Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định
Tóm tắt: Thị trường bất động sản (BĐS) Việt Nam nói chung và doanh nghiệp BĐS
nói riêng mặc dù có những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế cả nước, tuy
nhiên trong 10 năm gần đây đã trải qua nhiều khó khăn, thách thức, trong đó là khả
năng tiếp cận tín dụng ngân hàng. Đặc biệt, với diễn biến phức tạp của dịch bệnh
Covid-19, nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế đối với thị trường BĐS càng
bị thu hẹp, ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS. Do
đó, việc xem xét, xác định các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định
13 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 223- Tháng 12. 2020 Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định Ngô Thị Hằng Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Nguyễn Thị Thuỳ Linh Công ty Cổ phần Chứng khoán VPS Ngày nhận: 30/07/2020 Ngày nhận bản sửa: 27/08/2020 Ngày duyệt đăng: 22/09/2020 Tóm tắt: Thị trường bất động sản (BĐS) Việt Nam nói chung và doanh nghiệp BĐS nói riêng mặc dù có những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế cả nước, tuy nhiên trong 10 năm gần đây đã trải qua nhiều khó khăn, thách thức, trong đó là khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng. Đặc biệt, với diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế đối với thị trường BĐS càng bị thu hẹp, ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp BĐS. Do đó, việc xem xét, xác định các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh Factors Affecting Profitability of Vietnamese Real Estate Firms: Employing Fixed Effect and Random Effect Models Abstract: Vietnam’s Real estate market in general and real estate firms in particular, despite their positive contributions to the national economic development, have significantly experienced various handicaps and challenges over past 10 years inlcuding the accessibility to credit finance. Especially, the tremendous impact of the Covid-19 pandemic on the worldwide economy has threatened domesitic and international capital flows to the Vietnam’s real estate market, subtantialy hurt the real estate firms’ profitability. Therefore, thoughtfully determing key elements contributing to the Vietnamese real estate firms’ profitability plays an indispensible role in directing those firms to proactively produce proper responses towards raising their profitability and then competitive advantages. This paper, by employing fixed effect and random effect models to investigate affecting factors on the profitability of 27 real estate firms listed on Ho Chi Minh Stock Exchange for the period of 2010 to 2019, finds that asset structure deteriorates firms’s profitability while leverage, firm size, and other factors, show the positive effect. Keywords: Real Estate Firms, Firm Profitability, Affecting Factors. Hang Thi Ngo Email: ngohang@hvnh.edu.vn Faculty of Finance, Banking Academy Linh Thi Thuy Nguyen Email: nt.thuylinh0206@gmail.com VPS Securities Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định 14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 nghiệp BĐS đóng vai trò quan trọng, giúp định hướng các doanh nghiệp BĐS chủ động, tích cực trong các quyết sách nâng cao hiệu quả sinh lời và năng lực cạnh tranh. Bài viết này, thông qua ứng dụng mô hình tác động cố định (Fixed Effect) và mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect), nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng khả năng sinh lời của 27 doanh nghiệp BĐS điển hình niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn từ 2010 tới 2019, đã tìm thấy cấu trúc tài sản làm suy giảm khả năng sinh lời của các doanh nghiệp BĐS, trong khi đòn bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp và một số nhân tố khác, trái lại, có tác động tích cực. Từ khoá: Doanh nghiệp Bất động sản, Khả năng sinh lời, Nhân tố ảnh hưởng 1. Giới thiệu Khả năng sinh lời là một chỉ tiêu phản ánh rõ nhất kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Thông thường, khả năng sinh lời được phản ánh thông qua chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ suất sinh lời tổng tài sản (ROA). Trong thời kỳ Việt Nam đang dần từng bước hòa nhập cùng nền kinh tế thế giới, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua nâng cao khả năng sinh lời của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến sự tồn tại của các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà gián tiếp tác động tới triển vọng phát triển của ngành và rộng hơn là toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ngành bất động sản (BĐS) là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, chiếm tỷ trọng khá lớn và đóng góp vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 2012 đến nay, thị trường BĐS ở Việt Nam trở nên khá trầm lắng, tính thanh khoản kém làm cho tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành BĐS rơi vào tình trạng khó khăn và hiệu quả sinh lời chung của các doanh nghiệp cũng có xu hướng giảm sút đáng kể (Hình 1). Xem xét chi tiết khả năng sinh lời của 27 doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên HOSE trong giai đoạn 2010- 2019, nhận thấy có những doanh nghiệp hoạt động kinh Hình 1. Diễn biến khả năng sinh lời các doanh nghiệp BĐS (HOSE), 2010-2019 Nguồn: Tính toán từ số liệu Báo cáo tài chính của 27 doanh nghiệp BĐS (HOSE) thu thập từ trang https:// finance.vietstock.vn/ NGÔ THỊ HẰNG - NGUYỄN THỊ THUỲ LINH 15Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng doanh thua lỗ dẫn tới các hệ số khả năng sinh lời thấp như CTCP BĐS du lịch Ninh Vân Bay (NVT), CTCP Đầu tư Hạ tầng và Đô thị Dầu khí PVC (PTL), nhưng bên cạnh đó, một số doanh nghiệp lại có khả năng sinh lời cao như Tập đoàn Vingroup (VIC), CTCP Tập đoàn Đất Xanh (DXG) Sự thay đổi về môi trường kinh doanh rất có thể vừa tạo ra những cơ hội và vừa tạo ra những thách thức cho các doanh nghiệp ngành BĐS. Trong đó, có thể thấy rõ các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao hơn trung bình ngành thường là các doanh nghiệp có thâm niên trong ngành, quy mô tài sản lớn, và tương ứng với đó cũng có khả năng sinh lời ổn định và tích cực hơn (Hình 2 & 3). Xuất phát từ tầm quan trọng của khả năng sinh lời đối với các doanh nghiệp BĐS nói riêng cũng như đối với nền kinh tế nói chung, việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành BĐS là cần thiết. 2. Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 2.1. Tổng quan nghiên cứu Trên thế giới cũng như trong nước đã có những nghiên cứu phân tích sự tác động của các nhân tố đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp trong ngành BĐS nói riêng. Các nghiên cứu quốc tế Rehman & Khidmat (2014) đã nghiên cứu trên 9 công ty ngành hóa học niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Pakistan từ năm 2001 đến 2009, với biến phụ thuộc là ROA, đại diện cho khả năng sinh lời của doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời được sử dụng trong nghiên cứu, gồm tỷ số khả năng thanh toán nhanh (quick ratio), tỷ số khả năng thanh toán ngắn hạn (current ratio), tỷ lệ nợ trên VCSH và tỷ lệ nợ trên tổng tài sản. Kết quả phân tích mô hình hồi quy cho thấy rằng các tỷ số khả năng thanh toán có tác động Hình 2. Khả năng sinh lời tổng tài sản của các doanh nghiệp BĐS (HOSE) Nguồn: Tính toán từ số liệu Báo cáo tài chính của 27 doanh nghiệp BĐS (HOSE) thu thập từ trang https:// finance.vietstock.vn/ Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định 16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 cùng chiều và các nhân tố còn lại có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Sivathaasan & các cộng sự (2013) đã tiến hành nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của tất cả các công ty sản xuất niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Colombia, Sri Lanka giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2012. Các nhân tố ảnh hưởng gồm cấu trúc tài sản, cấu trúc vốn, quy mô công ty