Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank

Tóm tắt: Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), việc xác định rõ

được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi

của ngân hàng là vấn đề hết sức quan trọng. Trong bài báo này, nhóm tác

giả đã xác định các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của

NHTM bao gồm quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền

gửi, dư nợ cho vay và hiệu quả quản trị chi phí. Nhóm tác giả sử dụng

phương pháp phân tích hồi quy OLS (ước lượng bình phương nhỏ nhất) với

dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Eviews 5 để phân tích các nhân tố

ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi tại NHTM Cổ phần Xăng Dầu Petrolimex

(PG Bank). Kết quả nghiên cứu cho thấy ba nhân tố ảnh hưởng ngược

chiều đến khả năng sinh lợi của ngân hàng gồm: quy mô tổng tài sản, quy

mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi.

pdf 12 trang phuongnguyen 340
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank

Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
60
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 223- Tháng 12. 2020
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng 
sinh lợi của ngân hàng thương mại- Nghiên cứu 
thực nghiệm tại PG Bank
Nguyễn Hoài Nam
Khoa Quản trị Kinh doanh, Học viện Ngân hàng
Nguyễn Thị Thanh Hương
Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex
Ngày nhận: 20/03/2020 Ngày nhận bản sửa: 13/04/2020 Ngày duyệt đăng: 17/04/2020
Tóm tắt: Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), việc xác định rõ 
được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi 
của ngân hàng là vấn đề hết sức quan trọng. Trong bài báo này, nhóm tác 
giả đã xác định các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của 
NHTM bao gồm quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền 
gửi, dư nợ cho vay và hiệu quả quản trị chi phí. Nhóm tác giả sử dụng 
phương pháp phân tích hồi quy OLS (ước lượng bình phương nhỏ nhất) với 
dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Eviews 5 để phân tích các nhân tố 
ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi tại NHTM Cổ phần Xăng Dầu Petrolimex 
(PG Bank). Kết quả nghiên cứu cho thấy ba nhân tố ảnh hưởng ngược 
chiều đến khả năng sinh lợi của ngân hàng gồm: quy mô tổng tài sản, quy 
mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi. Hai nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến 
Internal factors affecting the profitability of commercial banks- Case study at PG Bank 
Abstract: For commercial banks, determining the influence of factors affecting the profitability of the bank 
is of very importance. In this paper, the authors have identified the internal factors affecting the profitability 
of commercial banks including the size of total assets, equity size, deposit size, outstanding loans and 
performance of cost management. The authors used the OLS regression method (least square estimate) by 
Eviews 5 software to analyze the factors affecting profitability at Petrolimex Group Commercial Joint Stock 
Bank (PG Bank). The research results show that three factors negatively affect the profitability of a bank: the 
size of total assets, the size of equity, the size of deposits. Two factors that positively affect the profitability 
of a bank are outstanding loans and cost management efficiency. Based on the research results, a number of 
proposed solutions have contributed to improving the operational efficiency of Petrolimex Group Commercial 
Joint Stock Bank in particular and commercial banks in general.
Keywords: Commercial banks; profitability, size of total assets, equity size, deposit scale, outstanding loans, 
cost management effectiveness
Nam Hoai Nguyen.
Email: namnh@hvnh.edu.vn
Faculty of Business Administration, Banking Academy
Huong Thi Thanh Nguyen.
Email: mrshuongnguyenvn@gmail.com
Petrolimex Commercial Joint Stock Bank
NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
61Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
khả năng sinh lợi của ngân hàng là dư nợ cho vay và hiệu quả quản trị chi 
phí. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, một số khuyến nghị được đề xuất góp 
phần nâng cao khả năng sinh lợi của PG Bank nói riêng và các NHTM nói 
chung.
Từ khóa: ngân hàng thương mại, khả năng sinh lợi, quy mô tổng tài sản, 
quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tiền gửi, dư nợ cho vay, hiệu quả quản trị 
chi phí
1. Giới thiệu
Trong thời gian qua, hoạt động của một 
số NHTM bị ảnh hưởng do việc sáp nhập, 
trong đó có PG Bank. Theo đó, lợi nhuận 
của các NHTM này có xu hướng giảm sút, 
số lượng khách hàng chuyển sang NHTM 
khác tăng lên, nhân sự xáo trộn, số lượng 
nhân sự nghỉ việc tăng đột biến khiến 
các hoạt động kinh doanh, hoạt động quản 
trị vận hành cũng như lợi nhuận và danh 
tiếng của ngân hàng bị ảnh hưởng.
Trong bối cảnh đó, việc đánh giá để nhận 
định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng 
sinh lợi của NHTM là hết sức cần thiết. 
Tuy nhiên, trong đánh giá các nhân tố này 
tại nhiều NHTM vẫn mang tính chất định 
tính. Việc thực hiện một phương pháp định 
lượng để đảm bảo tính khách quan trong 
việc đánh giá các nhân tố là cần thiết.
Các yếu tố nội tại là những yếu tố bên trong 
ngân hàng mà nhà quản trị ngân hàng có 
thể kiểm soát, điều chỉnh được. Việc tìm 
hiểu và phân tích các yếu tố nội tại nhằm 
giúp cho ngân hàng xác định được những 
điểm mạnh để khai thác và phát huy, đồng 
thời cũng xác định được những điểm yếu 
để khắc phục. Với mong muốn có những 
đánh giá khách quan và khoa học, các tác 
giả đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến 
khả năng sinh lợi của các NHTM, sử dụng 
nghiên cứu định lượng để đánh giá tác động 
của các nhân tố này đến khả năng sinh lợi 
tại PG Bank. Từ đó có những gợi ý để PG 
Bank nói riêng và các NHTM nói chung có 
thể phát huy những nhân tố tích cực giúp 
nâng cao khả năng sinh lợi và hiệu quả hoạt 
động kinh doanh.
2. Tổng quan nghiên cứu
Đối với mỗi một tổ chức nói chung hay một 
ngân hàng nói riêng, ngoài các yếu tố khách 
quan tác động đến tổ chức hay ngân hàng 
thì còn có các yếu tố nội tại (yếu tố bên 
trong của tổ chức/ngân hàng) tác động trực 
tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động của 
tổ chức hay ngân hàng đó. Các yếu tố nội 
tại chủ yếu bao gồm: 
- Quy mô tài sản của ngân hàng
Quy mô tài sản của ngân hàng là kết quả 
được hình thành từ các nguồn vốn mà ngân 
hàng sử dụng trong quá trình hoạt động. Một 
danh mục tài sản tốt là một danh mục đảm 
bảo tốt nhất nhu cầu thanh khoản, tối thiểu 
hóa rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Nhiều 
nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan giữa 
quy mô tài sản của ngân hàng với khả năng 
sinh lợi. Nghiên cứu của Mohamed Khaled 
Al-Jafari and Mohammad Alchami (2014) 
đã tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa 
lợi nhuận và quy mô ngân hàng. Các tác giả 
đã kết luận rằng tăng quy mô ngân hàng sẽ 
dẫn đến tăng ROA đáng kể, quy mô tài sản 
Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại-
Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
62 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
càng tăng thì mức sinh lời càng tăng. Trái 
lại, các tác giả Naceur, B. Samy (2003), 
Pasiouras, F. và Kosmidou, K. (2007), Ben 
Naceur,S. và Goaied, M. (2008), Sufian, 
F. và Habibullah, M.S (2009) chỉ ra rằng 
quy mô ngân hàng có tác động tiêu cực đến 
lợi nhuận của ngân hàng. Nghiên cứu của 
các tác giả Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn 
Thị Cành (2015) chưa tìm ra tác động của 
quy mô tổng tài sản đến khả năng sinh lợi 
(KNSL) của NHTM.
- Quy mô vốn chủ sở hữu 
Quy mô vốn chủ sở hữu (VCSH) được đo 
lường bằng tỷ số VCSH/tổng tài sản. Đây 
là một trong những bộ chỉ số được Quỹ tiền 
tệ thế giới (IMF) khuyến khích sử dụng 
