệ với các lý thuyết nền tảng có liên quan
Giả thuyết Nội dung giả thuyết Lý thuyết liên quan kỳ vọng
H1 Tài sản cố định hữu hình có mối tương quan thuận đối với chất lượng báo cáo tài chính - Lý thuyết ủy nhiệm +
H2 Tỷ lệ tổng nợ phải trả trên tổng tài sản có mối tương quan nghịch đối với chất lượng báo cáo tài chính - Lý thuyết ủy nhiệm -
H3 Tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản có mối tương quan thuận đối với chất lượng báo cáo tài chính - Lý thuyết ủy nhiệm +
H4 Quy mô doanh nghiệp có mối tương quan thuận đối với chất lượng báo cáo tài chính - Lý thuyết ủy nhiệm +
H5 Vốn lưu động có mối tương quan nghịch đối với chất lượng báo cáo tài chính - Lý thuyết ủy nhiệm -
H6 Độ tuổi của công ty có mối tương quan thuận đối với chất lượng báo cáo tài chính - Lý thuyết ủy nhiệm +
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả cũng sử dụng 
phương pháp này để đo lường ảnh hưởng các yếu tố 
đến chất lượng báo cáo tài chính các công ty niêm 
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Cụ thể, 
tác giả sử dụng mô hình tác động cố định (FEM), 
mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) để thực hiện 
nghiên cứu và sử dụng phần mềm STATA để thực 
hiện phân tích dữ liệu bảng.
2.3. Dữ liệu
Mẫu nghiên cứu là tất cả 279 công ty niêm yết từ 
năm 2009 trên thị trường chứng khoán Việt Nam 
trong giai đoạn 2009-2015 với 1953 quan sát, loại 
trừ công ty tài chính, đầu tư, ngân hàng. Nguồn dữ 
liệu Datastream của Thomson Reuters, được truy 
cập từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Tài chính 
của Trường Đại học Kinh tế - Luật và báo cáo tài 
chính đã kiểm toán được công bố công khai của 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN16 Số 128 - tháng 6/2018
các công ty niêm yết. Sau các bước thực hiện thu 
thập dữ liệu, kết quả có 279 công ty niêm yết gồm 
150 công ty niêm yết sàn HOSE và 129 công ty trên 
sàn HNX. 
2.4. Mô hình nghiên cứu
Tác giả kế thừa mô hình nghiên cứu của Agrawal 
và Chatterjee (2015) để đo lường tác động của các 
yếu tố đến chất lượng báo cáo tài chính. Mô hình 
nghiên cứu được đề xuất như sau:
FRQit = δ0 + δ1 LEVit + δ2 FAit + δ3 ROAit + δ4 
SIZEit + δ5 WCAit + δ6 LAGEit + εit
Trong đó: i = 1,2,...,279 (với i là thể hiện cho 279 
công ty niêm yết); t = 1,2,..,6 (với t là khoảng thời 
gian 6 năm từ 2009 đến 2015); Biến FRQ - biến phụ 
thuộc, thể hiện chất lượng báo cáo tài chính của 
công ty i tại thời điểm t, được đo lường theo mô 
hình Dechow và Dichev (2002) như sau:
WCAi,t = β0 + β1 CFOi,t-1 + β2 CFOi,t + β3 CFOi,t+1 
+ εi,t
Các số dư từ phương trình phản ánh sự thay 
đổi trong khoản dồn tích vốn lưu động không được 
giải thích được bởi dòng tiền của năm hiện tại và 
các thời gian liền kề. Từ đó FRQ sẽ được tính là giá 
trị tuyệt đối của các số dư của mô hình này nhân 
với -1. 
Biến LEV - biến kiểm soát thể hiện tỷ lệ tổng 
nợ phải trả trên tổng tài sản của công ty i tại thời 
điểm t, (LEV = Tổng nợ phải trả/Tổng tài sản); Biến 
FA – biến kiểm soát, thể hiện tài sản cố định hữu 
hình của công ty i tại thời điểm t, (FA = Nguyên giá 
tài sản cố định hữu hình/Tổng tài sản); Biến ROA 
– biến kiểm soát, thể hiện tỷ lệ lợi nhuận trên tài 
sản của công ty i tại thời điểm t (ROA = Lợi nhuận 
trước thuế và lãi vay/Tổng tài sản); Biến SIZE – biến 
kiểm soát, thể hiện quy mô doanh nghiệp của công 
ty i tại thời điểm t (SIZE = ln (Tổng tài sản)); Biến 
WCA – biến kiểm soát, thể hiện vốn lưu động của 
công ty i tại thời điểm t (WCA = (Tài sản ngắn hạn 
–Nợ ngắn hạn)/Tổng tài sản); Biến LAGE – biến 
kiểm soát, thể hiện độ tuổi của công ty i tại thời 
điểm t (LAGE = ln (số năm hoạt động của công 
ty)); δ 1, δ 2,... δ 6 hệ số hồi quy đo lường mức 
thay đổi của FRQ trên một đơn vị thay đổi của biến 
độc lập khi mà giá trị của các biến độc lập khác là 
không đổi; ε_it – là sai số ngẫu nhiên.
