Các quy định cơ bản về quyền tư pháp trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Tóm tắt. Bài viết đã làm sáng tỏ tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về bản chất của nhà nước và pháp
luật Việt Nam kiểu mới và nhận thức-khoa học về vấn đề này; thực trạng của Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi lần thứ 1) hiện hành, đồng thời đưa ra những kiến giải lập pháp cụ thể đối với Dự thảo 03
Hiến pháp sửa đổi (lần thứ 2) và một số quy định cơ bản về quyền tư pháp (trên cơ sở mô hình tổ
chức bộ máy quyền lực Nhà nước theo ba nhánh) trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Các quy định cơ bản về quyền tư pháp trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các quy định cơ bản về quyền tư pháp trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 77 Các quy định cơ bản về quyền tư pháp trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt*, Nguyễn Khắc Hải* Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 22 tháng 03 năm 2011 Tóm tắt. Bài viết đã làm sáng tỏ tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về bản chất của nhà nước và pháp luật Việt Nam kiểu mới và nhận thức-khoa học về vấn đề này; thực trạng của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi lần thứ 1) hiện hành, đồng thời đưa ra những kiến giải lập pháp cụ thể đối với Dự thảo 03 Hiến pháp sửa đổi (lần thứ 2) và một số quy định cơ bản về quyền tư pháp (trên cơ sở mô hình tổ chức bộ máy quyền lực Nhà nước theo ba nhánh) trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. 1. Đặt vấn đề * 1. Từ trước đến nay những vấn đề bảo vệ Hiến pháp (BVHP) để sao cho nhà nước và pháp luật kiểu mới của Việt Nam sau Cách mạng tháng 8/1945 thực sự đạt được ba (03) đặc tính cơ bản là của nhân dân (1), dân chủ (2) và pháp quyền (3) luôn là ước mong của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khát vọng muôn đời của nhân dân ta và cũng chính là chủ trương của Đảng. Chẳng hạn: 1) Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã xác định nhiệm vụ của hệ thống pháp luật quốc gia trong thời kỳ này là hoàn thiện “cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp”; 2) Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) lần đầu tiên đã đưa ra luận điểm mới rất dân chủ và tiến bộ là “Xây dựng cơ chế phán ______ * Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-37547512. E-mail: viet180411@yahoo.com quyết về những vi phạm của Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp” [1] và; 3) Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) vừa qua cũng đã lần đầu tiên đưa ra luận điểm chỉ đạo mới rất quan trọng là: “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thiết chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” và “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992...” [2]. Do đó, trong giai đoạn xây dựng một Nhà nước pháp quyền (NNPQ) đích thực của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề liên quan đến các quy định về bảo vệ Hiến pháp (BVHP) với việc đưa ra những kiến giải lập pháp (KGLP) cụ thể trong Hiến pháp sửa đổi (HPSĐ) rõ ràng là có ý nghĩa khoa học-thực tiễn quan trọng thể hiện trên một loạt các bình diện chính sau đây: L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 78 1.1. Trước hết, về mặt lập pháp, mặc dù đã trải qua 65 hoạt động với 12 khóa Quốc hội (tháng 11/1946-tháng 5/2011), sau gần 25 năm đổi mới) (kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI vào tháng 12/1986 và, sau gần 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 – Đạo luật cơ bản của Nhà nước chính thức ghi nhận Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” (Điều 2) nhưng rõ ràng là cho đến hôm nay trong hệ thống pháp luật quốc gia hiện hành vẫn