để đánh giá mức độ lành mạnh tài chính 
của NHTM. Tại Việt Nam, quy mô VCSH 
cũng là một trong những điều kiện để các 
NHTM đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước 
Việt Nam (NHNN) hoặc để mở rộng mạng 
lưới hoạt động theo quy định của pháp luật.
Nhiều các nghiên cứu đã tìm ra mối tương 
quan cùng chiều giữa tỷ lệ VCSH với 
KNSL của NHTM. Bourke (1989) nghiên 
cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận của 
các ngân hàng tại Châu Âu, Bắc Mỹ và 
Úc; Molyneux & Thornton (1992) nghiên 
cứu các yếu tố tác động đến lợi nhuận 
của các ngân hàng Châu Âu; Saunders và 
Schumacher (2000) nghiên cứu các yếu 
tố tác động đến lãi suất cận biên của ngân 
hàng; Brock và Suarez (2000) nghiên cứu 
trên các ngân hàng ở khu vực Mỹ La tinh; 
Maudos và Guevara (2004) nghiên cứu các 
yếu tố tác động ở các ngân hàng thuộc liên 
minh Châu Âu. Lý giải mối tương quan 
dương giữa VCSH và KNSL, các tác giả 
cho rằng các ngân hàng có mức vốn cao có 
thể làm giảm chi phí đi vay, huy động từ 
các nguồn khác, từ đó ảnh hưởng một cách 
tích cực đến KNSL của NHTM. 
Tuy nhiên, nghiên cứu của Saona (2011) 
nghiên cứu các yếu tố quyết định đến 
lợi nhuận của các ngân hàng Mỹ, Qin và 
Pastory (2012) nghiên cứu tại một số ngân 
hàng tại Tanzania đã chỉ ra mối quan hệ 
tiêu cực giữa quy mô VCSH và KNSL. 
Ngoài ra Dietrich và Wanzenried (2011) 
nghiên cứu yếu tố tác động đến lợi nhuận 
của các ngân hàng tại Thụy Sĩ trước và sau 
khủng hoảng đã chỉ ra: tỷ lệ VCSH không 
tác động đến lợi nhuận ngân hàng trước 
cuộc khủng hoảng ở Thụy Sĩ, song lại tác 
động tiêu cực lên KNSL được đo bằng chỉ 
số ROA trong suốt cuộc khủng hoảng tài 
chính năm 2007-2009.
- Quy mô tiền gửi
Đối với các NHTM, tiền gửi là nguồn huy 
động đầu vào quan trọng nhất để tiến hành 
các hoạt động kinh doanh. Quy mô tiền 
gửi càng lớn thì khả năng sử dụng vốn của 
ngân hàng càng tăng, ngân hàng càng có 
nhiều vốn để cho vay góp phần mang lại lợi 
nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, hai vấn 
đề quan trọng mà các ngân hàng cần quan 
tâm đến đối với mỗi nguồn vốn huy động 
được chính là chi phí để có được nguồn vốn 
đó và rủi ro của từng nguồn vốn. Hoạt động 
huy động vốn cần phải có một chính sách 
lãi suất hợp lý để có thể vừa thu hút được 
lượng tiền gửi từ khách hàng vừa đảm bảo 
KNSL cho ngân hàng.
Các nghiên cứu về quy mô tiền gửi ảnh 
hưởng đến KNSL của NHTM: Nghiên cứu 
của Sehrish Gul- Faiza Irshad- Khalid Zaman 
(2011) chỉ ra rằng quy mô tiền gửi có sự tác 
động tích cực và đáng kể đến lợi nhuận của 
ngân hàng. Ngược lại, Bashir và Hassan 
(2004) nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ tỷ 
NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
63Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
lệ nghịch giữa quy mô tiền gửi với lợi nhuận. 
Nghiên cứu của Phạm Công Doanh (2014) 
cũng chỉ ra rằng quy mô tiền gửi khách hàng 
càng cao thì ROA của NHTM Việt Nam 
càng tăng, trong khi ROE không bị tác động 
bởi quy mô tiền gửi.
- Quy mô dư nợ
Quy mô dư nợ được tính bằng tỷ lệ dư nợ cho 
vay chia cho tổng tài sản. Đây là một trong 
những chỉ tiêu quan trọng để phân tích khả 
năng sinh lợi của các NHTM, chỉ tiêu này 
phản ánh rủi ro thanh khoản trong hoạt động 
ngân hàng, tỷ lệ này cao chứng tỏ ngân hàng 
có tính thanh khoản thấp và ngược lại.
Nghiên cứu của Gul và cộng sự (2011), 
Sufian (2011) đã tìm thấy mối quan hệ tích 
cực giữa quy mô dư nợ và KNSL của ngân 
hàng. Tuy nhiên nghiên cứu của Bourke 
(1989) lại cho thấy mối tương quan thuận 
đáng kể giữa khả năng thanh khoản của 
ngân hàng và KNSL, nguyên nhân là do 
trong thời gian không ổn định, ngân hàng 
có thể lựa chọn để tăng tài sản lưu động 
nắm giữ, giảm quy mô dư nợ nhằm giảm 
thiểu rủi ro. Trong một số nghiên cứu khác, 
quy mô dư nợ lại được sử dụng để đại diện 
cho mức độ rủi ro tín dụng khi dữ liệu 
không cho phép tính toán tỷ lệ dự phòng rủi 
ro trong tổng dư nợ (De Guevara, J.F. và 
Maudos, J., 2004). Nghiên cứu của Miller 
