Các vấn đề sức khỏe ở học sinh 13 đến 15 tuổi tại phường 8 thành phố Vũng Tàu
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Học sinh là đối tượng dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường, dẫn đến những hành vi ảnh
hưởng đến sức khỏe. Vì vậy, cần thiết có một nghiên cứu điểm để mở rộng vấn đề này trong tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các hành vi sức khỏe và các yếu tố bảo vệ ở học sinh tuổi 13 – 15 tại
phường 8 thành phố Vũng Tàu
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên toàn bộ học sinh từ 13 ‐15 tuổi tại phường 8, thành
phố Vũng Tàu. Khi thực hiện, điều tra viên hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho học sinh về cách tự điền vào bộ câu hỏi
và hướng dẫn, giải đáp những thắc mắc của học sinh nếu các em chưa hiểu các vấn đề trong suốt quá trình học
sinh tự điền vào bộ câu hỏi.
Kết quả nghiên cứu: Kết quả điều tra 614/630 em cho thấyphần lớn học sinh ăn nhiều rau, trái cây. Tỷ lệ
học sinh thường ăn rau, trái cây ít nhất 1 lần/ngày lần lượt là 90,7% và 83,9%, tỷ lệ này ở nữ cao hơn ở nam
(p=0,02). Có 45,7% và 40,2% học sinh thường uống nước ngọt có gas và ăn thức ăn nhanh ít nhất 1
lần/ngày;22,5% không có ngày nào tham gia hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày; 11,2% thật sự nghĩ đến việc
tự tử/12 tháng qua. Có 13,8% bị tấn công thể chất, 17,1% bị chấn thương nặng ít nhất 1 lần/12 tháng qua, các
tỷ lệ này ở nam cao hơn nữ (p<0,001 và="" p="0,001)." 47,2%="" học="" sinh="" hút="" thuốc="" lá="" ít="" nhất="" 1="" ngày/30="" ngày="" qua.="" tỷ="">0,001>
học sinh uống rượu/bia là 29,3%.Có 47,4% có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên biết
được các em làm gì vào thời gian rãnh, tỷ lệ này ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi (p=0,001) và 51,3% học
sinh có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên đưa ra lời khuyên cho các em.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các vấn đề sức khỏe ở học sinh 13 đến 15 tuổi tại phường 8 thành phố Vũng Tàu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 402 CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE Ở HỌC SINH 13 ĐẾN 15 TUỔI TẠI PHƯỜNG 8 THÀNH PHỐ VŨNG TÀU Nguyễn Doãn Thành*, Dương Tiểu Phụng*, Nguyễn Thủy Tiên* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Học sinh là đối tượng dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường, dẫn đến những hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe. Vì vậy, cần thiết có một nghiên cứu điểm để mở rộng vấn đề này trong tương lai. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ các hành vi sức khỏe và các yếu tố bảo vệ ở học sinh tuổi 13 – 15 tại phường 8 thành phố Vũng Tàu Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên toàn bộ học sinh từ 13 ‐15 tuổi tại phường 8, thành phố Vũng Tàu. Khi thực hiện, điều tra viên hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho học sinh về cách tự điền vào bộ câu hỏi và hướng dẫn, giải đáp những thắc mắc của học sinh nếu các em chưa hiểu các vấn đề trong suốt quá trình học sinh tự điền vào bộ câu hỏi. Kết quả nghiên cứu: Kết quả điều tra 614/630 em cho thấyphần lớn học sinh ăn nhiều rau, trái cây. Tỷ lệ học sinh thường ăn rau, trái cây ít nhất 1 lần/ngày lần lượt là 90,7% và 83,9%, tỷ lệ này ở nữ cao hơn ở nam (p=0,02). Có 45,7% và 40,2% học sinh thường uống nước ngọt có gas và ăn thức ăn nhanh ít nhất 1 lần/ngày;22,5% không có ngày nào tham gia hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày; 11,2% thật sự nghĩ đến việc tự tử/12 tháng qua. Có 13,8% bị tấn công thể chất, 17,1% bị chấn thương nặng ít nhất 1 lần/12 tháng qua, các tỷ lệ này ở nam cao hơn nữ (p<0,001 và p=0,001). 