Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
Tóm tắt: Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), việc xác định rõ
được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi
của ngân hàng là vấn đề hết sức quan trọng. Trong bài báo này, nhóm tác
giả đã xác định các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của
NHTM bao gồm quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền
gửi, dư nợ cho vay và hiệu quả quản trị chi phí. Nhóm tác giả sử dụng
phương pháp phân tích hồi quy OLS (ước lượng bình phương nhỏ nhất) với
dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Eviews 5 để phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi tại NHTM Cổ phần Xăng Dầu Petrolimex
(PG Bank). Kết quả nghiên cứu cho thấy ba nhân tố ảnh hưởng ngược
chiều đến khả năng sinh lợi của ngân hàng gồm: quy mô tổng tài sản, quy
mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
60 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 223- Tháng 12. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank Nguyễn Hoài Nam Khoa Quản trị Kinh doanh, Học viện Ngân hàng Nguyễn Thị Thanh Hương Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex Ngày nhận: 20/03/2020 Ngày nhận bản sửa: 13/04/2020 Ngày duyệt đăng: 17/04/2020 Tóm tắt: Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), việc xác định rõ được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của ngân hàng là vấn đề hết sức quan trọng. Trong bài báo này, nhóm tác giả đã xác định các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của NHTM bao gồm quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi, dư nợ cho vay và hiệu quả quản trị chi phí. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy OLS (ước lượng bình phương nhỏ nhất) với dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Eviews 5 để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi tại NHTM Cổ phần Xăng Dầu Petrolimex (PG Bank). Kết quả nghiên cứu cho thấy ba nhân tố ảnh hưởng ngược chiều đến khả năng sinh lợi của ngân hàng gồm: quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi. Hai nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến Internal factors affecting the profitability of commercial banks- Case study at PG Bank Abstract: For commercial banks, determining the influence of factors affecting the profitability of the bank is of very importance. In this paper, the authors have identified the internal factors affecting the profitability of commercial banks including the size of total assets, equity size, deposit size, outstanding loans and performance of cost management. The authors used the OLS regression method (least square estimate) by Eviews 5 software to analyze the factors affecting profitability at Petrolimex Group Commercial Joint Stock Bank (PG Bank). The research results show that three factors negatively affect the profitability of a bank: the size of total assets, the size of equity, the size of deposits. Two factors that positively affect the profitability of a bank are outstanding loans and cost management efficiency. Based on the research results, a number of proposed solutions have contributed to improving the operational efficiency of Petrolimex Group Commercial Joint Stock Bank in particular and commercial banks in general. Keywords: Commercial banks; profitability, size of total assets, equity size, deposit scale, outstanding loans, cost management effectiveness Nam Hoai Nguyen. Email: namnh@hvnh.edu.vn Faculty of Business Administration, Banking Academy Huong Thi Thanh Nguyen. Email: mrshuongnguyenvn@gmail.com Petrolimex Commercial Joint Stock Bank NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG 61Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng khả năng sinh lợi của ngân hàng là dư nợ cho vay và hiệu quả quản trị chi phí. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, một số khuyến nghị được đề xuất góp phần nâng cao khả năng sinh lợi của PG Bank nói riêng và các NHTM nói chung. Từ khóa: ngân hàng thương mại, khả năng sinh lợi, quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi, dư nợ cho vay, hiệu quả quản trị chi phí 1. Giới thiệu Trong thời gian qua, hoạt động của một số NHTM bị ảnh hưởng do việc sáp nhập, trong đó có PG Bank. Theo đó, lợi nhuận của các NHTM này có xu hướng giảm sút, số lượng khách hàng chuyển sang NHTM khác tăng lên, nhân sự xáo trộn, số lượng nhân sự nghỉ việc tăng đột biến khiến các hoạt động kinh doanh, hoạt động quản trị vận hành cũng như lợi nhuận và danh tiếng của ngân hàng bị ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, việc đánh giá để nhận định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của NHTM là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong đánh giá các nhân tố này tại nhiều NHTM vẫn mang tính chất định tính. Việc thực hiện một phương pháp định lượng để đảm bảo tính khách quan trong việc đánh giá các nhân tố là cần thiết. Các yếu tố nội tại là những yếu tố bên trong ngân hàng mà nhà quản trị ngân hàng có thể kiểm soát, điều chỉnh được. Việc tìm hiểu và phân tích các yếu tố nội tại nhằm giúp cho ngân hàng xác định được những điểm mạnh để khai thác và phát huy, đồng thời cũng xác định được những điểm yếu để khắc phục. Với mong muốn có những đánh giá khách quan và khoa học, các tác giả đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của các NHTM, sử dụng nghiên cứu định lượng để đánh giá tác động của các nhân tố này đến khả năng sinh lợi tại PG Bank. Từ đó có những gợi ý để PG Bank nói riêng và các NHTM nói chung có thể phát huy những nhân tố tích cực giúp nâng cao khả năng sinh lợi và hiệu quả hoạt động kinh doanh. 2. Tổng quan nghiên cứu Đối với mỗi một tổ chức nói chung hay một ngân hàng nói riêng, ngoài các yếu tố khách quan tác động đến tổ chức hay ngân hàng thì còn có các yếu tố nội tại (yếu tố bên trong của tổ chức/ngân hàng) tác động trực tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động của tổ chức hay ngân hàng đó. Các yếu tố nội tại chủ yếu bao gồm: - Quy mô tài sản của ngân hàng Quy mô tài sản của ngân hàng là kết quả được hình thành từ các nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng trong quá trình hoạt động. Một danh mục tài sản tốt là một danh mục đảm bảo tốt nhất nhu cầu thanh khoản, tối thiểu hóa rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan giữa quy mô tài sản của ngân hàng với khả năng sinh lợi. Nghiên cứu của Mohamed Khaled Al-Jafari and Mohammad Alchami (2014) đã tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa lợi nhuận và quy mô ngân hàng. Các tác giả đã kết luận rằng tăng quy mô ngân hàng sẽ dẫn đến tăng ROA đáng kể, quy mô tài sản Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank 62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 càng tăng thì mức sinh lời càng tăng. Trái lại, các tác giả Naceur, B. Samy (2003), Pasiouras, F. và Kosmidou, K. (2007), Ben Naceur,S. và Goaied, M. (2008), Sufian, F. và Habibullah, M.S (2009) chỉ ra rằng quy mô ngân hàng có tác động tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng. Nghiên cứu của các tác giả Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015) chưa tìm ra tác động của quy mô tổng tài sản đến khả năng sinh lợi (KNSL) của NHTM. - Quy mô vốn chủ sở hữu Quy mô vốn chủ sở hữu (VCSH) được đo lường bằng tỷ số VCSH/tổng tài sản. Đây là một trong những bộ chỉ số được Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) khuyến khích sử dụng để đánh giá mức độ lành mạnh tài chính của NHTM. Tại Việt Nam, quy mô VCSH cũng là một trong những điều kiện để các NHTM đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hoặc để mở rộng mạng lưới hoạt động theo quy định của pháp luật. Nhiều các nghiên cứu đã