và Noulas (1997), Alper và Anbar (2011) 
đã tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa quy 
mô dư nợ và KNSL của ngân hàng. Các tác 
giả lý giải một ngân hàng có quy mô dư nợ 
cao sẽ làm gia tăng các khoản nợ xấu và do 
đó làm giảm lợi nhuận biên.
- Hiệu quả quản trị chi phí
Các loại chi phí chủ yếu phát sinh trong quá 
trình hoạt động của một NHTM bao gồm: 
Chi phí trả lãi, chi phí ngoài lãi.Trong các 
nghiên cứu định lượng, hiệu quả quản trị 
chi phí thường được đo lường thông qua tỷ 
số: Chi phí hoạt động/tổng tài sản hoặc chi 
phí hoạt động/thu nhập. Nhiều nghiên cứu 
đã tìm thấy ảnh hưởng tích cực rõ ràng của 
biến hiệu quả quản trị chi phí lên KNSL 
của ngân hàng. Chẳng hạn các nghiên cứu 
của Pasiouras và Kosmidou (2007), Alexio 
và Sofoklis (2009), Trujilo- Ponce (2012) 
cho thấy NHTM quản trị chi phí càng hiệu 
quả, tức các tỷ số trên càng giảm thì sẽ có 
KNSL càng cao. Tuy nhiên, một số tác 
giả khác lại có kết quả nghiên cứu ngược 
lại như Athanasoglou và cộng sự (2008); 
Goddard và cộng sự (2009) lại bảo vệ lý 
thuyết tiền lương hiệu quả, cho rằng năng 
suất lao động theo mức tăng của tiền lương, 
các tác giả trên tìm thấy mối quan hệ tiêu 
cực giữa hiệu quả quản trị chi phí và KNSL 
của ngân hàng. 
Ngoài các công trình nghiên cứu của các tác 
giả nước ngoài, một số công trình nghiên 
cứu trong nước cũng đã nghiên cứu về các 
nhân tố ảnh hưởng đến KNSL của NHTM.
Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị 
Thu Hiền (2017), tác giả đã sử dụng số liệu 
của 22 NHTM cổ phần tại Việt Nam để xác 
định các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến các 
chỉ tiêu ROA, ROE của các NHTM. Kết 
quả nghiên cứu đã kết luận các yếu tố ảnh 
hưởng cùng chiều với KNSL của ngân hàng 
bao gồm: tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng/
Cho vay, tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản, thu 
nhập phi lãi/Tài sản và chi phí trả lãi/Nợ 
phải trả. Các yếu tố có ảnh hưởng ngược 
chiều đến KNSL của ngân hàng bao gồm: 
Chi phí hoạt động/Thu nhập, nợ xấu, và 
quy mô hội đồng thành viên. Trong nghiên 
cứu cũng chỉ ra các yếu tố: quy mô, quản 
trị rủi ro thanh khoản, cấu trúc nguồn vốn, 
kiểm soát chi phí của ngân hàng không ảnh 
Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại-
Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
hưởng đến KNSL của NHTM. 
Tác giả Phạm Công Doanh (2014), trên cơ 
sở số liệu của 15 NH TMCP tại Việt Nam 
trong 9 năm từ năm 2005 đến năm 2013, 
đã đề xuất 2 chỉ tiêu phản ánh mức sinh 
lời của NHTM là ROA, ROE. Các yếu tố 
ảnh hưởng đến KNSL bao gồm: yếu tố nội 
tại (tổng tiền gửi, dư nợ cho vay, tổng tài 
sản, vốn chủ sở hữu, dự phòng rủi ro tín 
dụng, tài sản thanh khoản, tỷ lệ thu nhập 
lãi cận biên hay tỷ suất thu nhập lãi thuần 
(NIM), tỷ lệ thu nhập chi phí lãi cận biên 
(NII)), yếu tố kinh tế vĩ mô (lạm phát, tốc 
độ tăng trưởng GDP, lãi suất thực). Kết quả 
cho thấy: không có mối tương quan giữa 
lãi suất thực, tỷ lệ lạm phát đến ROA, ROE 
của các NHTM, có sự tác động cùng chiều 
giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng ROE 
của các NHTM. Tất cả các yếu tố nội tại 
đều có sự tương quan đến ROA và ROE 
của NHTM. 
Tác giả Hồ Thị Hồng Minh, Nguyễn Thị 
Cành (2015) dùng phương pháp ước lượng 
hồi quy với các biến độc lập là ROA, ROE 
đánh giá KNSL của 22 NHTM Việt Nam 
trong 7 năm từ năm 2007 đến năm 2013. 
Kết quả cho thấy KNSL của NHTM tỷ lệ 
thuận với tỷ lệ dư nợ cho vay/tổng tài sản, 
tỷ lệ tiền gửi khách hàng/tổng nợ phải trả, 
hiệu quả hoạt động. Đồng thời, KNSL tỷ 
lệ nghịch với tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ, tỷ lệ 
vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, tỷ lệ chi phí 
hoạt động/thu nhập hoạt động. Không tìm 
ra mối liên hệ giữa quy mô tổng tài sản và 
tăng trưởng kinh tế tác động đến KNSL. 
Tuy nhiên nghiên cứu lại cho thấy lạm phát 
có sự tác động đến KNSL trong phương 
trình ROA.
Qua các công trình nghiên cứu tại Việt 