và tốc độ tăng trưởng; các biến phụ thuộc đại diện cho khả năng sinh lời của doanh nghiệp là ROE và ROA. Nghiên cứu cho kết quả, các biến độc lập giải thích được 76,6% và 84,7% cho mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự tăng trưởng ROA và ROE của doanh nghiệp. Trong đó, chỉ có cấu trúc vốn có tác động tích cực đến khả năng sinh lời của các công ty, còn các biến cấu trúc tài sản, quy mô công ty và tốc độ tăng trưởng không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với ROE và ROA. Bolek & Wiliński (2012) nghiên cứu sự tác động của các nhân tố kinh tế bên trong lẫn bên ngoài lên khả năng sinh lời của các công ty xây dựng niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Warsaw trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rằng quy mô công ty và tốc độ tăng trưởng GDP có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp (ROA), trong khi đó cấu trúc tài sản, cấu trúc vốn, kỳ thu tiền trung bình và tỷ số khả năng thanh toán nhanh lại có tác động ngược chiều. Tương tự, Andersson & Minnema (2018), Elif (2016), Owolabi & Obida (2012), Lazaridis & Tryfonidis (2006), Liargovas & Skandalis (2008), Ghosh (2000) cũng tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa thời gian hoạt động, quy mô hoạt động và khả năng sinh lời của doanh nghiệp, trong khi đó tỷ lệ nợ có tác động ngược chiều. Alshatti (2015) đã thu nhập số liệu từ 13 ngân hàng thương mại ở Jordanian từ năm 2005- 2012 nhằm tìm ra mối liên hệ giữa tính thanh khoản và khả năng sinh lời (ROA và ROE). Nghiên cứu đã chỉ ra, tỷ số khả năng thanh toán nhanh và tỷ lệ đầu tư có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lời Hình 3. Khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp BĐS (HOSE) Nguồn: Tính toán từ số liệu Báo cáo tài chính của 27 doanh nghiệp BĐS (HOSE) thu thập từ trang https://finance.vietstock.vn/ NGÔ THỊ HẰNG - NGUYỄN THỊ THUỲ LINH 17Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng của các ngân hàng, trong khi đó tỷ lệ VCSH (VCSH/Tổng tài sản) và tỷ số khả năng thanh toán lại có tác động ngược chiều. Bên cạnh đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa một số yếu tố hội đồng quản trị (HĐQT) với khả năng sinh lời của doanh nghiệp, Shukeri & cộng sự (2012), Hambrick & cộng sự (1984) đã cho biết các doanh nghiệp có thành viên HĐQT là người nước ngoài thường có khả năng sinh lời (ROE) tốt hơn. Các nghiên cứu tại Việt Nam Tu & Nguyen (2014) nghiên cứu mối quan hệ giữa vấn đề quản lý vốn lưu động và lợi nhuận của doanh nghiệp, trong đó nghiên cứu tác động của tỷ lệ nợ (tổng nợ/ tổng tài sản) và tỷ lệ tài sản tài chính (tổng giá trị tài sản tài chính/ tổng tài sản) của 208 doanh nghiệp niêm yết trên HOSE và HNX từ năm 2006 đến năm 2012, song không tìm ra mối liên hệ giữa hai biến số trên và lợi nhuận của doanh nghiệp. Minh Nhựt & Thu Thảo (2014) đã sử sụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến dựa vào phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để ước lượng các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của 58 doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE và HNX trong giai đoạn 2010- 2012 thông qua hai chỉ tiêu về khả năng sinh lời là ROE và ROA. Kết quả mô hình chỉ ra rằng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp BĐS chịu ảnh hưởng bởi: tỷ lệ đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tài sản cố định trên tổng tài sản, tỷ lệ cổ phiếu quỹ trên tổng vốn cổ phần, tỷ lệ chi phí bán hàng và chi phí quản lý trên tổng chi phí doanh nghiệp và thời gian hoạt động của doanh nghiệp. Bài viết này, với phạm vi nghiên cứu rộng hơn đối với các doanh nghiệp BĐS trong khoảng thời gian từ năm 2010 tới 2019, sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau phù hợp với mẫu dữ liệu bảng như mô hình tác động cố định (fix effect) và mô hình tác động ngẫu nhiên (random effect), có thể mang lại những đánh giá tổng quan, đáng tin cậy hơn về những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp phù hợp, khả thi trong việc tăng cường khả năng sinh lời cho doanh nghiệp BĐS Việt Nam. 2.