tìm ra mối tương quan cùng chiều giữa tỷ lệ VCSH với KNSL của NHTM. Bourke (1989) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc; Molyneux & Thornton (1992) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng Châu Âu; Saunders và Schumacher (2000) nghiên cứu các yếu tố tác động đến lãi suất cận biên của ngân hàng; Brock và Suarez (2000) nghiên cứu trên các ngân hàng ở khu vực Mỹ La tinh; Maudos và Guevara (2004) nghiên cứu các yếu tố tác động ở các ngân hàng thuộc liên minh Châu Âu. Lý giải mối tương quan dương giữa VCSH và KNSL, các tác giả cho rằng các ngân hàng có mức vốn cao có thể làm giảm chi phí đi vay, huy động từ các nguồn khác, từ đó ảnh hưởng một cách tích cực đến KNSL của NHTM. Tuy nhiên, nghiên cứu của Saona (2011) nghiên cứu các yếu tố quyết định đến lợi nhuận của các ngân hàng Mỹ, Qin và Pastory (2012) nghiên cứu tại một số ngân hàng tại Tanzania đã chỉ ra mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô VCSH và KNSL. Ngoài ra Dietrich và Wanzenried (2011) nghiên cứu yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng tại Thụy Sĩ trước và sau khủng hoảng đã chỉ ra: tỷ lệ VCSH không tác động đến lợi nhuận ngân hàng trước cuộc khủng hoảng ở Thụy Sĩ, song lại tác động tiêu cực lên KNSL được đo bằng chỉ số ROA trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2009. - Quy mô tiền gửi Đối với các NHTM, tiền gửi là nguồn huy động đầu vào quan trọng nhất để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Quy mô tiền gửi càng lớn thì khả năng sử dụng vốn của ngân hàng càng tăng, ngân hàng càng có nhiều vốn để cho vay góp phần mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, hai vấn đề quan trọng mà các ngân hàng cần quan tâm đến đối với mỗi nguồn vốn huy động được chính là chi phí để có được nguồn vốn đó và rủi ro của từng nguồn vốn. Hoạt động huy động vốn cần phải có một chính sách lãi suất hợp lý để có thể vừa thu hút được lượng tiền gửi từ khách hàng vừa đảm bảo KNSL cho ngân hàng. Các nghiên cứu về quy mô tiền gửi ảnh hưởng đến KNSL của NHTM: Nghiên cứu của Sehrish Gul- Faiza Irshad- Khalid Zaman (2011) chỉ ra rằng quy mô tiền gửi có sự tác động tích cực và đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng. Ngược lại, Bashir và Hassan (2004) nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ tỷ NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG 63Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng lệ nghịch giữa quy mô tiền gửi với lợi nhuận. Nghiên cứu của Phạm Công Doanh (2014) cũng chỉ ra rằng quy mô tiền gửi khách hàng càng cao thì ROA của NHTM Việt Nam càng tăng, trong khi ROE không bị tác động bởi quy mô tiền gửi. - Quy mô dư nợ Quy mô dư nợ được tính bằng tỷ lệ dư nợ cho vay chia cho tổng tài sản. Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng để phân tích khả năng sinh lợi của các NHTM, chỉ tiêu này phản ánh rủi ro thanh khoản trong hoạt động ngân hàng, tỷ lệ này cao chứng tỏ ngân hàng có tính thanh khoản thấp và ngược lại. Nghiên cứu của Gul và cộng sự (2011), Sufian (2011) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa quy mô dư nợ và KNSL của ngân hàng. Tuy nhiên nghiên cứu của Bourke (1989) lại cho thấy mối tương quan thuận đáng kể giữa khả năng thanh khoản của ngân hàng và KNSL, nguyên nhân là do trong thời gian không ổn định, ngân hàng có thể lựa chọn để tăng tài sản lưu động nắm giữ, giảm quy mô dư nợ nhằm giảm thiểu rủi ro. Trong một số nghiên cứu khác, quy mô dư nợ lại được sử dụng để đại diện cho mức độ rủi ro tín dụng khi dữ liệu không cho phép tính toán tỷ lệ dự phòng rủi ro trong tổng dư nợ (De Guevara, J.F. và Maudos, J., 2004). Nghiên cứu của Miller và Noulas (1997), Alper và Anbar (2011) đã tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô dư nợ và KNSL của ngân hàng. Các tác giả lý giải một ngân hàng có quy mô dư nợ cao sẽ làm gia tăng các khoản