Nam, cho thấy các đề tài nghiên cứu trước 
đây đều lấy đối tượng nghiên cứu là nhóm 
các NHTM nói chung và chủ yếu đề cập đến 
KNSL qua ROA, ROE. Hầu như rất ít đề 
tài nghiên cứu tại một NHTM cụ thể, đồng 
thời chưa có đề tài nào nghiên cứu thực 
nghiệm tại đối tượng cụ thể là tại PG Bank, 
một ngân hàng đang trong tình trạng chờ sáp 
nhập. Do đó, nghiên cứu đi tìm bằng chứng 
thực nghiệm tại PG Bank góp phần làm rõ 
ảnh hưởng của các tố nội tại tới một ngân 
hàng cụ thể, đặc biệt là một NHTM đang 
trong bối cảnh chờ sáp nhập.
3. Phương pháp và mô hình nghiên ... là 0,6725, chiếm tỷ lệ lớn trong 
tổng tài sản có. Quy mô dư nợ cho vay có 
giá trị thấp nhất là 0,5507 rơi vào thời điểm 
Quý I năm 2015, giá trị lớn nhất đạt 0,8047 
rơi vào thời điểm Quý IV năm 2010. Độ 
lệch chuẩn là 0,0628 cho thấy quy mô dư 
nợ dao động không lớn.
Biến X5- Hiệu quả quản trị chi phí có giá 
trị trung bình là 0,0056, giá trị nhỏ nhất 
0,0041 tại Quý IV năm 2015, giá trị lớn 
nhất 0,0089 tại Quý II năm 2016. Độ lệch 
chuẩn 0,0013 cho thấy sự dao động chi phí 
hoạt động là rất thấp trong từ năm 2010 đến 
năm 2018.
4.2. Phân tích tương quan giữa các biến
Biến phụ thuộc ROA: Hệ số tương quan âm 
giữa ROA và các biến độc lập X1- Quy mô 
tổng tài sản (-0,5775); X2- Quy mô VCSH 
(-0,2513); X3- Quy mô tiền gửi khách hàng 
(-0,2353); X4- Quy mô dư nợ (-0,0247) 
cho thấy mối quan nghịch giữa ROA và các 
biến này. Điều này có ý nghĩa, khi quy mô 
tổng TS, quy mô VCSH, quy mô tiền gửi 
khách hàng, quy mô dư nợ tăng quá lớn sẽ 
làm ROA giảm. Hệ số tương quan dương 
giữa ROA và X5- hiệu quả quản trị chi phí 
(0,3115) cho thấy mối quan hệ cùng chiều 
giữa ROA và X5, nếu hiệu quả quản trị chi 
phí tăng thì ROA tăng theo.
Biến phụ thuộc ROE: ROE có hệ số tương 
quan dương với các biến X4 (0,0177) và 
X5 (0,2770) cho thấy nếu quy mô dư nợ và 
hiệu quả quản trị chi phí tăng thì lợi nhuận 
của ngân hàng tăng theo (ROE tăng). ROE 
có hệ số tương quan âm với các biến X1 
(-0,6561), X2 (-0,3854), X3 (-0,1448) cho 
thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa ROE 
và các biến này, nếu quy mô tài sản, quy 
mô VCSH, quy mô tiền gửi khách hàng tại 
ngân hàng tăng quá lớn sẽ làm ROE giảm.
Biến phụ thuộc NIM: NIM có hệ số tương 
quan dương với các biến X2 (0,0987), X4 
(0,1663), X5 (0,6310) cho thấy mối quan hệ 
thuận chiều với các biến. Quy mô VCSH, 
quy mô dư nợ và hiệu quả quản trị chi phí 
Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại-
Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
tăng sẽ làm tăng NIM của ngân hàng. Biến 
NIM có hệ số tương quan âm với các biến 
X1 (-0,6256) và X3 (-0,3069) thể hiện khi 
quy mô tài sản và quy mô tiền gửi khách 
hàng tại ngân hàng tăng quá lớn sẽ làm 
giảm lợi nhuận tại ngân hàng (NIM giảm).
4.3. Phân tích hồi quy
Phân tích mô hình hồi quy với các biến 
phụ thuộc ROA, ROE, NIM cho kết quả tại 
Bảng 4.
4.4. Kiểm định sự phù hợp của mô hình 
hồi quy với các biến ROA, ROE, NIM
+ Với giá trị P_value (F-statistic) của các 
mô hình hồi quy đều < 1% chứng tỏ mức 
độ phù hợp của mẫu khảo sát đối với mô 
hình hồi quy. 
Hệ số hiệu chỉnh R2 của mô hình hồi quy 
với ROA là 36,96% có nghĩa 36,96 % sự 
biến thiên của ROA được giải thích bởi 
những thay đổi của các biến độc lập. Tương 
tự, hệ số hiệu chỉnh R2 của mô hình hồi quy 
với ROE và NIM lần lượt là 53,84% và 
52,74%. Thông thường R2 hiệu chỉnh nếu 
đạt trên 50% thì được coi là mô hình tốt, ở 
mô hình hồi quy ROA cho kết quả R2 hiệu 
chỉnh ở mức dưới 50% cũng có thể ROA 
còn phụ thuộc vào các biến ngoài mô hình 
và sai số ngẫu nhiên.
+ Kiểm định xem có bỏ sót biến quan trọng 
nào của mô hình hồi quy hay không, dùng 
kiểm định Ramsey RESET Test cho kết 
quả P_value đều > 0,05 chứng tỏ mô hình 
không sót biến độc lập quan trọng.
+ Kiểm định mô hình có phương sai sai 
số thay đổi hay không, sử dụng kiểm định 
White cho kết quả đều là P_value > 0,05 
chứng tỏ mô hình không có hiện tượng 
phương sai sai số thay đổi.