47,2% học sinh hút thuốc lá ít nhất 1 ngày/30 ngày qua. Tỷ lệ học sinh uống rượu/bia là 29,3%.Có 47,4% có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên biết được các em làm gì vào thời gian rãnh, tỷ lệ này ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi (p=0,001) và 51,3% học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên đưa ra lời khuyên cho các em. Kết luận: Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra vấn đề sức khỏe của học sinh ở thời điểm điều tra và những định hướng ưu tiên can thiệp, dự phòng bệnh tật cho học sinh ở địa phương và đây cũng là cơ sở cần thiết cho nghiên cứu mở rộng về các hành vi nguy cơ sức khỏe ở học sinh trong tương lai. Từ khóa: hành vi sức khỏe, học sinh, Vũng Tàu SUMMARY HEALTH BEHAVIORS AMONG CHILDREN SCHOOL‐AGED 13 ‐15 YEARS IN COMMUNE 8, VUNG TAU CITY Nguyen Doan Thanh, Duong Tieu Phung, Nguyen Thuy Tien * Y Hoc Tp. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 402 – 409 Background: Student is vulnerable to the environment which lead to behaviors affecting health. Objectives: To determine the prevalence and determinants of health behaviors among children school‐aged 13‐15 years in district 8, Vung Tau City. Method: Cross‐sectional study of all children school‐aged 13‐15 years in commune 8 Vung Tau city. Results: 630 school children were enumerated, but there were 614 students participated in the study. The research result indicates that most of students usually eat plenty of vegetables and fruits. The percentage of eating vegetables and fruit one or more times per day during the previous 30 days were 90.7% and 83.9% respectively, * Viện Y tế Công cộng Tp. HCM Tác giả liên lạc: BS. CKII. Nguyễn Doãn Thành ĐT: 0989028559Email: nguyendoanthanh@ihph.org.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 403 these proportions were higher in female compared to male (p=0.02).There were 45.7% and 40.2% of students who usually drink fizzy drinks and eat fastfood one or more times per day during the previous 30 days. 22.5% of students had no physically active day for a total of at least 60 minutes per day. 11.2% of student seriously considered attempting suicide during the past 12months; 13.8% were in a physical fight, 17.1% were seriously injured one or more times during the past 12 months, these proportions were higher in male compared to female (p<0.0001 and p=0.001). The percentage of smoking one or more times per day during the prevous 30 days was 47.2%. 29.3% of students drank alcohol. 2.8% of students had sexual intercourse, 35.3% of those had the frist sexual intercourse at under 11 years old. There were 47.4% of students who have parents or guardians always know what students spend on free time, this proportion was greater in the boys than the girls (p=0.001) and 51.3% of students who have parents or guardians always give advices to them. Conclusion: The study results provide a background for conducting interventions, preventing local students from diseases and will establish a baseline for further studies on risk behaviors among students in the future. Key words: health behaviours, school children,Vung Tau ĐẶT VẤNĐỀ Lứa tuổi học đường là giai đoạn các em dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường, dẫn đến những hành vi ảnh hưởng đến sức khỏe. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có hơn 2,6 triệu người từ 10 – 24 tuổi tử vong mỗi năm, chủ yếu là do các nguyên nhân có thể phòng ngừa được. Trong đó, chấn thương là nguyên nhân gây tử vong và tàn tật hàng đầu ở trẻ em trong độ tuổi đi học, khoảng 430 người trong độ tuổi từ 10 – 24 tuổi tử vong mỗi ngày do hành vi bạo lực mang tính cá nhân(4). Tổ chức Y tế Thế giới đã phát triển bộ công cụ điều tra GSHS (Global school‐ based student health survey)để khảo sát hành vi nguy cơ sức khoẻ và các yếu tố bảo vệ ở học sinh trong các trường học. Hiện nay, học sinh Việt Nam là nguồn nhân lực tương lai dồi dào, cần được xã hội và các ngành chức năng quan tâm, chăm sóc.