nợ xấu và do đó làm giảm lợi nhuận biên. - Hiệu quả quản trị chi phí Các loại chi phí chủ yếu phát sinh trong quá trình hoạt động của một NHTM bao gồm: Chi phí trả lãi, chi phí ngoài lãi.Trong các nghiên cứu định lượng, hiệu quả quản trị chi phí thường được đo lường thông qua tỷ số: Chi phí hoạt động/tổng tài sản hoặc chi phí hoạt động/thu nhập. Nhiều nghiên cứu đã tìm thấy ảnh hưởng tích cực rõ ràng của biến hiệu quả quản trị chi phí lên KNSL của ngân hàng. Chẳng hạn các nghiên cứu của Pasiouras và Kosmidou (2007), Alexio và Sofoklis (2009), Trujilo- Ponce (2012) cho thấy NHTM quản trị chi phí càng hiệu quả, tức các tỷ số trên càng giảm thì sẽ có KNSL càng cao. Tuy nhiên, một số tác giả khác lại có kết quả nghiên cứu ngược lại như Athanasoglou và cộng sự (2008); Goddard và cộng sự (2009) lại bảo vệ lý thuyết tiền lương hiệu quả, cho rằng năng suất lao động theo mức tăng của tiền lương, các tác giả trên tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa hiệu quả quản trị chi phí và KNSL của ngân hàng. Ngoài các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, một số công trình nghiên cứu trong nước cũng đã nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến KNSL của NHTM. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền (2017), tác giả đã sử dụng số liệu của 22 NHTM cổ phần tại Việt Nam để xác định các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến các chỉ tiêu ROA, ROE của các NHTM. Kết quả nghiên cứu đã kết luận các yếu tố ảnh hưởng cùng chiều với KNSL của ngân hàng bao gồm: tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng/ Cho vay, tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản, thu nhập phi lãi/Tài sản và chi phí trả lãi/Nợ phải trả. Các yếu tố có ảnh hưởng ngược chiều đến KNSL của ngân hàng bao gồm: Chi phí hoạt động/Thu nhập, nợ xấu, và quy mô hội đồng thành viên. Trong nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố: quy mô, quản trị rủi ro thanh khoản, cấu trúc nguồn vốn, kiểm soát chi phí của ngân hàng không ảnh Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank 64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 hưởng đến KNSL của NHTM. Tác giả Phạm Công Doanh (2014), trên cơ sở số liệu của 15 NH TMCP tại Việt Nam trong 9 năm từ năm 2005 đến năm 2013, đã đề xuất 2 chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời của NHTM là ROA, ROE. Các yếu tố ảnh hưởng đến KNSL bao gồm: yếu tố nội tại (tổng tiền gửi, dư nợ cho vay, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, dự phòng rủi ro tín dụng, tài sản thanh khoản, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên hay tỷ suất thu nhập lãi thuần (NIM), tỷ lệ thu nhập chi phí lãi cận biên (NII)), yếu tố kinh tế vĩ mô (lạm phát, tốc độ tăng trưởng GDP, lãi suất thực). Kết quả cho thấy: không có mối tương quan giữa lãi suất thực, tỷ lệ lạm phát đến ROA, ROE của các NHTM, có sự tác động cùng chiều giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng ROE của các NHTM. Tất cả các yếu tố nội tại đều có sự tương quan đến ROA và ROE của NHTM. Tác giả Hồ Thị Hồng Minh, Nguyễn Thị Cành (2015) dùng phương pháp ước lượng hồi quy với các biến độc lập là ROA, ROE đánh giá KNSL của 22 NHTM Việt Nam trong 7 năm từ năm 2007 đến năm 2013. Kết quả cho thấy KNSL của NHTM tỷ lệ thuận với tỷ lệ dư nợ cho vay/tổng tài sản, tỷ lệ tiền gửi khách hàng/tổng nợ phải trả, hiệu quả hoạt động. Đồng thời, KNSL tỷ lệ nghịch với tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ, tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, tỷ lệ chi phí hoạt động/thu nhập hoạt động. Không tìm ra mối liên hệ giữa quy mô tổng tài sản và tăng trưởng kinh tế tác động đến KNSL. Tuy nhiên nghiên cứu lại cho thấy lạm phát có sự tác động đến KNSL trong phương trình ROA. Qua các công trình nghiên cứu tại Việt Nam, cho thấy các đề tài nghiên cứu trước đây đều