+ Kiểm định mô hình có hiện tượng tự 
tương quan hay không, sử dụng kiểm định 
Breusch-Godfrey cho các kết quả P_value 
với biến ROA, ROE > 0,05 chứng tỏ mô 
hình không có hiện tượng tự tương quan. 
Riêng mô hình với biến phụ thuộc NIM 
cho kết quả P_value= 0,032678 < 0,05, tuy 
nhiên chỉ số Durbin-Watson của mô hình là 
1,660567 (nằm trong khoảng 1 < Durbin-
Watson stat <3) có thể kết luận mô hình 
không có hiện tượng tự tương quan.
+ Kiểm định mô hình có hiện tượng đa cộng 
tuyến hay không, thực hiện hồi quy lần lượt 
các biến X1, X2, X3, X4, X5 theo các biến 
còn lại, kết quả không có hệ số tương quan 
Bảng 3. Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu
 ROA ROE NIM X1 X2 X3 X4 X5
ROA 1,0000 
ROE 0,9671 1,0000 
NIM 0,6956 0,6372 1,0000 
X1 -0,5775 -0,6561 -0,6256 1,0000 
X2 -0,2513 -0,3854 0,0987 0,036 1,0000 
X3 -0,2353 -0,1448 -0,3069 0,27 -0,43 1,0000 
X4 -0,0247 0,0177 0,1663 0,0059 -0,0918 0,6666 1,0000 
X5 0,3115 0,277 0,631 -0,5453 0,4109 -0,463 0,0163 1,0000
Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán dựa trên số liệu đã được công bố trên website của Ngân hàng TMCP 
Xăng Dầu Petrolimex
NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
69Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
cặp vượt quá 0,6 nên có thể bỏ qua hiện 
tượng đa cộng tuyến không hoàn hảo.
+ Kiểm định yếu tố ngẫu nhiên tuân theo 
quy luật chuẩn đều cho kết quả P_value 
> 0,05 chứng tỏ sai số ngẫu nhiên của mô 
hình có phân phối chuẩn.
Sau khi kiểm định các khuyết tật của mô 
hình, có thể thấy mô hình kiểm định với 
các biến phụ thuộc ROA, ROE, NIM là phù 
hợp, không có khuyết tật.
4.5. Kết quả hồi quy
Mô hình có biến phụ thuộc ROA: 
ROA = 0,066407- 0,005066*X1- 
0,067120*X2- 0,016306*X3
Mô hình có biến phụ thuộc ROE: 
ROE = 0,660922- 0,052857*X1- 
0,669929*X2
Mô hình có biến phụ thuộc NIM: 
NIM = 0,075182- 0,006652*X1- 
0,027204*X3 + 0,029871*X4 + 
1,017917*X5
5. Kết luận và khuyến nghị
Kết luận 
Trái với kỳ vọng ban đầu, quy mô tổng tài 
sản, quy mô vốn chủ sở hữu và quy mô tiền 
gửi khách hàng có mối tương quan ngược 
chiều với KNSL của ngân hàng (trong đó, 
quy mô tổng tài sản có ý nghĩa tại cả ba mô 
hình hồi quy ROA, ROE, NIM. Quy mô 
vốn chủ sở hữu chỉ có ý nghĩa tại mô hình 
hồi quy ROA, ROE. Quy mô tiền gửi khách 
hàng chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi quy 
ROA, NIM). Hiệu quả quản trị chi phí lại có 
mối tương quan cùng chiều với KNSL của 
ngân hàng và chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi 
Bảng 4. Kết quả mô hình hồi quy
Mô hình hồi quy với biến 
phụ thuộc ROA
Mô hình hồi quy với biến 
phụ thuộc ROE
Mô hình hồi quy với biến phụ 
thuộc NIM
Tên 
biến
Hệ số hồi 
quy P_value
Tên 
biến
Hệ số hồi 
quy P_value
Tên 
biến
Hệ số hồi 
quy P_value
C 0,066407 0,0039 C 0,660922 0,0001 C 0,075182 0,0169
X1 -0,005066 0,0216 X1 -0,052857 0,0012 X1 -0,006652 0,0304
X2 -0,06712 0,0182 X2 -0,669929 0,0014 X2 -0,041537 0,2789
X3 -0,016306 0,0989 X3 -0,104999 0,1324 X3 -0,027204 0,0515
X4 0,009284 0,3017 X4 0,067261 0,2916 X4 0,029871 0,0221
X5 0,116951 0,7846 X5 0,733515 0,8089 X5 1,017917 0,097
R-squared 0,459703 R-squared 0,604364 R-squared 0,594935
Adjusted R-squared 0,369654 Adjusted R-squared 0,538425 Adjusted R-squared 0,527424
Durbin-Watson stat 1,616134 Durbin-Watson stat 1,656317 Durbin-Watson stat 1,492594
Prob(F-statistic) 0,001669 Prob(F-statistic) 0,000022 Prob(F-statistic) 0,000031
Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán dựa trên số liệu đã được công bố trên website của Ngân hàng TMCP 
Xăng Dầu Petrolimex
Các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng thương mại-
Nghiên cứu thực nghiệm tại PG Bank
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020
quy NIM. Duy chỉ có quy mô dư nợ cho vay 
đúng với kỳ vọng ban đầu là có mối tương 
quan cùng chiều với KNSL của ngân hàng 
và cũng chỉ có ý nghĩa tại mô hình hồi quy 
NIM. 
Kết quả nghiên cứu mô hình hồi quy cho 