3. Kết quả nghiên cứu
Thống kê mô tả
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu
Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất
FRQ 1.953 0,0415 0,1534 -0,6958 1,9026
LEV 1.953 0,5062 0,2128 0,0069 0,9293
FA 1.953 0,2104 0,1974 0 0,97641
ROA 1.953 0,0973 0,0803 -0,5101 0,9970
SIZE 1.953 26,978 1,3960 23,2820 30,8699
WCA 1.953 0,0248 0,1714 -1,8268 1,6037
LAGE 1.953 2,9482 0,6161 1,0986 4,4886
Nguồn: Phân tích dữ liệu từ phần mềm STATA
Theo số liệu thống kê mô tả của tất cả các biến 
trong bảng thống kê mô tả. 
ROA của các công ty niêm yết dao động từ 
-0,5101 đến 0,997 với mức trung bình là 0,097 trong 
giai đoạn từ 2009-2015. Công ty niêm yết LAF có 
tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản của công ty thấp nhất 
bằng -0,51 vào năm 2012. Trong khi đó, năm 2015 
KDC có tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản của công ty cao 
nhất là 0,93. Tình hình tỷ lệ sinh lời của Công ty Cổ 
phần Tập đoàn Kido (KDC) năm 2015 cao như vậy 
bởi biến động từ lợi nhuận sau thuế cả năm 2015 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 17Số 128 - tháng 6/2018
đạt 5.253 tỷ đồng, tăng mạnh so với mức 547 tỷ 
đồng lợi nhuận của năm 2014. 
SIZE của các công ty niêm yết dao động từ 23.28 
đến 30,87 với mức trung bình là 26,98 trong giai 
đoạn từ 2009-2015. Công ty niêm yết SAP có quy 
mô doanh nghiệp thấp nhất bằng 23,28 vào năm 
2015. Trong khi đó, năm 2015 HPG có quy mô 
doanh nghiệp cao nhất là 30,87.
Phân tích tương quan
Phân tích tương quan là đo lường cường độ của 
quan hệ giữa hai biến và hai biến được xem là hai 
biến ngẫu nhiên “ngang nhau” - không phân biệt 
biến độc lập và biến phụ thuộc. 
Bảng 3 cho thấy hệ số tương quan giữa chất 
lượng báo cáo tài chính và các biến độc lập dao 
động từ -0,24 đến 0,63. Điều này cho thấy, ngoại 
trừ biến LEV có mức tương quan cao với biến phụ 
thuộc, các biến độc lập khác có hệ số tương quan 
khá nhỏ.
Bảng 3: Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình
FRQ LEV FA ROA SIZE WCA LAGE
FRQ 1 
LEV -0,1596 1 
FA 0,1388 0,0139 1 
ROA 0,198 -0.3763 0,0182 1 
SIZE -0,0717 0,3289 0,078 -0,052 1 
WCA -0,3588 -0,0051 -0,0946 0,1029 0,033 1 
LAGE 0,0667 -0,1024 0,0585 0,0881 0,0791 -0,0095 1
Nguồn: Phân tích dữ liệu từ phần mềm STATA
Kết quả phân tích hồi quy
Bảng 4: Kết quả hồi quy tuyến tính theo FEM, REM của mô hình
Biến độc lập
FEM REM
Hệ số hồi quy Mức ý nghĩa Hệ số hồi quy Mức ý nghĩa
LEV -0,0604*** 0,003 -0,0668*** 0,001
FA 0,0802*** 0,000 0,0793*** 0,000
ROA 0,3405*** 0,000 0,3384*** 0,000
SIZE -0,0043 0,112 -0,0029 0,308
WCA -0,3193*** 0,000 -0,3222*** 0,000
LAGE 0,0094 0,127 0,0110* 0,073
CONS 0,1163 0,086 0,0802 0,283
Số quan sát 1.953 1.953
 R2 19,1% 33,25%
Kiểm định Hausman Chi2 (6) = 59,31Prob>Chi2: 0,0000
Kiểm định Modified Wald Chi2 (279) = 64740,77Prob>chi2 = 0,0000
Kiểm định Wooldridge F(1, 278) =14,541Prob>F: 0,0002
*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
Nguồn: Phân tích dữ liệu từ phần mềm STATA
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN18 Số 128 - tháng 6/2018
Kết quả cho thấy, mô hình các yếu tố tác động 
cố định (FEM) là mô hình phù hợp cho nghiên cứu 
này vì Prob > Chi2 = 0,0000 < 0,05. Tác giả sử dụng 
kiểm định Modified Wald để đánh giá phương sai 
đồng nhất, kiểm định Wooldridge để đánh giá hiện 
tượng tự tương quan. Dựa trên mô hình nghiên 
cứu được chọn là mô hình FEM, nghiên cứu ước 
lượng tham số hồi quy.
Kết quả từ Bảng 5 cho thấy, các biến độc lập FA, 
LEV, ROA, WCA có tác động đến chất lượng báo 
cáo tài chính ở mức ý nghĩa thống kê 1%, ngoại trừ 
biến SIZE và LAGE không có ý nghĩa thống kê.
Hàm hồi quy với mô hình tác động cố định đã 
sử dụng hiệu chỉnh Robust để loại bỏ phương sai 
không đồng nhất và hiệu chỉnh Prais-Winsten để 
khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai 
thay đổi:
FRQit = 0,1163 - 0,0604 LEVit + 0,0802 FAit + 
0,3405 ROAit + 0,3193 WCAit + εit
Kết quả đã chứng minh được các yếu tố FA, 
LEV, ROA, WCA có ảnh hưởng đến chất lượng báo 
cáo tài chính. 
So sánh kết quả
Biến ROA, FA có mức ý nghĩa thống kê ở mô 
hình nghiên cứu và có tác động thuận đến chất 
lượng báo cáo tài chính và có ý nghĩa thống kê. Các 
công ty niêm yết càng lớn càng có xu hướng ít sử 
dụng hành vi quản lý thu nhập để thủ thuật kế toán 
nhằm làm đẹp báo cáo tài chính bởi danh tiếng của 
mình. Biến ROA có mối quan hệ thuận chiều với 
chất lượng báo cáo tài chính và có ý nghĩa thống 
kê, các nhà quản trị sử dụng hiệu quả tài sản của 
doanh nghiệp làm gia tăng chất lượng báo cáo tài 
chính. Kết quả này nhất quán với nghiên cứu của 
Charitou và cộng sự, 2011; Chen và cộng sự, 2010; 
Habib và cộng sự, 2013; Selahudin và cộng sự, 2014.
Biến LEV, WCA có mức ý nghĩa thống kê ở mô 
hình nghiên cứu và có tác động nghịch đến chất 
lượng báo cáo tài chính và có ý nghĩa thống kê. 
Điều này cho thấy các công ty sử dụng đòn bẩy tài 
chính, vốn lưu động dẫn đến chi phí lãi vay cao 
sẽ có xu hướng sử dụng thủ thuật kế toán nhằm 
làm đẹp báo cáo tài chính trong ngắn hạn. Kết quả 
nghiên cứu này trùng hợp với Charitou và cộng 
sự, 2011; Chen và cộng sự, 2010; Habib và cộng 
sự, 2013.
4. kết luận và kiến nghị
Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lời, 
vốn lưu động, đòn bẩy tài chính có tác động thuận 
chiều đến chất lượng báo cáo tài chính. Từ đó cho 
thấy, tình hình sức khỏe tài chính và quy mô của 
công ty có ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài 
chính. Do vậy, các công ty có thể tăng vốn cổ phần 
và vốn vay bằng cách thu hút nhà đầu tư thông qua 
việc minh bạch thông tin báo cáo tài chính và cải 
thiện kết quả hoạt động.
Tác giả cũng đề cập một vài hạn chế nghiên cứu 
và hướng nghiên cứu trong tương lai. Thứ nhất, 
mẫu được dựa trên các công ty được niêm yết. Do 
không có dữ liệu nên không thể bao gồm các các 
công ty chưa niêm yết trong mẫu nghiên cứu. Thứ 
hai, thêm một số nhân tố tác động đến chất lượng 
báo cáo tài chính như thương hiệu của doanh 
nghiệp, các hoạt động cổ đông và một số nhân tố 
khác. Nghiên cứu trong tương lai có thể xem xét 
vấn đề này.