chưa có bất kỳ một văn bản pháp luật (VBPL) nào chính thức ghi nhận: cơ quan Nhà nước nào có “thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp” (gọi tắt là bảo hiến). Nói một cách khác, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa hề có cơ chế BVHP nào với tư cách là một cơ chế kiểm soát quyền lực (KSQL) Nhà nước rất quan trọng và hữu hiệu nhất để tạo ra được sự phối hợp và cân bằng, kiểm tra và chế ước nhau giữa các nhánh quyền lực theo đúng nghĩa của nó – BVHP bằng cơ chế KSQL nhà nước ngay từ bên trong nội bộ hệ thống quyền lực thông qua một cơ quan chuyên trách của bộ máy công quyền (vì thực ra Hiến pháp năm 1992 cũng chưa hề đề cập đến các thuật ngữ như: “KSQL” hay “thẩm quyền BVHP” theo đúng nghĩa của chúng). Bởi lẽ, tìm đọc tất cả các điều khoản trong Hiến pháp này, người ta mới chỉ thấy một số thuật ngữ như: 1) “Quyền giám sát tối cao” của Quốc hội đối với “toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (khoản 4 Điều 83); 2) Quốc hội có thẩm quyền “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp...” (khoản 2 Điều 84); 3) Ủy ban Thường vụ (UBTV) Quốc hội có thẩm quyền “Giải thích Hiến pháp” và “Giám sát việc thi hành Hiến pháp” (các khoản 3, 5 Điều 91) và; 4) Chính phủ có nhiệm vụ “Bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp” (đoạn 2 Điều 100). 1.2. Hai là, về mặt chính trị-xã hội, và có lẽ cũng chính vì sự bất cập như vậy mà Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua lần đầu tiên đã khẳng định luận điểm mới rất tiến bộ và dân chủ (như đã nêu trên). Như vậy, rõ ràng là từ thực tiễn hoạt động của bộ máy quản lý (BMQL) Nhà nước đương đại đã cho thấy, nguyện vọng tha thiết của xã hội và nhân dân ta đang đòi hỏi cấp bách việc sửa đổi-bổ sung lần thứ 2 Hiến pháp năm 1992 hiện hành (nói chung) và các quy định về quyền tư pháp (QTP) và BVHP (nói riêng) để sao cho Hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản của Nhà nước có tính pháp chế tối thượng (cao nhất) sau khi được sửa đổi-bổ sung phải được bảo vệ một cách hữu hiệu nhằm loại trừ tình trạng ban hành các VBPL vi hiến, cũng như những hành vi được thực hiện trên cơ sở các văn bản vi hiến đó, đồng thời góp phần ngăn ngừa các xâm phạm các quyền và tự do hiến định của công dân từ phía quyền lực Nhà nước, góp phần xây dựng thành công một NNPQ đích thực là của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. 1.3. Ba là, về mặt thực tiễn, mặc dù tính cấp bách của việc BVHP trong thực tiễn đời sống xã hội đã được Đại hội Đảng lần thứ X đưa ra và chính thức ghi nhận trong văn kiện quan trọng nhất của Đại hội này (như đã nêu trên đây) nhưng từ đó đến nay thì thực trạng của vấn đề này ra sao (?). Khoa học pháp lý (KHPL) nước nhà đã làm gì để phục vụ cho thực tiễn của đất nước (?). Có lẽ đây chính là “kẽ hở” và là điều bất cập lớn nhất của kiểu nghiên cứu khoa học (NCKH) “phòng giấy” đang tồn tại trong KHPL Việt Nam mà giới luật học nước nhà cần phải sớm khắc phục. Vì rõ ràng là, khác với các ngành KHXH khác (như: triết học, chính trị học, lịch sử, xã hội học hay tâm lý học), cũng như các chuyên ngành KHPL cơ bản (như: lý luận hay lịch sử về nhà nước hoặc về pháp luật, xã hội học pháp luật, triết học pháp luật), đã là nghiên cứu về các chuyên ngành luật thực định trong hệ thống pháp luật quốc gia, thì ngoài việc làm sáng tỏ về mặt lý luận những vấn đề tương ứng nào đó đã đặt ra) các sản phẩm cuối cùng của nó nhất thiết phải góp phần phục vụ thiết thực cho thực tiễn lập pháp và áp dụng pháp luật của đất nước với tư cách là nhiệm vụ quan trọng nhất- giá trị khoa học chủ yếu hơn cả và là lợi ích cơ bản nhất mà các nghiên cứu KHPL (nhất là những nghiên cứu đã được Nhà nước hỗ trợ kinh phí hàng tỷ VND từ tiền đóng thuế của nhân