thấy để nâng cao KNSL, ngân hàng phải 
thực sự quan tâm đến 5 nhân tố đã được 
kiểm định. Trong đó hai nhân tố tác động 
tích cực, tác động cùng chiều đến NIM của 
PG Bank là Quy mô dư nợ cho vay và Hiệu 
quả quản trị chi phí. Có thể thấy đây là hai 
nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến 
gia tăng KNSL của PG bank, vì vậy cần 
có những giải pháp ưu tiên thực hiện trước. 
Theo các nghiên cứu của các tác giả trong 
nước và ngoài nước đã được nhóm tác giả 
giới thiệu ở tổng quan nghiên cứu thì có 
thể thấy đây là các nhân tố có khả năng 
ảnh hưởng đến KNSL của các NHTM nói 
chung. Tuy nhiên, tại mô hình hồi quy biến 
phụ thuộc ROA có hệ số hiệu chỉnh R2 dưới 
50% là hạn chế của nghiên cứu, nhóm tác 
giả sẽ cần thực hiện nghiên cứu tiếp theo để 
bổ sung thêm các nhân tố ảnh hưởng đến 
ROA của ngân hàng.
Khuyến nghị 
Từ kết quả nghiên cứu tại mô hình NIM, 
PG Bank nên mở rộng quy mô dư nợ cho 
vay với việc chú trọng đến đối tượng cán 
bộ nhân viên đang làm việc tại Petrolimex 
với số lượng nhân viên lên đến hàng chục 
nghìn người vì đây là nguồn khách hàng có 
thu nhập ổn định và có nhu cầu lớn với các 
sản phẩm như cho vay tiêu dùng, cho vay 
tín chấp qua lương, phát hành thẻ visa,... 
Đồng thời, với lợi thế đang liên kết với 
nhiều cửa hàng xăng dầu của Petrolimex, 
PG Bank nên tăng cường hơn nữa cung 
cấp các dịch vụ đa năng, tiện ích cho khách 
hàng như ưu đãi thanh toán tiền xăng dầu, 
cung cấp dịch vụ giúp khách hàng quản lý 
chi tiêu tiền xăng dầu một cách linh hoạt và 
hiệu quả. Bên cạnh đó, ngân hàng có thế 
đẩy mạnh cho vay đối với đối tượng là các 
doanh nghiệp vận tải, du lịch
Để nâng cao hiệu quả quản trị chi phí, PG 
Bank nên tăng cường nghiên cứu áp dụng 
các quy trình quản trị hiện đại. Ngân hàng 
nên thực hiện cơ chế chi trả lương, thưởng 
gắn liền với kết quả làm việc của mỗi cá 
nhân bằng cách xây dựng các chỉ tiêu đánh 
giá hiệu quả làm việc, xây dựng quy trình 
bổ nhiệm đối với từng chức danh để tạo 
động lực cho mỗi nhân viên làm việc và 
gắn bó lâu dài với PG Bank. Tăng cường 
các chiến dịch Marketing, đẩy mạnh quảng 
bá thương hiệu của ngân hàng, đặc biệt trên 
các báo điện tử có lượng người truy cập 
nhiều, tạo fanpage trên facebook để quảng 
bá sản phẩm mới, ghi nhận ý kiến đóng góp 
của khách hàng trên nhiều kênh để cải 
thiện quy trình, sản phẩm, chất lượng dịch 
vụ. ■
Tài liệu tham khảo
 Ben Naceur, S., and Goaied, M., (2008), The determinants of commercial bank interest margin and profitability: 
evidence from Tunisia, Frontiers in Finance and Economics 5, 106-130.
Dietrich, A., Wanzenried, G. (2011), Determinants of bank profitability before and during the crisis: evidence from 
Switzerland, Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, vol 21(3), pp 307-327.
De Guevara, J.F. and Maudos, J. (2004), Measuring Welfare Loss of Market Power: An Application to European 
Banks, Applied Economics Letters, vol 11, pp833-836. 
Donald D. Hester & John F. Zoellner (1965), The relation between bank portfolios and earnings: an economic 
analysis, Cowles Foundation Discussion Paper No.184.
Deger Alper and Adem Anbar (2011), Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Commercial Bank 
Profitability: Empirical Evidence from Turkey, Business and Economics Research Journal, Vol2 (2), pp. 139-152.
NGUYỄN HOÀI NAM - NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
71Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Hồ Thị Hồng Minh- Nguyễn Thị Cành (2015), “Đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố tác động đến khả năng sinh lợicủa 
các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 106+107, tháng 1+2/2015, trang 13-24. 
Lê Văn Tư (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính.
Mohamed Khaled Al-Jafari and Mohammad Alchami(2014), Determinants of Bank Profitability: Evidence from Syria. 
Journal of Applied Finance & Banking, vol. 4, no. 1, pp 17-45. 