Đây cũng là đối tượng dễ bị ảnh hưởng sức khoẻ nếu chúng ta không có các biện pháp dự phòng và nâng cao sức khoẻ một cách chủ động, thích hợp; đặc biệt là ở lứa tuổi vị thành niên. Theo điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam cho thấy tỷ lệ sử dụng rượu/bia có khuynh hướng gia tăng và tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở vị thành niên và thanh niên có xu hướng giảm. Thành phố Vũng Tàu là một trong những thành phố du lịch lớn và phát triển tại Việt Nam.Hiện nay, học sinh tại vùng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe, đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên. Theo kết quả điều tra của bệnh viện tâm thần Bà Rịa‐ Vũng Tàu, trong 100 học sinh trung học cơ sở thì có 19 em mắc các vấn đề về sức khỏe tâm lý, tâm thần(1). Vì thế, việc điều tra về các hành vi nguy cơ sức khoẻ ở học sinh từ 13 đến 15 tuổi trong các trường học tại vùng theo như WHO hiện đang hưởng ứng ở các nước trên thế giới được xem là rất cần thiết, quan trọng. Nghiên cứu này giúp nhận biết các hành vi nguy cơ sức khoẻ và các yếu tố bảo vệ ở học sinh trong tình hình hiện nay tại vùng. Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra những định hướng can thiệp, dự phòng bệnh tật cho học sinh ở địa phương và là cơ sở cần thiết cho nghiên cứu mở rộng về các hành vi nguy cơ sức khỏe ở học sinh trong tương lai. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát: Xác định tỷ lệ các hành vi sức khỏe và các yếu tố bảo vệ ở học sinh tuổi 13 – 15 tại phường 8 thành phố Vũng Tàu Mục tiêu cụ thể Xác định tình trạng dinh dưỡng, tỷ lệ các hành vi sức khỏe bao gồm hành vi ăn uống, vệ sinh cá nhân, hoạt động thể lực, sức khỏe tâm thần, bạo hành và chấn thương không chủ định, sử dụng rượu, thuốc lá, hành vi tình dục ở học sinh từ 13 đến 15 tuổi tại phường 8 thành phố Vũng Tàu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 404 Xác định tỷ lệ các yếu tố bảo vệ ở học sinh tuổi 13 – 15 tại phường 8 thành phố Vũng Tàu Xác định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng, các hành vi sức khỏe, các yếu tố bảo vệ với một số đặc điểm của học sinh: tuổi, giới. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Từtháng 5‐12/2013 tại phường 8 thành phố Vũng Tàu. Đối tượng nghiên cứu Học sinh 13 đến 15 tuổi đang học tại các trường thuộc phường 8 thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa ‐ Vũng Tàu vào năm học 2012‐2013. Phương pháp chọn mẫu Chọn toàn bộ học sinh từ 13 – 15 tuổi đang học tại các trường trên địa bàn phường 8, thành phố Vũng Tàu vào thời điểm điều tra. Công cụ và phương pháp thu thập dữ kiện Điều tra viên đo chiều cao và cân nặng học sinh bằng thước và cân chuyên dụng. Học sinh tự điền vào bộ câu hỏi của WHO. Bộ câu hỏi bao gồm các mục: thông tin chung, hành vi ăn uống, vệ sinh cá nhân, hoạt động thể lực, sức khỏe tâm thần, chấn thương và bạo hành, sử dụng thuốc lá, sử dụng rượu/bia, hành vi tình dục, các yếu tố bảo vệ. Điều tra viên được tập huấn kỹ về phương pháp thu thập số liệu. Điều tra viên hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho học sinh về cách tự điền vào bộ câu hỏi và hướng dẫn, giải đáp những thắc mắc của học sinh nếu các em chưa hiểu các vấn đề trong suốt quá trình học sinh tự điền vào bộ câu hỏi. Thực hiện giám sát trong suốt quá trình thu thập số liệu nhằm đảm bảo thông tin chính xác và không bị thiếu. Điều tra viên và các giáo viên giám sát, quản lý học sinh nhằm đảm bảo các em tự điền vào bộ câu hỏi một cách nghiêm