dân) cần phải đem lại cho cộng đồng. Vì rõ ràng là trong thời đại ngày nay, trình độ dân trí ở Việt Nam đã tăng lên, Đảng và Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân, thực tiễn hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật của nước ta rất cần các sản L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 79 phẩm NCKH thiết thực để phục vụ cho thực tiễn dưới dạng những KGLP cụ thể đối với từng Phần, Chương, và Điều của các Dự thảo VBPL tương ứng nhất định nào đó để tham khảo – nhìn vào là phân biệt và so sánh được ngay với các VBPL hiện hành, chứ không thể cứ phải “chịu” mãi các sản phẩm NCKH “phòng giấy” (theo lối mòn lý thuyết suông “trên mây”, “trên gió”) khi các sản phẩm đó có đến hàng trăm trang giấy A4 mà không đem lại lợi ích gì cho thực tiễn. 1.4. Và cuối cùng, về mặt lý luận, trong 05 năm qua (bắt đầu từ năm 2006 khi Đại hội X của Đảng đã đưa ra luận điểm mang tính chỉ đạo rất tiến bộ và dân chủ về “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp” (như đã nêu trên đây), mặc dù đã có nhiều chương trình và đề tài NCKH cấp Nhà nước được cấp kinh phí để nghiên cứu những vấn đề về Hiến pháp, BVHP, tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước (BMQL), v.v... và gần đây, là nghiên cứu về SĐHP nhưng cần phải nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật để khẳng định rằng, không hiểu nguyên nhân vì sao (Ví dụ: có thể do việc đưa ra những KGLP cụ thể cho phù hợp với nội dung của các ý tưởng trong từng Khoản, Điều, Chương hoặc/và Phần khi soạn thảo các VBPL là rất khó và phức tạp; do trình độ nghiên cứu và kỹ thuật lập pháp hạn chế; do thời gian và kinh phí được cấp chủ yếu dành nhiều cho các chuyến đi “tìm hiểu”, “khảo sát”, v.v... ở nước ngoài; do ít chịu khó đầu tư thời gian cho lao động khoa học ở trong nước như tìm tòi và khảo cứu, đọc các tài liệu và suy ngẫm để viết, tổ chức các buổi trao đổi, thảo luận hay tọa đàm đi đến tận cùng ngóc ngách của mỗi vấn đề tương ứng đã được nêu ra, v.v...) nên rõ ràng là cho đến nay trong KHPL nước nhà (ngoài những kiến giải lập pháp-KGLP cụ thể mà chúng tôi đã đưa ra) vẫn chưa có bất kỳ một công trình nào (ngoài việc giải quyết về mặt lý luận những vấn đề đặt ra) có thể đưa ra được những KGLP cụ thể đối với: 1) các Dự thảo HPSĐ nói chung, 2) các quy phạm hiến định về quyền lập pháp (QLP) hay quyền tư pháp (QTP) nói riêng hoặc 3) một số VBPL nào đó về BVHP với tư cách là sản phẩm cuối cùng của các kết quả nghiên cứu để đưa ra cho Quốc hội tham khảo. Chẳng hạn như: 1) Một văn bản Dự thảo Luật nào đó liên quan đến cơ chế BVHP với tên gọi cụ thể của từng Phần, Chương và Điều đâu (?) – không có (!); 2) Một (hoặc nhiều) Dự thảo HPSĐ với cơ cấu chung, cũng như tên gọi cụ thể của từng Phần, Chương và Điều đâu (?) – không có (!); 3) Các phương án cụ thể khác nhau (theo các biểu bảng tương ứng với từng mô hình để cho mọi người dễ hiểu) của việc tổ chức BMQL nhà nước Việt Nam (theo ba và bốn nhánh quyền lực) trong giai đoạn xây dựng NNPQ đâu (?) – không có (!). 2. Như vậy, những phân tích trên đây không chỉ cho phép khẳng định tính thời sự việc nghiên cứu, mà còn là lý do luận chứng cho tên gọi của bài viết này của chúng tôi. Tuy nhiên, do tính chất rộng lớn, phức tạp và nhiều khía cạnh của những vấn đề đã nêu (vì ngay mỗi vấn đề như: HPSĐ, BVHP, QTP, v.v... đều có thể trở thành một đối tượng NCKH độc lập và được đề cập trong nhiều cuốn sách chuyên khảo khác nhau) nên trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ cố gắng đề cập đến những vấn đề nào mà theo quan điểm của chúng tôi là cơ bản và quan trọng hơn cả theo hệ thống ba (03) nhóm vấn đề tương ứng với các Mục (§) cụ thể như sau: §1. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về bản chất của nhà nước và pháp luật Việt Nam kiểu mới và sự nhận thức- khoa học về vấn đề này; §2. Thực trạng của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi lần thứ 1) hiện hành; §3. Các Dự thảo HPSĐ và những KGLP cụ thể đối với một số quy định cơ bản về QTP trong Hiến pháp của giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam. 2. Nội dung vấn đề §1. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về bản chất của nhà nước và pháp luật Việt Nam kiểu mới và sự nhận thức-khoa học về vấn đề này 1. Đề dẫn. Việc nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước và pháp luật kiểu mới cho phép khẳng định rằng, ba đặc tính nhân dân (1), dân chủ (2) và pháp quyền (3) chính là nội dung chủ yếu và là bản chất quan trọng nhất của một Nhà nước và pháp luật kiểu L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 80 mới sau Cách mạng tháng 8/1945 mà Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng ở Việt Nam (và sự thể hiện rõ nét nhất điều này là sự chỉ đạo sáng suốt của Người trong việc soạn thảo ra bản Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á). Thiết nghĩ, ba đặc tính cơ bản và đầy lòng nhân ái đối với nhân dân này của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về nhà nước luôn luôn và cần phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quan điểm của Đảng và Nhà nước, cũng như trong nhận thức-khoa học đối với mỗi một cán bộ, đảng viên có tâm vì Tổ quốc và nhân dân ta trong toàn bộ quá trình soạn thảo, sửa đổi và bổ sung các quy định (nói chung), cũng như các quy định về QTP (nói riêng) của HPSĐ lần thứ 2 trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay, mà cụ thể là: 1.1. Về đặc tính nhân dân – trọn đời mình Hồ Chí Minh luôn mong muốn để sao cho các quy định về Nhà nước và pháp luật của nước Việt Nam mới nhất thiết phải phản ánh rõ nét chủ quyền của nhân dân trong toàn bộ các quy định về tổ chức BMQL nhà nước. Vì theo Hồ Chí Minh “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân...”, “là đày tớ, công bộc của nhân dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ... nếu Chính phủ mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải lật đổ Chính phủ đó”, “Trong bầu trời này không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ bất kỳ ở cấp nào và ngành nào đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”, “Bao nhiêu lợi ích đều phải vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”; v.v... [3-9]. 1.2. Về đặc tính dân chủ – quan điểm xây dựng một Nhà nước và pháp luật dân chủ kiểu mới vì nhân dân luôn luôn là ước vọng của Hồ Chí Minh vì theo Người cần phải có các quy định trong Hiến pháp và pháp luật để thể hiện trên thực tế sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào các hoạt động của quá trình tổ chức BMQL nhà nước. Người đã từng khẳng định: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được nhân dân...”, “Nước ta là nước dân chủ. Địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “Chính quyền nhân dân lãnh đạo phải dân chủ, thiết thực... và có nhiệm vụ thực hiện tự do dân chủ cho dân chúng”, “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền”, nên “quyền phải giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”, v.v... [3, 9, 10]. 1.3. Về đặc tính pháp quyền – toàn bộ tư tưởng chủ quyền của nhân dân và dân chủ chỉ theo Hồ Chí Minh chỉ có thể được thực hiện trên thực tế bằng Hiến pháp và pháp luật trong NNPQ nên ngay từ năm 1922 trong tác phẩm “Việt Nam yêu cầu ca” Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bảy xin hiến pháp ban hành; trăm điều phải có thần linh pháp quyền” [8, 11]. Ngoài ra, sinh thời Hồ Chí Minh đã phê phán rất nghiêm khắc các quan chức lười biếng, không chịu học tập để nâng cao năng lực công tác và trình độ chuyên môn là “hạng người nói suông, kiêu ngạo, quan liêu và không có năng lực làm việc”, “chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết”, “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu” nên “không làm việc được, phải thải đi” [10, 12]. 