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu Với dữ liệu dạng bảng nghiên cứu trên nhiều đối tượng (doanh nghiệp) trong một khoảng thời gian nhất định, tương tự như Andersson & Minnema (2018), Elif (2016), Bolek & Wiliński (2012) và các nghiên cứu trước đó, bài viết này lựa chọn sử dụng mô hình ảnh hưởng/tác động cố định (Fixed Effect Model- FEM) và mô hình ảnh hưởng/tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model- REM) để xác định các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE trong giai đoạn 2010- 2019. Mô hình đề xuất biến phụ thuộc (theo ROA, hoặc ROE) với 6 biến độc lập và 2 biến kiểm soát được trình bày chi tiết dưới đây (Bảng 1). Mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) FEM phân tích mối tương quan này giữa phần dư của mỗi quan sát với các biến giải thích, qua đó kiểm soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt (không thay đổi theo thời gian) ra khỏi các biến giải thích để có thể ước lượng được những ảnh hưởng thực tế của biến giải thích lên biến phụ thuộc. Phương trình hồi quy của mô hình tác động Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định 18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 cố định, dựa trên nghiên cứu của Anderson & Minnema (2018), Tu & Nguyen (2014) và Shukeri và cộng sự (2012), được xây dựng như sau: ROA = β1*SIZE i,t + β2*DFLi,t + β3*PSi,t + β4*AGEi,t + β5*NNi,t + β6*GRi,t + β7*GGDPi,t + β8*GMSi,t + αi + ui,t ROE = β1*SIZE i,t + β2*DFLi,t + β3*PSi,t + β4*AGEi,t + β5*NNi,t + β6*GRi,t + β7*GGDPi,t + β8*GMSi,t + αi + ui,t Trong đó: β 1 β 9 : là hệ số của các biến độc lập tương ứng i: là doanh nghiệp thứ i u i,t : là nhiễu trắng (sai số) α i : là hệ số chặn theo đối tượng (doanh nghiệp) i Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM) Khi sử dụng mô hình FEM, nếu sự biến động của các quan sát riêng lẻ không tương quan đến biến giải thích thì tác giả sẽ sử dụng mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên REM. Không giống với mô hình tác động cố định (FEM), biến số giữa các chủ thể được giả định là ngẫu nhiên và không tương quan với dự đoán hoặc biến độc lập có trong mô hình. Phương trình hồi quy của mô hình tác động ngẫu nhiên, dựa trên nghiên cứu của Anderson &Minnema (2018), Tu & Nguyen (2014) và Shukeri và cộng sự (2012), được xây dựng như sau: ROA = β1*SIZE i,t + β2*DFLi,t + β3*PSi,t + β4*AGEi,t + β5*NNi,t + β6*GRi,t + β7*GGDPi,t + β8*GMSi,t + αi + Ɛi,t + ui,t ROE = β1*SIZE i,t + β2*DFLi,t + β3*PSi,t + β4*AGEi,t + β5*NNi,t + β6*GRi,t + β7*GGDPi,t + β8*GMSi,t + αi + Ɛi,t + ui,t Trong đó: β 1 β 9 : là hệ số của các biến độc lập tương ứng i: là doanh nghiệp thứ i u i,t : nhiễu trắng (sai số) α i : đại diện cho tất cả các yếu tố không quan sát được mà thay đổi giữa các đối tượng nhưng không thay đổi theo thời gian Ɛ i,t : đại diện cho tất cả các yếu tố không quan sát được thay đổi giữa các đối tượng thời gian. Cuối cùng, để lựa chọn mô hình phù hợp, giải thích tốt n ... ,000 SL 0,405*0,000 0,354* 0,000 0,079 0,196 0,028 0,645 0,126* 0,039 -0,024 0,691 1,000 NN 0,572*0,000 0,458* 0,000 0,143* 0,019 0,167* 0,006 0,321* 0,000 -0,178* 0,003 0,503* 0,000 1,000 GR -0,0300,622 -0,010 0,666 -0,053 0,389 0,046 0,453 -0,004 0,749 -0,004 0,751 0,037 0,0549 -0,022 0,722 1,000 GMS 0,0640,297 0,042 0,491 0,051 0,407 -0,017 0,776 -0,020 0,743 -0,039 0,527 -0,009 0,688 -0,006 0,719 0,034 0,691 1,000 GGDP 0,0610,315 -0,004 0,744 0,011 0,657 0,111 0,068 0,062 0,310 0,201* 0,001 0,082 0,179 0,041 0,507 0,033 0,589 0,528* 0,000 1,000 Chú thích: * Có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5% Nguồn: Tổng hợp từ kết quả ước lượng trên phần mềm Stata Bảng 4. Hệ số phóng đại VIF của các biến nghiên cứu Biến VIF 1/VIF GGDP NN GMS SL DFL SIZE AGE PS GR 1,56 0,6397 1,55 0,6452 1,46 0,6830 1,37 0,7292 1,26 0,7916 1,25 0,7989 1,24 0,8046 1,19 0,8370 1,01 0,9865 VIF trung bình 1,32 Nguồn: Tổng hợp từ kết quả ước lượng trên phần mềm Stata Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định 22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 H1: Lựa chọn mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) Kết quả kiểm định Hausman (Bảng 5) khuyến nghị sử dụng mô hình tác động cố định (FEM). Do vậy, các nội dung phân tích và các kết luận về mối quan hệ giữa các biến giải thích với khả năng sinh lời của doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE được dựa trên kết quả hồi quy của mô hình (4) trình bày trong Bảng 5. 