túc. Số liệu được nhập bằng Epidata 3.02, phân tích bằng Stata 10.0. KẾT QUẢ Đặc điểm của đối tượng nghiêu cứu Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh thuộc ba lứa tuổi 13, 14 và 15 tuổi tương đương nhau, với tỷ lệ lần lượt là 35%, 30,9% và 34,1%. Tỷ lệ nữ sinh và nam sinh tương đương nhau (50,7% và 49,3%). Tỷ lệ học sinh bị suy dinh dưỡng là 8%, có khoảng 15% học sinh thừa cân/béo phì. Các hành vi sức khỏe, yếu tố bảo vệ và các yếu tố liên quan Hành vi ăn uống, vệ sinh cá nhân Phần lớn học sinh ăn nhiều rau, trái cây; 83,9% thường ăn trái cây ít nhất 1 lần/ngày, tỷ lệ này ở nữ cao hơn ở nam. Tỷ lệ học sinh thường ăn rau ít nhất 1 lần/ngày là 90,7%. Tỷ lệ học sinh thường uống nước ngọt có gas ít nhất 1 lần/ngày là 45,7%, có 40,2% thường ăn thức ăn nhanh ít nhất 1 lần/ngày. Có sự khác biệt về tỷ lệ ăn trái cây, rau củ giữa nam sinh và nữ sinh, giữa những học sinh thuộc các lứa tuổi khác nhau. Những tỷ lệ này ở nữ sinh cao hơn so với nam sinh, ở học sinh 13, 14 tuổi cao hơn so với học sinh 15 tuổi (p<0.001). Vệ sinh cá nhân ở học sinh khá tốt, chỉ có 8,3% học sinh không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay trước khi ăn có 4,5% không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay sau khi đi vệ sinh, 10,7% học sinh không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay bằng xà phòng. Tỷ lệ đánh răng < 1 lần/ngày ở học sinh 15 tuổi cao hơn so với học sinh 13 và 14 tuổi. Hoạt động thể lực Bảng 1: Thời gian tham gia hoạt động thể lực, hoạt động tĩnh tại, đi xe đạp/đi bộ ở học sinh (n=614) Đặc tính N (%) Đặc tính N (%) Số ngày hoạt động thể lực Thời gian dành cho các hoạt động tĩnh tại 0 ngày 138 (22,5) Ít hơn 1 giờ/ngày 32 (5,2) 1 ngày 116 (18,9) 1-2 giờ/ngày 181 (29,5) 2 ngày 118 (19,2) 3-4 giờ/ngày 232 (37,8) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 405 Đặc tính N (%) Đặc tính N (%) 3 ngày 91 (14,8) 5-6 giờ/ngày 83 (13,5) 4 ngày 47 (7,7) 7-8 giờ/ngày 47 (7,6) 5 ngày 23 (3,8) > 8 giờ/ngày 39 (6,4) 6 ngày 25 (4,0) 7 ngày 56 (9,1) Số ngày đi xe đạp/đi bộ 0 ngày 116 (18,9) 1 ngày 67 (10,9) 2 ngày 41 (6,7) 3 ngày 33 (5,4) 4 ngày 33 (5,4) 5 ngày 28 (4,6) 6 ngày 76 (12,3) 7 ngày 220 (35,8) Có 22,5% học sinh không có ngày nào tham gia hoạt động thể lực ít nhất 60 phút/ngày. Tỷ lệ này ở nữ cao hơn so với nam (27,7% so với 17,2%; p=0,002), ở học sinh 15 tuổi cao hơn so với 13, 14 tuổi ((30,1% so với 15,8% và 21,6%; p=0,002). Có 18,9% học sinh không đi xe đạp đến trường hoặc từ trường về nhà, 65,3% học sinh dành ít nhất 3 giờ/ngày cho các hoạt động tĩnh tại. Sức khỏe tâm thần Tỷ lệ học sinh thường xuyên hoặc luôn luôn cảm thấy cô đơn trong 12 tháng qua là 9,3%, tỷ lệ này ở nữ sinh cao hơn so với nam sinh. Có 7,6% thường xuyên hoặc luôn luôn cảm thấy lo lắng đến nỗi không ngủ được vào ban đêm, 11,1% thường xuyên hoặc luôn luôn cảm thấy khó tập trung. Có 11,2% thật sự nghĩ đến việc tự tử trong 12 tháng qua, tỷ lệ này ở nữ sinh cao hơn so với nam sinh (14,5% so với 7,6%; p=0,007). Trong đó có 23,2% học sinh có hành vi tự tử dẫn đến bị thương, ngộ độc hay sử dụng thuốc quá liều mà phải đến cơ sở y tế. Bạo hành và chấn thương không chủ định Tỷ lệ học sinh bị tấn công thể chất, đánh nhau, bị chấn thương nặng ít nhất 1 lần/12 tháng qua lần lượt là 13,8%, 14,9% và 17,1%. Các tỷ lệ này ở nam sinh cao hơn so với nữ sinh, với tỷ lệ lần lượt là 18,8% so với 9,0%, 23,4% so với 9,7%, 22,4% so với 12,5% (p<0,001). Các loại chấn thương chủ yếu là gãy xương/trật khớp (27,1%), chấn thương đầu cổ (12,2%). Nguyên nhân gây chấn thương phần lớn là do té ngã (42,1%), tai nạn giao thông (9,3%), bị đánh/đánh nhau (7,5%). Tỷ lệ học sinh bị bắt nạt ít nhất 1 ngày trong 30 ngày qua là 13,3%. Cách thức bắt nạt chủ yếu là trêu