2. Sự nhận thức-khoa học thống nhất và biện chứng đối với vấn đề đang nghi ... n Thị Hà). NXB Đà Nẵng, 2008; Trí tuệ phương Đông ngàn năm. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội, 2008; Đào Trọng Thi. Diễn văn khai mạc Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ II với chủ đề “Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển” (TP.Hồ Chí Minh, ngày 14-16/7/2004); v.v... L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 90 người và của công dân) – chính là một công việc đầy trọng trách trước Tổ quốc, nhân dân và các thế hệ mai sau mà chúng ta-những người thuộc các thế hệ hôm nay cần phải tự suy ngẫm bằng trí tuệ của mình để lựa chọn chính xác một phương án tối ưu và khả thi hơn cả. Do đó, việc đầu tư thời gian để nghiên cứu một cách thấu đáo-kỹ càng, đồng thời biết lắng nghe ý kiến và sự phản biện (có thể là trái chiều nhưng với tâm thiện vì lợi ích chung của Tổ quốc và nhân dân) của dư luận xã hội (nói chung) và giới khoa học- trí thức (nói riêng) để từ đó đưa ra một quyết sách đúng đắn và hợp với lòng dân, đồng thời tạo được sự đồng thuận trong xã hội là điều rất quan trọng của tất cả những nhà cầm quyền anh minh và sáng suốt. 3. Và cuối cùng, ba là, chúng ta có quyền hy vọng rằng, hiện nay bằng nhiều chương trình và các đề tài NCKH cấp Nhà nước đã được cấp kinh phí hàng tỷ đồng các nhà khoa học-luật gia và các chuyên gia pháp lý là các thành viên của các chương trình và các đề tài đó sẽ xứng đáng với đồng tiền của Tổ quốc và nhân dân mà Nhà nước đã cấp cho nhất định sẽ đưa ra cho Đảng và Nhà nước tham khảo các sản phẩm cuối cùng với tư cách là các kết quả nghiên cứu khoảng vài chục phương án khác nhau về những KGLP cụ thể của các Dự thảo 1) Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi lần thứ hai) nói chung hoặc 2) các quy phạm hiến định về tổ chức BMQL nhà nước nói riêng. Còn về phía mình, trong khuôn khổ bài viết này, trên cơ sở một số suy ngẫm ban đầu chúng tôi chỉ dám mạo muội và khiên tốn đề xuất những KGLP của 1) một Dự thảo 3 HPSĐ năm 1992 (lần thứ hai) và 2) các quy định cơ bản về QTP trong HPSĐ (theo cả 02 phương án – coi hệ thống VKS thuộc và không thuộc nhánh QTP) để các đồng nghiệp cùng nhau trao đổi, cũng như để nhân dân thông qua những người đại diện của họ có thêm cơ sở tham khảo và quyết định một phương án nào đó hợp lý hơn cả cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Phụ lục 1 BẢNG SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA DỰ THẢO 1 HIẾN PHÁP VIỆT NAM (sửa đổi lần thứ 2) trên cơ sở mô hình tổ chức BMQL nhà nước theo ba nhánh với Quốc hội hai (hoặc một) Viện với cơ cấu chung gồm có 07 Phần, 43 Chương và 196 Điều (1) TRONG TƯƠNG QUAN VỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP NĂM 1992 HIỆN HÀNH STT Nội dung được quy định Theo Mô hình lý luận của Dự thảo 3 Hiến pháp sửa đổi Theo Hiến pháp năm 1992 hiện hành I Cơ cấu chung Bao gồm 07 phần, 43 chương và 196 điều Bao gồm 11 chương với 147 điều II Về chế độ hiến định của đất nước Đây là các quy định trong Phần thứ nhất “Những cơ sở hiến định của chế độ chính trị, chế độ kinh tế và chế độ xã hội” gồm có 11 Chương với 60 điều – Chương 1 “Chế độ chính trị”, Chương 2 “Chế độ kinh tế”, Chương 3 “Chế độ xã hội”, Chương 4 “Giáo dục-đào tạo”, Chương 5 “Khoa học-công nghệ”, Chương 6 “Văn hóa-nghệ thuật”, Chương 7 “An ninh- quốc phòng”, Chương 8 “Y tế và bảo vệ môi trường”, Chương 9 “Phụ nữ và trẻ em”, Chương 10 “Thương binh