3.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu Kết quả ước lượng của mô hình ROE theo mô hình (4) so với giả thuyết nghiên cứu ban đầu được trình bày trong Bảng 6. Đòn bẩy tài chính (DFL): Kết quả nghiên cứu cho thấy, dấu của kết quả hồi quy của tham số biến DFL ngược với dự kiến, hàm ý rằng “Đòn bẩy tài chính” có tác động thuận chiều đến khả năng sinh lời (tỉ số ROE) của 27 doanh nghiệp ngành BĐS. Kết quả nghiên cứu này cũng được tìm thấy tương đồng với nghiên cứu của Andersson & Minnema (2018), Liargovas & Skandalis Bảng 5. Kết quả hồi quy ROA và ROE theo mô hình FEM và REM Biến độc lập Biến phụ thuộc: ROA Biến phụ thuộc: ROE FEM REM FEM REM (1) (2) (3) (4) DFL -0,0072(0,218) 0,0245*** (0,000) 0,0988* (0,051) 0,1784*** (0,000) SIZE 0,0147(0,456) 0,1589*** (0,004) 0,0721 (0,671) 0,3009*** (0,005) PS -2,76E-16(0,849) -8,22E-16 (0,633) -6,43E-14*** (0,000) -5,6E-14*** (0,000) AGE -0,0009(0,756) 0,0039*** (0,000) 0,0289 (0,285) 0,0234*** (0,000) SL 0,0051(0,409) 0,1633*** (0,006) 0,0923* (0,087) 0,1217*** (0,000) NN 0,0265**(0,039) 0,0941*** (0,000) 0,4273*** (0,000) 0,6144*** (0,000) GR -5,31E-06(0,810) -1,93E-06 (0,941) 0,00004 (0,794) 0,00004 (0,826) GMS 0,1755(0,289) 0,3331** (0,037) 2,1424 (0,134) 2,1576* (0,075) GGDP 0,7852(0,594) -1,8659 (0,119) 17,9888 (0,158) 20,4629** (0,022) Hằng số -0,1785(0,456) -0,6829 (0,001) -1,1639 (0,574) -4,2128 (0,002) Hệ số R2 0,0688 0,5651 0,3727 0,4559 Số quan sát 270 270 270 270 Kiểm định Hausman giữa mô hình (3) và (4): Giá trị xác xuất của giá trị thống kê theo kiểm định Khi bình phương (Prob>chi2)= 0,1594 Ghi chú: Giá trị trong ngoặc đơn là giá trị xác suất (p_value) của các giá trị thống kê t tương ứng. *, **, *** Có ý nghĩa tại mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% Nguồn: Tổng hợp từ kết quả ước lượng trên phần mềm Stata NGÔ THỊ HẰNG - NGUYỄN THỊ THUỲ LINH 23Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng (2008), và Ghosh & các cộng sự (2000). Đối với các doanh nghiệp ngành BĐS thì mối quan hệ này cũng tương đối hợp lý vì hoạt động của doanh nghiệp BĐS có đặc thù thường phụ thuộc nhiều vào các khoản vay nợ, đặc biệt là tín dụng dài hạn, dẫn tới tỉ lệ đòn bẩy tài chính cao. Với quy mô tài trợ vốn cho các hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, đầu tư, kinh doanh BĐS tương đối lớn, nên việc tận dụng nguồn vốn vay nợ có thể giúp các doanh nghiệp BĐS chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh và khuếch đại lợi nhuận. Mối quan hệ được tìm thấy thông qua kết quả hồi quy cũng cho thấy, rõ ràng, doanh nghiệp BĐS có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn thì có khả năng sinh lời tốt hơn so với các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính thấp. Quy mô doanh nghiệp (SIZE) có tác động tích cực đến khả năng sinh lời ROE của các CTCP ngành BĐS trong phạm vi nghiên cứu, và tác động này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết cũng như mối quan hệ kỳ vọng ban đầu. Kết quả này cũng đồng nhất với nghiên cứu của Sivathaasan & các cộng sự (2013) và Bolek & Wiliński (2012). Như vậy, quy mô doanh nghiệp càng lớn thì khả năng sinh lời của doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE càng cao. Đối với ngành BĐS có đặc thù là tổng tài sản tương đối lớn, đặc biệt là tài sản ngắn hạn (chi phí trả trước, khoản phải thu), vì vậy khi tổng tài sản tăng chứng tỏ doanh nghiệp thu hút được nhiều nhà đầu tư, bán được nhiều dự án hơn, đồng nghĩa với việc