Molyneux, P., Thornton, J. (1992), The determinants of European Bank profitability, Journal of Banking and Finance, 
vol 16, pp 1173-1178. 
Miller, S. and Noulas, A. (1997), Portfolio Mix and Large-Bank Profitability in the USA, Applied Economics, vol 29, pp 
505-512. 
Maudos, Joaqúin and Juan Fernández de Guevara (2004), Factors explaining the interest margin in the banking 
sectors of the European Union, Journal of banking and finance, No. 28, pp 2259-2281.
Naceur, B. Samy, 2003, The determinants of the Tunisian banking industry profitability: Panel Evidence, Universite 
Libre de Tunis, Department of finance Working Paper 2003.
Nguyễn Thị Thu Hiền (2017), “Các yếu tố đặc trưng xác định khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại Việt 
Nam”, Tạp chí công thương. 
Nguyễn Đăng Dờn (2007), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống kê.
Nguyễn Văn Công (2009) Giáo trình Phân tích kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc Dân.
Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex, Báo cáo kết quả kinh doanh các năm (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 
2015, 2016, 2017, 2018), Hà Nội.
Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex, Báo cáo thường niên các năm (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 
2016, 2017, 2018), Hà Nội.
Ngân hàng TMCP Xăng Dầu Petrolimex, Báo cáo tài chính quý các năm (2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 
2016, 2017, 2018), Hà Nội.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo thường niên các năm (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 
2018), Hà Nội.
Nguyễn Phạm Nhã Trúc- Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015), “Các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của hệ 
thống Ngân hàng thương mại tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 228, tháng 6/2016.
Ong Tze San và Teh Boon Heng (2013), Factors affecting the profitability of Malaysian commercial banks, African 
Journal of Business Management ,Vol. 7(8), pp. 649-660. 
Pasiouras, F. and Kosmidou, K. (2007), Factors influencing the profitability of domestic and foreign commercial banks 
in the European Union, International Business and Finance, 21, 222-237.
Phạm Công Doanh (2014), “Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời tại các ngân hàng TMCP Việt Nam”, Luận văn 
Thạc sĩ Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. 
PhilipBourke (1989), Concentration and other determinants of bank profitability in Europe, North America and 
Australia, Journal of Banking & Finance, Volume 13, Issue 1, March 1989, pp 65-79.
Philip L. Brock and Liliana Rojas Suarez (2000), Understanding the behavior of bank spreads in Latin America, 
Journal of Development Economics, vol.63 pp 113-134.
Paolo Saona Hoffmann (2011), Determinants of the Profitability of the US Banking Industry, International Journal of 
Business and Social Science Vol. 2 No. 22.
Quốc Hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH 12, Hà Nội.
Quốc Hội (2017), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 17/2017/QH 14, Hà Nội.
Saunders, A., & Schumacher, L. (2000), The Determinants of Bank Interest Rate Margins: An International Study, 
Journal of International Money and Finance, vol 19, pp 813-832. 
Sufian, F., Habibullah, M.S. (2009), Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Bank Profitability: Empirical 
Evidence from the China Banking Sector, Frontiers of Economics in China, Vol 4 (2), pp 274-291.
Sehrish Gul–Faiza Irshad- Khalid Zaman (2011), Factors affecting Bank Profitability in Pakistan, The Romanian 
Economic Journal.
Trần Huy Hoàng (2010), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Lao động xã hội.
Xuezhi Qin1 & Dickson Pastory1 (2011), Commercial Banks Profitability Position: The Case of Tanzania, 
International Journal of Business and Management; Vol. 7, No. 13.

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_noi_tai_anh_huong_den_kha_nang_sinh_loi_cua_ngan.pdf