và cựu chiến binh” và, Chương 11 “Một số đối tượng chính sách khác và mà Nhà nước cần phải trợ giúp” (hoặc tùy theo nhà làm luật, cũng có thể không có Chương 11 này). Chỉ gồm có bảy (07) nội dung và được quy định trong 04 chương với tất cả 48 điều – Chương I “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - chế độ chính trị”, Chương II “Chế độ kinh tế”, Chương III “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ” và Chương IV “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Đây là các quy định trong Phần thứ hai “Các quyền con người và nghĩa vụ của công dân” Chỉ đề cập đến thuật ngữ “các quyền cơ bản của công dân” L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 91 III Về các quyền của con người và nghĩa vụ của công dân có 05 Chương với 40 điều – Chương 12 “Địa vị pháp lý của cá nhân ở Việt Nam”, Chương 13 “Các quyền con người ở Việt Nam”, Chương 14 “Các cơ chế bảo vệ quyền con người ở Việt Nam”, Chương 15 “Các nghĩa vụ của công dân Việt Nam” và, Chương 16 “Người nước ngoài và người không có quốc tịch ở Việt Nam”. (không có từ “con người”) và bao gồm một Chương V “Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” với tất cả 34 điều. IV (Với một số thay đổi nhỏ cho phù hợp) Về nhánh quyền lực lập pháp (Chỉ thay đổi tên gọi chương 22 trong Dự thảo 1 trước đây để phù hợp với Dự thảo 3 này. còn trong trường hợp tổ chức Quốc hội một Viện thì mới phải thay đổi tên gọi của hai Chương 18 và 19 cho giống như Dự thảo 2), Đây là các quy định trong Phần thứ ba “Những cơ sở hiến định của quyền lập pháp” cú 08 Chương với 30 điều – Chương 17 “Các quy định chung về tổ chức bộ máy lập pháp”(2), Chương 18 “Viện lập pháp-Hạ nghị viện”, Chương 19 “Viện dân biểu-Thượng nghị viện”, Chương 20 “Các Ủy ban của Quốc hội”, Chương 21 “Cơ quan Kiểm toán của Quốc hội”, Chương 22 “Cơ quan Thanh tra về nhân quyền của Quốc hội”, Chương 23 “Quy trình thông qua các đạo luật của Quốc hội” và, Chương 24 “Quy trình miễn nhiệm các chức vụ Nhà nước cao cấp do Quốc hội bổ nhiệm”. Chỉ gồm một Chương VI “Quốc hội” với vẻn vẹn tất cả chỉ có 18 điều. V Về nhánh quyền lực hành pháp Đây là các quy định trong Phần thứ tư “Những cơ sở hiến định của quyền hành pháp” có 06 Chương với 20 điều – Chương 25 “Các quy định chung về tổ chức bộ máy hành pháp”, Chương 26 “Chủ tịch nước”, Chương 27 “Hệ thống các cơ quan hành pháp trực thuộc Chủ tịch nước”, Chương 28 “Quy trình miễn nhiệm các chức vụ Nhà nước cao cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm”, Chương 29 “Chính phủ” và, Chương 30 “Hệ thống các cơ quan hành pháp trực thuộc Chính phủ”. Chỉ gồm hai Chương với 17 điều – Chương VII “Chủ tịch nước” và Chương VIII “Chính phủ”. VI (Bổ sung thêm 1 Chương 36 mới) Về nhánh quyền lực tư pháp (Việc bổ sung thêm một Chương 36 mới là vì theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020 thì các VKSND cũng được coi là các Đây là các quy định trong Phần thứ năm “Những cơ sở hiến định của quyền tư pháp” có 06 Chương với 26 điều – Chương 31 “Các quy định chung về tổ chức bộ máy tư pháp”, Chương 32 “Hệ thống Tòa án”, Chương 33 “Địa vị pháp lý của thẩm phán ở Việt Nam”, Chương 34 “Tòa án Hiến pháp” (TAHP)(3), Chương 35 “Tòa án Tối cao” (TATC) và, Chương 36 “Về hệ thống Viện kiểm sát” (mới). Chỉ cỳ tất cả 10 điều trong một Chương IX “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”. L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 92 cơ quan tư pháp như các TAND) VII Về tổ chức chính quyền địa phương Đây là các quy định trong Phần thứ bảy “Những cơ sở hiến định của chính quyền địa phương” có 03 Chương với 15 điều – Chương 37 “Các quy định chung về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương”, Chương 38 “Hội đồng nhân dân” và, Chương 