đùa vì hình dáng bên ngoài (19,3%), bị tẩy chay/phớt lờ (8,4%), bị trêu bằng những câu nói/những bình luận, cử chỉ liên quan đến tình dục (7,2%). Không có sự khác biệt về tỷ lệ bị bắt nạt ít nhất là 1 ngày trong 30 ngày qua giữa nam sinh và nữ sinh, giữa những học sinh thuộc lứa tuổi khác nhau. Sử dụng rượu bia, thuốc lá Bảng 2: Sử dụng thuốc lá, rượu bia ở học sinh Đặc tính N (%) Đặc tính N (%) Tuổi hút thuốc lá lần đầu Uống rượu bia lần đầu ≤ 7 tuổi 9 (25,0) ≤ 7 tuổi 42 (23,3) 8 hoặc 9 tuổi 4 (11,1) 8 hoặc 9 tuổi 28 (15,6) 10 hoặc 11 tuổi 2 (5,6) 10 hoặc 11 tuổi 28 (15,6) 12 hoặc 13 tuổi 10 (27,8) 12 hoặc 13 tuổi 50 (27,8) 14 hoặc 15 tuổi 11 (30,5) 14 hoặc 15 tuổi 32 (17,7) Tổng 36 (100) Tổng 180 (100) Số ngày hút thuốc/30 ngày qua Số ngày uống đồ uống có cồn 0 ngày 19 (52,8) 0 ngày 92 (51,1) 1 hoặc 2 ngày 10 (27,8) 1 hoặc 2 ngày 65 (36,1) 3-5 ngày 3 (8,3) 3-5 ngày 17 (9,5) 6-9 ngày 1 (2,8) 6-9 ngày 2 (1,1) 10-19 ngày 1 (2,8) 10-19 ngày 2 (1,1) 30 ngày 2 (5,5) 20-29 ngày 2 (1,1) Tổng 36 (100) Tổng 180 (100 Số ngày hút thuốc thụ động Số đơn vị rượu/bia 0 ngày 30 (26,3) < 1 đơn vị rượu 42 (47,7) 1 hoặc 2 ngày 42 (36,8) 1 đơn vị rượu 29 (32,9) 3 hoặc 4 ngày 18 (15,8) 2 đơn vị rượu 7 (8,0) 5 hoặc 6 ngày 4 (3,5) 3 đơn vị rượu 3 (3,4) 7 ngày 20 (17,6) 4 đơn vị rượu 2 (2,3) Tổng 114 (100) Tổng 88 (100) Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá là 5,9%. Đa số học sinh hút thuốc lá lần đầu lúc 12 đến 15 tuổi, có 25% học sinh hút thuốc lá lần đầu lúc ≤ 7 tuổi. Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá ít nhất 1 ngày/30 ngày Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 406 qua là 47,2%. Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá thụ động ít nhất 1 ngày trong 30 ngày qua là 73,7%. Tỷ lệ học sinh uống rượu/bia là 29,3%, Phần lớn học sinh uống rượu bia lần đầu lúc 12‐13 tuổi (27,8%) và ≤ 7 tuổi (23,3%). Có 48,9% học sinh có ít nhất 1 ngày uống thức uống có cồn và 52,3% uống ít nhất 1 đơn vị rượu trong 30 ngày qua. Phần lớn học sinh có rượu/bia để uống là do gia đình cho (61,4%). Có 26,7% học sinh bị say rượu ít nhất là 1‐2 lần. 61,5% có cha mẹ hoặc người chăm sóc uống rượu/bia, 59,6% có bạn bè uống rượu/bia. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệhút thuốc lá lần đầu, tỷ lệ uống rượu bia lần đầu lúc ≤ 14 tuổi giữa những học sinh thuộc các lứa tuổi khác nhau. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hút thuốc lá, uống rượu bia ít nhất là 1‐2 ngày trong 30 ngày qua, tỷ lệ hút thuốc lá thụ động ít nhất là 1‐2 ngày, tỷ lệ uống ít nhất đơn vị rượu trong 30 ngày qua giữa nam sinh và nữ sinh, giữa những học sinh thuộc các lứa tuổi khác nhau. Hành vi tình dục Tỷ lệ học sinh đã quan hệ tình dục là 2,78%. Tỷ lệ học sinh không có sử dụng bao cao su trong lần quan hệ tình dục vừa rồi là 64,7%. 35,3% không sử dụng các biện pháp tránh thai khác. Không có sự khác biệt về các hành vi tình dục giữa nam sinh và nữ sinh, giữa những học sinh thuộc các lứa tuổi khác nhau. Các yếu tố bảo vệ Tỷ lệ học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn, thường xuyên kiểm tra bài tập về nhà là 33,6%; tỷ lệ này ở nam sinh cao hơn nữ sinh, ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi. Có 47,4% biết được các em làm gì và thời gian rảnh; tỷ lệ này ở học sinh 13 tuổi cao hơn 14 và 15 tuổi. Có 56,4% học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom không bao giờ hoặc hiếm khi can thiệp vào việc của học sinh. 51,3% có cha mẹ hoặc người trông nom luôn luôn hoặc thường xuyên đưa ra lời khuyên cho các em. BÀN LUẬN Về chế độ ăn rau và trái cây, kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn học sinh có ăn rau và trái cây trong 30 ngày qua. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới(5,6). Điều này có lợi cho sức khỏe của các em. Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều rau và trái cây tốt cho sức khỏe, làm giảm nguy cơ mắc một số loại ung thư và những bệnh mạn tính khác(2). Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn học sinh có ý thức vệ sinh cá nhân tốt. Tỷ lệ học sinh không đánh răng hoặc đánh răng ít hơn 1 lần/ngày rất thấp (3,6%). Đa số học sinh thường xuyên rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, chỉ có 8,3% học sinh không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay trước khi ăn, 4,5% học sinh không bao giờ hoặc hiếm khi rửa tay sau khi đi vệ sinh. Các kết quả này phù hợp với một số điều tra về hành vi sức khỏe của học sinh tại một số quốc gia trên thế giới(5,6,7).Việc giữ gìn vệ sinh cá nhân tốt ở các em có lợi cho sức khỏe, giúp phòng ngừa các bệnh lý về răng miệng và một số bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa như tiêu chảy, giun sán – các vấn đề sức khỏe thường gặp ở lứa tuổi học đường. Nghiên cứu cũng cho thấy phần lớn học sinh ít tham gia vào những hoạt động thể chất. Tỷ lệ học sinh có 7 ngày hoạt động thể chất ít nhất 60 phút/ngày trong 1 tuần qua là rất thấp (9,1%). Thời gian dành cho các hoạt động tĩnh tại ở học sinh như xem tivi, sử dụng máy vi tính, chơi game, ngồi tán gẫu với bạn bè khá cao. Có đến 65,3% học sinh dành ≥ 3 giờ/ngày cho các hoạt động tĩnh tại vào một ngày điển hình (bảng 1). So với kết quả nghiên cứu về các hành vi sức khỏe ở một số quốc gia trên thế giới, học sinh trong nghiên cứu này dành nhiều thời gian cho các hoạt động tĩnh tại nhiều hơn so với học sinh ở các nước khác(6,7). Việc ít tham gia các hoạt động thể lực, dành nhiều thời gian cho những hoạt động tĩnh tại ảnh hưởng đến sức khỏe của học sinh, là một trong những yếu tố nguy cơ dẫn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 407 đến tình trạng thừa cân, béo phì và các vấn đề sức khỏe khác(9,3). Nhà trường, gia đình, các cơ quan chức năng cần chú trọng giáo dục các em về tầm quan trọng của các hoạt động thể lực trong việc phòng chống thừa cân – béo phì; cũng như khuyến khích, động viên, nhắc nhở các em tham gia các hoạt động thể lực.Điều này góp phần làm giảm gánh nặng trong tương lai về các bệnh mạn tính liên quan đến thừa cân‐béo phì. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh có một số vấn đề về sức khỏe tâm thần, tuy nhiên các tỷ lệ này không cao. Kết quả này tương tự với một số nghiên cứu trên thế giới(5,6). Tỷ lệ học sinh trong nghiên cứu tại Vũng Tàu có mức độ thường xuyên gặp phải các vấn đề về sức khỏe tâm thần là khá thấp. Điều này có thể được giải thích là do phần lớn các em có nhiều bạn thân, có đến 68,2% học sinh có ít nhất là 3 người bạn thân; những người bạn thân sẽ giúp các em chia sẻ, tâm sự, trút bỏ, giảm bớt những lo lắng, phiền muộn, giải tỏa tâm lý. Về hành vi tự tử, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh thật sự nghĩ đến việc tự tử trong 12 tháng qua là 11,2%. Trong số đó có 23,2% học sinh có hành vi tự tử dẫn đến bị thương, ngộ độc hay sử dụng thuốc quá liều mà phải đến bác sĩ hay nhân viên y tế. Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới(6). Tỷ lệ học sinh bị tấn công thể chất ít nhất là 1 lần trong 12 qua thấp hơn so với tỷ lệ được tìm thấy trong các cuộc điều tra về hành vi sức khỏe của học sinh ở một số quốc gia trên thế giới(5,6,7). Điều này cho thấy tình hình bạo lực ở học sinh tại vùng vẫn còn thấp hơn so với nhiều khu vực trên thế giới. Vì thế, nhà trường và gia đình cần có các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn trước khi tình trạng này gia tăng trong những năm tiếp theo. Về tình hình các chấn thương nặng, kết quả nghiên cứu cho thấy có 17,1% học sinh bị chấn thương nặng ít nhất là 1 lần trong vòng 12 tháng qua. Tỷ lệ này thấphơn so với tỷ lệ được tìm thấy trong một số nghiên cứu khác(5,6,7). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ học sinh hút thuốc lá lần đầu lúc ≤ 13 tuổi tương đương với tỷ lệ tìm được trong nghiên cứu về hành vi sức khỏe của học sinh tại Thái Lan và Indonesia(6,5). Tỷ lệ học sinh hút thuốc lá ít nhất là 1 ngày trong 30 ngày qua (47,2%) cao hơn so với tỷ lệ được tìm thấy trong nghiên cứu tại Thái Lan (8,2%)(6) và Indonesia (10,9%)(5). Điều này có thể được giải thích là do tỷ lệ học sinh có người thân hút thuốc lá trong nghiên cứu tại thành phố Vũng Tàu là khá cao (55,2%). Việc hút thuốc lá ở người thân có ảnh hưởng đến tình hình hút thuốc lá ở trẻ. Những trẻ tiếp xúc với khói thuốc lá ở gia đình có khả năng hút thuốc lá cao gấp 1,5 đến 2 lần so với những trẻ không có tiếp xúc(8).Ngoài ra, một vấn đề quan trọng khác nữa là tỷ lệ học sinh hút thuốc lá thụ động ít nhất 1 ngày là khá cao (73,7%.). Việc hút thuốc lá thụ động có ảnh hưởng đến sức khỏe không kém so với việc hút thuốc lá chủ động. Hút thuốc lá thụ động là nguyên nhân dẫn đến các bệnh mạch vành, hô hấp ở người lớn; dẫn đến đột tử ở trẻ sơ sinh và dẫn đến tình trạng sinh con nhẹ cân ở phụ nữ mang thai. Ở trẻ em, hút thuốc lá thụ động là một trong những nguyên nhân góp phần của khoảng 31% các trường hợp tử vong(8). Về việc uống rượu/bia ở học sinh, nghiên cứu cho thấy tỷ lệ uống rượu/bia ở học sinh (29,3%) cao hơn so với điều tra tại Thái Lan vào năm 2008 (14,8%)(6). Bên cạnh đó, tỷ lệ học sinh có ít nhất 1 ngày uống thức uống có cồn (48,9%), tỷ lệ học sinh uống ít nhất 1 đơn vị rượu/bia (52,3%) trong 30 ngày qua cũng cao hơn so với kết quả nghiên cứu tại Thái Lan và Indonesia(6,5). Điều này cho thấy sự đáng lo ngại về tình hình sử dụng rượu/bia ở học sinh tại vùng.Đây là một vấn đề sức khỏe ảnh hưởng lớn đến các em. Tỷ lệ học sinh đã quan hệ tình dục là 2,78%. Trong số những học sinh đã quan hệ tình dục có 70,6% là ở tuổi từ 13 trở xuống, đây là đối tượng cần được quan tâm bảo vệ, chăm sóc phòng ngừa thông qua giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản. Đáng chú ý hơn, kết quả nghiên cứu còn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 408 cho thấy trong số những học sinh đã quan hệ tình dục thì có 17,7% học sinh có quan hệ tình dục với 2 người, tỷ lệ này cũng tương tự cho những học sinh có quan hệ tình dục ≥ 6 người. Điều đó khẳng định thêm hiện trạng mang tính xã hội về quan hệ tình dục tuổi học sinh đã là hồi chuông báo động về một thực tế đáng lo ngại mà cộng đồng xã hội cần quan tâm để tìm nguyên nhân và giải pháp ngăn ngừa. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng phụ huynh học sinh chưa thật sự quan tâm nhiều đến các em.Tỷ lệ học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên kiểm tra bài tập về nhà của học sinh là 33,6%. Có 47,4% học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên biết được các em làm gì vào thời gian rảnh. Tỷ lệ học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên hiểu được những khó khăn và lo lắng của học sinh là 31,9%. Có 51,3% học sinh có cha mẹ hoặc người trông nom/chăm sóc luôn luôn hoặc thường xuyên đưa ra lời khuyên và hướng dẫn cho các em. Các kết quả này tương tự như một số điều tra về hành vi sức khỏe ở học sinh trên thế giới(6,7). Đây là điều đáng lưu ý trong việc quan tâm, giám sát của nhà trường và phụ huynh học sinh. Nhà trường, phụ huynh có vai trò rất quan trọng trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho các em.Mối quan hệ tích cực giữa giáo viên, phụ huynh và học sinh là yếu tố giúp làm giảm tỷ lệ trầm cảm, tự tử, sử dụng chất gây nghiện, bạo lực và quan hệ tình dục sớm ở học sinh. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Các vấn đề sức khỏe ở học sinhđược rút ra: Học sinh của trường còn ít tham gia các hoạt động thể lực Đang có vấn đề về chấn thương do đánh nhau Ở học sinh, thật sự đang có những em nghĩ đến việc tự tử trong 12 tháng qua, tỷ lệ này ở nữ sinh cao hơn so với nam sinh. Hành vi hút thuốc lá và sử dụng rượu bia cũng là vấn đề nổi bật Hành vi quan hệ tình dục tỷ lệ khá cao học sinh không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ tình dục cũng như không sử dụng các biện pháp tránh thai khác trong lần vừa rồi. Vì vậy, nhà trường, gia đình và xã hội cần chú ý: Tăng cường giáo dục, thường xuyên nhắc nhở về chế độ ăn uống, vận động thể lực hợp lý cho học sinh; Cần quan tâm, giáo dục các em trong việc phòng chống bạo lực, đánh nhau và các tai nạn, thương tích, đặc biệt là ở đối tượng nam sinh. Gia đình, nhà trường và xã hội cần quan tâm sức khỏe tâm thần cho các em Nhà trường nên phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tổ chức các chương trình giáo dục phòng chống thuốc lá, rượu/bia; cũng như có các biện pháp can thiệp thích hợp đối với những học sinh đã và đang sử dụng rượu/bia, thuốc lá, giúp các em nhận thức và thay đổi hành vi để tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của bản thân. Phụ huynh học sinh cần quan tâm, tránh và hạn chế tạo điều kiện cho các em sử dụng rượu bia vì phần lớn học sinh có rượu/bia để uống là từ gia đình. Các chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản, đặc biệt là về nội dung tình dục an toàn nên đưa vào sớm hơn để các em có kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân vì phần lớn các em không sử dụng bao cao su, cũng như các biện pháp tránh thai khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo Bà Rịa‐ Vũng Tàu điện tử (2013). Rối nhiễu tâm trí học đường. http: //baobariavungtau.com.vn/xa‐hoi/201309/roi‐ nhieu‐tam‐tri‐hoc‐duong‐can‐thiep‐som‐de‐tranh‐hau‐qua‐ xau‐339189/. Truy cập 25/04/2013 2. Centers for Disease Control and Prevention Fruits and Vegetables. (2013). http: //www.cdc.gov/nutrition/everyone/fruitsvegetables/index.ht ml. Accessed on 04‐05‐2013 3. Pubmed (2013). Risk factors associated with overweight and obesity among urban school children and adolescents in Bangladesh: a case‐control study. http: //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/23651597. Accessed on 4 April 2013. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 409 4. World Health Organization (2006). Brochure: Tobacco: deadly in any form or disguise. http: //www.who.int/tobacco/communications/events/wntd/2006/R eport_v8_4May06.pdf. Accessed on 10‐05‐2013 5. World Health Organization (2007). Global school ‐ based student health survey in Indonesia http: //www.who.int/chp/gshs/2007_Indonesia_fact_sheet.pdf.Acce ssed on 10‐05‐2013 6. World Health Organization (2008). Global School‐based Student Health Survey in Thai Lan. http: //www.who.int/chp/gshs/2008_Thailand_fact_sheet.pdf. Accessed on 10‐05‐2013 7. World Health Organization (2012). Global School‐based Student Health Survey in Malaysia. http: //www.who.int/chp/gshs/Malaysia_2012_GSHS_FS_national. pdf. Accessed on 10 ‐05‐2013 8. World Health Organization 10 facts on second‐hand smoke. http: //www.who.int/features/factfiles/tobacco/en/index.html. Accessed on 04‐05‐2013 9. World Health Organization Reasons for children and adolescents to become obese. http: //www.who.int/dietphysicalactivity/childhood_why/en/index .html. Accessed on 04‐05‐2013 Ngày nhận bài báo: 27/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/6/2014 Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
File đính kèm:
- cac_van_de_suc_khoe_o_hoc_sinh_13_den_15_tuoi_tai_phuong_8_t.pdf