lấy đối tượng nghiên cứu là nhóm các NHTM nói chung và chủ yếu đề cập đến KNSL qua ROA, ROE. Hầu như rất ít đề tài nghiên cứu tại một NHTM cụ thể, đồng thời chưa có đề tài nào nghiên cứu thực nghiệm tại đối tượng cụ thể là tại PG Bank, một ngân hàng đang trong tình trạng chờ sáp nhập. Do đó, nghiên cứu đi tìm bằng chứng thực nghiệm tại PG Bank góp phần làm rõ ảnh hưởng của các tố nội tại tới một ngân hàng cụ thể, đặc biệt là một NHTM đang trong bối cảnh chờ sáp nhập. 3. Phương pháp và mô hình nghiên ... là 0,6725, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản có. Quy mô dư nợ cho vay có giá trị thấp nhất là 0,5507 rơi vào thời điểm Quý I năm 2015, giá trị lớn nhất đạt 0,8047 rơi vào thời điểm Quý IV năm 2010. Độ lệch chuẩn là 0,0628 cho thấy quy mô dư nợ dao động không lớn. Biến X5- Hiệu quả quản trị chi phí có giá trị trung bình là 0,0056, giá trị nhỏ nhất 0,0041 tại Quý IV năm 2015, giá trị lớn nhất 0,0089 tại Quý II năm 2016. Độ lệch chuẩn 0,0013 cho thấy sự dao động chi phí hoạt động là rất thấp trong từ năm 2010 đến năm 2018. 4.2. Phân tích tương quan giữa các biến Biến phụ thuộc ROA: Hệ số tương quan âm giữa ROA và các biến độc lập X1- Quy mô tổng tài sản (-0,5775); X2- Quy mô VCSH (-0,2513); X3- Quy mô tiền gửi khách hàng (-0,2353); X4- Quy mô dư nợ (-0,0247) cho thấy mối quan nghịch giữa ROA và các biến này. Điều này có ý nghĩa, khi quy mô tổng TS, quy mô VCSH, quy mô tiền gửi khách hàng, quy mô dư nợ tăng quá lớn sẽ làm ROA giảm. Hệ số tương quan dương giữa ROA và X5- hiệu quả quản trị chi phí (0,3115) cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa ROA và X5, nếu hiệu quả quản trị chi phí tăng thì ROA tăng theo. Biến phụ thuộc ROE: ROE có hệ số tương quan dương với các biến X4 (0,0177) và X5 (0,2770) cho thấy nếu quy mô dư nợ và hiệu quả quản trị chi phí tăng thì lợi nhuận của ngân hàng tăng theo (ROE tăng). ROE có hệ số tương quan âm với các biến X1 (-0,6561), X2 (-0,3854), X3 (-0,1448) cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa ROE và các biến này, nếu quy mô tài sản, quy mô VCSH, quy mô tiền gửi khách hàng tại ngân hàng tăng quá lớn sẽ làm ROE giảm. Biến phụ thuộc NIM: NIM có hệ số tương quan dương với các biến X2 (0,0987), X4 (0,1663), X5 (0,6310) cho thấy mối quan hệ thuận chiều với các biến. Quy mô VCSH, quy mô dư nợ và hiệu quả quản trị chi phí Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank 68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 tăng sẽ làm tăng NIM của ngân hàng. Biến NIM có hệ số tương quan âm với các biến X1 (-0,6256) và X3 (-0,3069) thể hiện khi quy mô tài sản và quy mô tiền gửi khách hàng tại ngân hàng tăng quá lớn sẽ làm giảm lợi nhuận tại ngân hàng (NIM giảm). 4.3. Phân tích hồi quy Phân tích mô hình hồi quy với các biến phụ thuộc ROA, ROE, NIM cho kết quả tại Bảng 4. 4.4. Kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy với các biến ROA, ROE, NIM + Với giá trị P_value (F-statistic) của các mô hình hồi quy đều < 1% chứng tỏ mức độ phù hợp của mẫu khảo sát đối với mô hình hồi quy. Hệ số hiệu chỉnh R2 của mô hình hồi quy với ROA là 36,96% có nghĩa 36,96 % sự biến thiên của ROA được giải thích bởi những thay đổi của các biến độc lập. Tương tự, hệ số hiệu chỉnh R2 của mô hình hồi quy với ROE và NIM lần lượt là 53,84% và 52,74%. Thông thường R2 hiệu chỉnh nếu đạt trên 50% thì được coi là mô hình tốt, ở mô hình hồi quy ROA cho kết quả R2 hiệu chỉnh ở mức dưới 50% cũng có thể ROA còn phụ thuộc vào các biến ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên. + Kiểm định xem có bỏ sót biến quan trọng nào của mô hình hồi quy hay không, dùng kiểm định Ramsey RESET Test cho kết quả P_value đều > 0,05 chứng tỏ mô hình không sót biến độc lập quan trọng. + Kiểm định mô hình có phương sai sai số thay đổi hay không, sử dụng kiểm định White cho kết quả đều là P_value > 0,05 chứng tỏ mô hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi. + Kiểm định mô hình có hiện tượng tự tương quan hay không, sử dụng kiểm định Breusch-Godfrey cho các kết quả P_value với biến ROA, ROE > 0,05 chứng tỏ mô hình không có hiện tượng tự tương quan. Riêng mô hình với biến phụ thuộc NIM cho kết quả P_value= 0,032678 < 0,05, tuy nhiên chỉ số Durbin-Watson của mô hình là 1,660567 (nằm trong khoảng 1 < Durbin- Watson stat <3) có thể kết luận mô hình không có hiện tượng tự tương quan. + Kiểm định mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến hay không, thực hiện hồi quy lần lượt các biến X1, X2, X3, X4, X5 theo các biến còn lại, kết quả không có hệ số tương quan Bảng 3. Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu ROA ROE NIM X1 X2 X3 X4 X5 ROA 1,0000 ROE 0,9671 1,0000 NIM 0,6956 0,6372 1,0000 X1 -0,5775 -0,6561 -0,6256 1,0000 X2 -0,2513 -0,3854 0,0987 0,036 1,0000 X3 -0,2353 -0,1448 -0,3069 0,27 -0,43 1,0000 X4 -0,0247 0,0177 0,1663 0,0059 -0,0918 0,6666 1,0000 X5 0,3115 0,277 0,631 -0,5453 0,4109 -0,463 0,0163 1,0000 Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán dựa trên số liệu đã được công bố trên website của Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG 69Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng cặp vượt quá 0,6 nên có thể bỏ qua hiện tượng đa cộng tuyến không hoàn hảo. + Kiểm định yếu tố ngẫu nhiên tuân theo quy luật chuẩn đều cho kết quả P_value > 0,05 chứng tỏ sai số ngẫu nhiên của mô hình có phân phối chuẩn. Sau khi kiểm định các khuyết tật của mô hình, có thể thấy mô hình kiểm định với các biến phụ thuộc ROA, ROE, NIM là phù hợp, không có khuyết tật. 4.5. Kết quả hồi quy Mô hình có biến phụ thuộc ROA: ROA = 0,066407- 0,005066*X1- 0,067120*X2- 0,016306*X3 Mô hình có biến phụ thuộc ROE: ROE = 0,660922- 0,052857*X1- 0,669929*X2 Mô hình có biến phụ thuộc NIM: NIM = 0,075182- 0,006652*X1- 0,027204*X3 + 0,029871*X4 + 1,017917*X5 5. Kết luận và khuyến nghị Kết luận Trái với kỳ vọng ban đầu, quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu và quy mô tiền gửi khách hàng có mối tương quan ngược chiều với KNSL của ngân hàng (trong đó, quy mô tổng tài sản có ý nghĩa tại cả ba mô hình hồi quy ROA, ROE, NIM. Quy mô vốn chủ sở hữu chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi quy ROA, ROE. Quy mô tiền gửi khách hàng chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi quy ROA, NIM). Hiệu quả quản trị chi phí lại có mối tương quan cùng chiều với KNSL của ngân hàng và chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi Bảng 4. Kết quả mô hình hồi quy Mô hình hồi quy với biến phụ thuộc ROA Mô hình hồi quy với biến phụ thuộc ROE Mô hình hồi quy với biến phụ thuộc NIM Tên biến Hệ số hồi quy P_value Tên biến Hệ số hồi quy P_value Tên biến Hệ số hồi quy P_value C 0,066407 0,0039 C 0,660922 0,0001 C 0,075182 0,0169 X1 -0,005066 0,0216 X1 -0,052857 0,0012 X1 -0,006652 0,0304 X2 -0,06712 0,0182 X2 -0,669929 0,0014 X2 -0,041537 0,2789 X3 -0,016306 0,0989 X3 -0,104999 0,1324 X3 -0,027204 0,0515 X4 0,009284 0,3017 X4 0,067261 0,2916 X4 0,029871 0,0221 X5 0,116951 0,7846 X5 0,733515 0,8089 X5 1,017917 0,097 R-squared 0,459703 R-squared 0,604364 R-squared 0,594935 Adjusted R-squared 0,369654 Adjusted R-squared 0,538425 Adjusted R-squared 0,527424 Durbin-Watson stat 1,616134 Durbin-Watson stat 1,656317 Durbin-Watson stat 1,492594 Prob(F-statistic) 0,001669 Prob(F-statistic) 0,000022 Prob(F-statistic) 0,000031 Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán dựa trên số liệu đã được công bố trên website của Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank 70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 quy NIM. Duy chỉ có quy mô dư nợ cho vay đúng với kỳ vọng ban đầu là có mối tương quan cùng chiều với KNSL của ngân hàng và cũng chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi quy NIM. Kết quả nghiên cứu mô hình hồi quy cho thấy để nâng cao KNSL, ngân hàng phải thực sự quan tâm đến 5 nhân tố đã được kiểm định. Trong đó hai nhân tố tác động tích cực, tác động cùng chiều đến NIM của PG Bank là Quy mô dư nợ cho vay và Hiệu quả quản trị chi phí. Có thể thấy đây là hai nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến gia tăng KNSL của PG bank, vì vậy cần có những giải pháp ưu tiên thực hiện trước. Theo các nghiên cứu của các tác giả trong nước và ngoài nước đã được nhóm tác giả giới thiệu ở tổng quan nghiên cứu thì có thể thấy đây là các nhân tố có khả năng ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM nói chung. Tuy nhiên, tại mô hình hồi quy biến phụ thuộc ROA có hệ số hiệu chỉnh R2 dưới 50% là hạn chế của nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ cần thực hiện nghiên cứu tiếp theo để bổ sung thêm các nhân tố ảnh hưởng đến ROA của ngân hàng. Khuyến nghị Từ kết quả nghiên cứu tại mô hình NIM, PG Bank nên mở rộng quy mô dư nợ cho vay với việc chú trọng đến đối tượng cán bộ nhân viên đang làm việc tại Petrolimex với số lượng nhân viên lên đến hàng chục nghìn người vì đây là nguồn khách hàng có thu nhập ổn định và có nhu cầu lớn với các sản phẩm như cho vay tiêu dùng, cho vay tín chấp qua lương, phát hành thẻ visa,... Đồng thời, với lợi thế đang liên kết với nhiều cửa hàng xăng dầu của Petrolimex, PG Bank nên tăng cường hơn nữa cung cấp các dịch vụ đa năng, tiện ích cho khách hàng như ưu đãi thanh toán tiền xăng dầu, cung cấp dịch vụ giúp khách hàng quản lý chi tiêu tiền xăng dầu một cách linh hoạt và hiệu quả. Bên cạnh đó, ngân hàng có thế đẩy mạnh cho vay đối với đối tượng là các doanh nghiệp vận tải, du lịch Để nâng cao hiệu quả quản trị chi phí, PG Bank nên tăng cường nghiên cứu áp dụng các quy trình quản trị hiện đại. Ngân hàng nên thực hiện cơ chế chi trả lương, thưởng gắn liền với kết quả làm việc của mỗi cá nhân bằng cách xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả làm việc, xây dựng quy trình bổ nhiệm đối với từng chức danh để tạo động lực cho mỗi nhân viên làm việc và gắn bó lâu dài với PG Bank. Tăng cường các chiến dịch Marketing, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu của ngân hàng, đặc biệt trên các báo điện tử có lượng người truy cập nhiều, tạo fanpage trên facebook để quảng bá sản phẩm mới, ghi nhận ý kiến đóng góp của khách hàng trên nhiều kênh để cải thiện quy trình, sản phẩm, chất lượng dịch vụ. ■ Tài liệu tham khảo Ben Naceur, S., and Goaied, M., (2008), The determinants of commercial bank interest margin and profitability: evidence from Tunisia, Frontiers in Finance and Economics 5, 106-130. Dietrich, A., Wanzenried, G. (2011), Determinants of bank profitability before and during the crisis: evidence from Switzerland, Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, vol 21(3), pp 307-327. De Guevara, J.F. and Maudos, J. (2004), Measuring Welfare Loss of Market Power: An Application to European Banks, Applied Economics Letters, vol 11, pp833-836. Donald D. Hester & John F. Zoellner (1965), The relation between bank portfolios and earnings: an economic analysis, Cowles Foundation Discussion Paper No.184. Deger Alper and Adem Anbar (2011), Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Commercial Bank Profitability: Empirical Evidence from Turkey, Business and Economics Research Journal, Vol2 (2), pp. 139-152. NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG 71Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Hồ Thị Hồng Minh- Nguyễn Thị Cành (2015), “Đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố tác động đến khả năng sinh lợicủa các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 106+107, tháng 1+2/2015, trang 13-24. Lê Văn Tư (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính. Mohamed Khaled Al-Jafari and Mohammad