39 “Ủy ban nhân dân”. Chỉ gồm một Chương X “Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân” với tất cả chỉ có 18 điều. VIII Về quy trình lập hiến và hiệu lực của Hiến pháp Đây là các quy định trong Phần thứ tám “Những cơ sở hiến định của quy trình lập hiến và hiệu lực của Hiến pháp” có 04 Chương với 05 điều – Chương 40 “Quy trình soạn thảo Hiến pháp”, Chương 41 “Quy trình sửa đổi và bổ sung Hiến pháp”, Chương 42 “Quy trình thông qua và công bố Hiến pháp” và, Chương 43 “Hiệu lực của Hiến pháp”. Chỉ đề cập đến 02 nội dung là “hiệu lực” và “sửa đổi” Hiến pháp trong một Chương XI “Hiệu lực của Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp” với tất cả chỉ có 02 điều. Ngoài ra, ở cuối Hiến pháp cần có Phần cuối cùng “Các quy định chuyển tiếp” với nội dung đề cập đến hiệu lực tạm thời của các quy định pháp luật hiện hành và thẩm quyền của một số chức vụ Nhà nước thuộc các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nếu không trái với các quy định của Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi lần thứ 2). Ghi chú: (1) Toàn văn những KGLP về Dự thảo 1 HPSĐ (khi chưa bổ sung Chương 36 Phần thứ năm) đó được chúng tôi công bố lần đầu tiên ở Việt Nam tại Tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội số 22-thông 11/2010, tr.11-19. (2) Toàn văn những KGLP về nội dung cụ thể của 06 điều trong Chương 17 Phần thứ ba đó được chúng tôi công bố lần đầu tiên ở Việt Nam tại Tạp chí Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội số 10-tháng 5/2011, tr.11-21. (3) Nếu theo Phương án không tổ chức TAHP độc lập (mà chỉ thành lập Tòa Hiến pháp với tư cách là Tòa chuyên trách trực thuộc TATC) thì bỏ Chương này và trong Chương về TATC cần có thêm 01 điều về việc giao thêm cho TATC thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp và cụ thể hóa điều này bằng một chức năng cụ thể trong Luật “Về hệ thống Tòa án ở Việt Nam”. L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 93 Phụ lục 2 (I+ II): MÔ HÌNH THỨ NHẤT VỚI 2 PHƯƠNG ÁN (I & II giống nhau về quyền tư pháp có thêm hệ thống Viện kiểm sát) VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM THEO BA NHÁNH TRONG GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN (Trên cơ sở Dự thảo 1 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi lần thứ hai gồm 07 phần, 42 chương và 190 điều)(1) (1), (2) & (3) Như các Chú thích tương ứng ở Phụ lục 1 trên đây. TỔ CHỨC QUYỀN LẬP PHÁP(1) TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH PHÁP TỔ CHỨC QUYỀN TƯ PHÁP Quốc hội (chung cho cả 02 phương án I và II) nhưng có thể lựa chọn một trong hai mô hình tương ứng là: 1) hai Viện (như Dự thảo 1 HPSĐ trong Phụ lục 1 trên đây) hoặc; 2) một Viện (như Dự thảo 2 HPSĐ trong Phụ lục 2 trên đây) miễn sao cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn xây dựng một NNPQ đích thực của dân, do dân và vì dân. Phương án I Chủ tịch nước với tư cách là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang - nguyên thủ quốc gia, đồng thời là người đứng đầu Chính phủ, trực tiếp điều hành tất cả các bộ Phương án II Chủ tịch nước với cách là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang – là nguyên thủ quốc gia và chỉ nắm các bộ “sức mạnh" (như Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Ủy ban điều tra TW, v.v) + Bộ Quốc phòng + Bộ Ngoại giao. Thủ tướng là người đứng đầu nội các và quản lý nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô, chỉ nắm các Bộ trong lĩnh vực kinh tế-tài chính và thương mại Phương án I Tòa án tối cao ngoài thẩm quyền chung (như hiện nay) ra, còn thành lập thêm Tòa Hiến pháp với tư cách là Tòa chuyên trách trực thuộc TATC sẽ thêm cả thẩm quyền mới nữa là bảo vệ Hiến pháp (Tuy nhiên Phương án I này không thể ưu