Đối với các quy định, chính sách của Nhà nước
Mục tiêu chung của các cơ quan quan lý liên 
quan là ổn định và phát triển thị trường chứng 
khoán. Việc làm này thể hiện qua việc quản lý 
để tăng hiệu quả đầu tư; thu hút nhà đầu tư và 
tăng tính thanh khoản cho thị trường; quản lý 
các vấn đề về minh bạch như chất lượng, thời 
điểm công bố để gia tăng tính hiệu quả của thị 
trường chứng khoán. 
Đối với doanh nghiệp
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 19Số 128 - tháng 6/2018
Đầu tiên, doanh nghiệp cần phải chú trọng một 
số vấn đề về công bố thông tin báo cáo tài chính 
như về mặt thời gian, chất lượng thông tin báo cáo 
tài chính.
Thứ hai, kế toán viên và nhà quản trị không 
nên hay hạn chế áp dụng các phương pháp kế toán 
một cách có chủ đích gây sai lệch thông tin báo 
cáo tài chính và ảnh hưởng đến khả năng hoạt 
động liên tục trong tương lai của doanh nghiệp 
hay quyết định nhà đầu tư. Chẳng hạn, hiện nay 
các doanh nghiệp giảm khoản dự phòng nợ xấu 
do đánh giá tình hình con nợ được cải thiện, giảm 
chi phí, tăng lợi nhuận nhằm tô hồng bức tranh 
tài chính của doanh nghiệp và các thủ thuật khác 
giữa công ty “mẹ” và “con” nhằm giảm chi phí, 
gia tăng lợi nhuận. Hay là thuyết minh báo cáo 
tài chính một cách qua loa, không đầy đủ nhằm 
che đi những thông tin xấu, những khoản nợ tiềm 
tàng, những khoản doanh thu ghi nhận không 
trung thực, hợp lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agrawal, K., & Chatterjee, C. 2015. Earnings 
management and financial distress: 
Evidence from India. Global Business 
Review, 16(5), 140S-154S.
2. Bergstresser, D., & Philippon, T. 2006. CEO 
incentives and earnings management. 
Journal of Financial Economics, 80(3), 
511–529.
3. Charitou, A., Lambertides, N., & Trigeorgis, 
L. 2007. Earnings behaviour of financially 
distressed firms: The role of institutional 
ownership. Abacus, 43(3), 271–296.
4. Chen, Y., Chen, C., & Huang, S. 2010. An 
appraisal of financially distressed companies’ 
earnings management: Evidence from listed 
companies in China. Pacific Accounting 
Review, 22(1), 22–41.
Ngày nhận bài lần 1: 09/4/2018
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 03/5/2018
Ngày duyệt đăng: 10/6/2018
5. Dechow, P., & Dichev, I. 2002. The Quality of 
Accruals and Earnings: The Role of Accrual 
Estimation Errors. The Accounting Review, 
77, 35-59.
6. DeFond, M., & Jiambalvo, J. 1994. Debt 
covenant violation and manipulation 
of accruals. Journal of Accounting and 
Economics, 17(1), 145–176.
7. Dichev, I., & Skinner, D. 2004. Large sample 
evidence on the debt covenant hypothesis. 
Journal of Accounting Research, 40(4), 
1091–1123.
8. Đỗ Thị Vân Trang. 2015. Các mô hình đánh 
giá chất lượng báo cáo tài chính, Tạp chí 
Chứng khoán Việt Nam, 200, tr 18-21.
9. Habib, A., Uddin Bhuiyan, B., & Islam, 
A. 2013. Financial distress, earnings 
management and market pricing of 
accruals during the global financial crisis. 
Managerial Finance, 39(2), 155-180.
10. Kasznik, R., 1999. On the association 
between voluntary disclosure and earnings 
management. Journal of accounting 
research, 37(1), pp.57-81.
11. McNichols, M.F. and Stubben, S.R., 2008. 
Does earnings management affect firms’ 
investment decisions? The accounting 
review, 83(6), pp.1571-1603.
12. Selahudin, N.F., Zakaria, N.B., & Sanusi, 
Z.M. 2014. Remodelling the earnings 
management with the appear-ance of 
leverage, financial distress and free cash flow: 
Malaysia and Thailand evidences. Journal of 
Applied Sciences, 14(21), 2644–2661.
13. Trần Thị Thùy Linh, Mai Hoàng Hạnh. 
2015. Chất lượng báo cáo tài chính và kỳ 
hạn nợ ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của 
doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Phát triển 
Kinh tế 26 (10), trang 27-50.
14. Trương Thị Thùy Dương. 2017. Nâng cao 
chất lượng báo cáo tài chính công ty đại 
chúng. Tạp chí Tài chính, 1(3), tr.55-56.

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_nghien.pdf