Alchami(2014), Determinants of Bank Profitability: Evidence from Syria. Journal of Applied Finance & Banking, vol. 4, no. 1, pp 17-45. Molyneux, P., Thornton, J. (1992), The determinants of European Bank profitability, Journal of Banking and Finance, vol 16, pp 1173-1178. Miller, S. and Noulas, A. (1997), Portfolio Mix and Large-Bank Profitability in the USA, Applied Economics, vol 29, pp 505-512. Maudos, Joaqúin and Juan Fernández de Guevara (2004), Factors explaining the interest margin in the banking sectors of the European Union, Journal of banking and finance, No. 28, pp 2259-2281. Naceur, B. Samy, 2003, The determinants of the Tunisian banking industry profitability: Panel Evidence, Universite Libre de Tunis, Department of finance Working Paper 2003. Nguyễn Thị Thu Hiền (2017), “Các yếu tố đặc trưng xác định khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí công thương. Nguyễn Đăng Dờn (2007), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê. Nguyễn Văn Công (2009) Giáo trình Phân tích kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân. Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex, Báo cáo kết quả kinh doanh các năm (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Hà Nội. Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex, Báo cáo thường niên các năm (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Hà Nội. Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex, Báo cáo tài chính quý các năm (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Hà Nội. Nguyễn Phạm Nhã Trúc- Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015), “Các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của hệ thống Ngân hàng thương mại tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 228, tháng 6/2016. Ong Tze San và Teh Boon Heng (2013), Factors affecting the profitability of Malaysian commercial banks, African Journal of Business Management ,Vol. 7(8), pp. 649-660. Pasiouras, F. and Kosmidou, K. (2007), Factors influencing the profitability of domestic and foreign commercial banks in the European Union, International Business and Finance, 21, 222-237. Phạm Công Doanh (2014), “Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời tại các ngân hàng TMCP Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. PhilipBourke (1989), Concentration and other determinants of bank profitability in Europe, North America and Australia, Journal of Banking & Finance, Volume 13, Issue 1, March 1989, pp 65-79. Philip L. Brock and Liliana Rojas Suarez (2000), Understanding the behavior of bank spreads in Latin America, Journal of Development Economics, vol.63 pp 113-134. Paolo Saona Hoffmann (2011), Determinants of the Profitability of the US Banking Industry, International Journal of Business and Social Science Vol. 2 No. 22. Quốc Hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH 12, Hà Nội. Quốc Hội (2017), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 17/2017/QH 14, Hà Nội. Saunders, A., & Schumacher, L. (2000), The Determinants of Bank Interest Rate Margins: An International Study, Journal of International Money and Finance, vol 19, pp 813-832. Sufian, F., Habibullah, M.S. (2009), Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Bank Profitability: Empirical Evidence from the China Banking Sector, Frontiers of Economics in China, Vol 4 (2), pp 274-291. Sehrish Gul–Faiza Irshad- Khalid Zaman (2011), Factors affecting Bank Profitability in Pakistan, The Romanian Economic Journal. Trần Huy Hoàng (2010), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Lao động xã hội. Xuezhi Qin1 & Dickson Pastory1 (2011), Commercial Banks Profitability Position: The Case of Tanzania, International Journal of Business and Management; Vol. 7, No. 13.
File đính kèm:
- cac_nhan_to_noi_tai_anh_huong_den_kha_nang_sinh_loi_cua_ngan.pdf