việt hơn so với Phương án II-TAHP nên là độc lập). Viện kiểm sát tối cao (chung cho cả 02 Phương án I và II) ngoài các chức năng như hiện nay sẽ trở lại thực hiện cả chức năng kiểm sát chung (KSC) như trước năm 2001 nhưng là KSC theo hướng chỉ nên tập trung vào hoạt động đấu tranh phòng- chống tham nhũng (như mô hình của VKS Trung Quốc hiện nay). Tòa án Hiến pháp chuyên trách thực hiện thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp với các chức năng do 01 Luật riêng quy định(3) Tòa án tối cao chỉ là Tòa án thẩm quyền chung mà không thực hiện chức năng bảo vệ Hiến pháp (vì đã có TAHP ở cấp TW). Phương án II L.V. Cảm và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) 77-94 94 Tài liệu tham khảo [1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011. [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. [4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, NXB Sự thật, 1984. [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2000. [6] Phạm Ngọc Anh, Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5 (2011) 5. [7] Nguyễn Năng Nam, Trịnh Vương Cường, Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong xã hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9 (2011) 6. [8] Nguyễn Như Phát, Tài phán Hiến pháp và vấn đề bảo đảm quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 5 (2009) 10. [9] Thái Vĩnh Thắng, Tìm hiểu triết học pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2,3 (2011) 5. [10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. [11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. [12] Dương Bá Thành, Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học bảo vệ tại Viện Chính trị học thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. [13] Chu Hồng Thanh, Vấn đề giám sát thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta, Trong Sách chuyên khảo: Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nuớc ta hiện nay, Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên), NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2003. [14] Bùi Ngọc Sơn, Tiền cảnh chế độ bảo hiến ở ở Việt Nam, Trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về bảo hiến. NXB Thời đại, Hà Nội, 2009. [15] Phạm Văn Hùng, Sự cần thiết phải thừa kế, bổ sung cơ chế tổ chức quyền lực trong Dự thảo Cương lĩnh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19 (2010) 7. [16] Ngô Huy Cương, Luật hiến pháp và văn hóa chính trị, Trong sách: Bàn về lập hiến (Tập thể tác giả do TS Phạm Văn Hùng chủ biên), NXB Lao động, Hà Nội, 2010. [17] Hồng Chanh, Tìm cơ chế bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, Trong Bản tin "Luật sư ngày nay” (Bản tin của Đoàn Luật sư Hà Nội), số 6/2005. [18] Nguyễn Thị Phương, Mục đích của bảo hiến trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về bảo hiến, NXB Thời đại, Hà Nội, 2009. Essential provisions of the constitution on the rights of justice in the context of buiding rule of Law socialist state of Vietnam Le Van Cam, Trinh Tien Viet, Nguyen Khac Hai School of Law, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam The article has shed light on human thoughts of Ho Chi Minh about the nature of state and law of Vietnam and a new kind of cognitive science on this issue; the state of the current Constitution of 1992 (revised) and other revised drafts of the Constitution, and also given some legislative insights into the third draft of constitution (2nd) and some basic rules of judicial power (based on the model of the organizational division of state power into three branches) of the Constitution in the stage of construction of the rule of law in Vietnam.
File đính kèm:
- cac_quy_dinh_co_ban_ve_quyen_tu_phap_trong_hien_phap_cua_gia.pdf