quy mô doanh nghiệp được mở rộng. Ngoài ra khi bán được hàng và thu được tiền, doanh nghiệp có thể thanh toán kịp thời các khoản nợ vay hoặc có dòng tiền để thực hiện các dự án khác kịp thời, chính vì thế kéo theo lợi nhuận ròng tăng nên khả năng sinh lời cũng có xu hướng tăng. Cấu trúc tài sản (PS) có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lời (ROE) của 27 CTCP ngành BĐS niêm yết trên HOSE. Có thể thấy, trong giai đoạn 2010- 2014, ngành BĐS chịu nhiều tác động nền kinh tế suy thoái cũng như thị trường BĐS gần như đóng băng nên tình hình kinh doanh gặp nhiều khó khăn, việc sử dụng tài sản cố định vào hoạt động sản xuất kinh doanh chưa thực sự đạt hiệu quả tốt là một phần nguyên nhân dẫn đến lợi nhuận giảm mạnh và tác động xấu đến ROE. Kết luận này tương đồng với nghiên cứu của Gill & các cộng sự (2010). Thời gian hoạt động của doanh nghiệp (AGE) có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lời, cụ thể là AGE tác động trực tiếp lên khả năng sinh lời ROE. Kết quả của nhóm tác giả hoàn toàn đồng nhất với nghiên cứu của Liargovas & Skandalis (2008) khi cho rằng các công ty có thời gian hoạt động lâu dài sẽ có kinh nghiệm và mạng lưới kinh doanh cũng như khả năng đánh giá các cơ hội kinh doanh tốt hơn, do đó khả năng sinh lời sẽ cao hơn so với các doanh nghiệp mới hoạt động. Quy mô Hội đồng quản trị (SL) có tác động thuận chiều đến khả năng sinh lời ROE. Cụ thể doanh nghiệp có số lượng thành viên HĐQT nhiều hơn thì khả năng sinh lời cũng cao hơn, điều này phù hợp với nghiên cứu của Shukeri & cộng sự (2012). Ban quản trị có số lượng thành viên nhiều có thể có khả năng điều hành hoạt động cao hơn, mức độ am hiểu về doanh nghiệp cũng như các mối quan hệ xã hội cũng được mở rộng hơn. Sự đa dạng chủng tộc trong HĐQT (NN) có tác động thuận chiều khả năng sinh lời (ROE), kết quả này đúng như kỳ vọng ban đầu của tác giả cũng như tương tự kết quả Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp bất động sản Việt Nam: Ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và tác động cố định 24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 223- Tháng 12. 2020 nghiên cứu của Shukeri & cộng sự (2012), Hambrick & cộng sự (1984). Sự có mặt của thành viên là người nước ngoài trong HĐQT sẽ làm tăng mức độ đa đạng về văn hóa, kiến thức, kinh nghiệm, từ đó sẽ có nhiều sự lựa chọn chính xác và hợp lí hơn trong việc quản lý cũng như đầu tư của doanh nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng GDP (GGDP), tương tự như kết quả nghiên cứu của Bolek & Wiliński (2012), nghiên cứu cũng tìm thấy tác động thuận chiều từ biến động tốc độ tăng trưởng GDP tới khả năng sinh lời (ROE) của 27 doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE. Khi tốc độ tăng trưởng GDP cao chứng tỏ đời sống người dân được nâng cao, cải thiện cũng như các doanh nghiệp hay tổ chức kinh tế phát triển mạnh; do đó nhu cầu mua sắm hay xây dựng nhà cửa, các công trình BĐS được tăng lên, kéo theo đó các doanh nghiệp ngành BĐS cũng sẽ kinh doanh thuận lợi, phát triệu mạnh, khả năng sinh lời được tăng lên. 4. Kết luận và khuyến nghị Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lời không chỉ chịu tác động từ những nhân tố bên trong mà còn chịu tác động bởi các nhân tố vĩ mô bên ngoài doanh nghiệp. Cụ thể, ứng dụng mô hình tác động ngẫu nhiên và mô hình tác động cố định nghiên cứu định lượng 27 doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên HOSE giai đoạn 2010-2019, nghiên cứu tìm thấy: đòn bẩy tài chính, quy mô doanh nghiệp, thời gian hoạt động của doanh nghiệp, quy mô HĐQT, sự đa dạng chủng tộc trong HĐQT, và tốc độ tăng trưởng GDP có ảnh hưởng tích cực tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp (ROE), trong khi đó cấu trúc tài sản có ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp BĐS. Trên cơ sở xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp ngành BĐS ở Việt Nam, dựa vào tính chất đặc thù của ngành, bài viết đề xuất một số giải pháp cho doanh nghiệp và kiến nghị tới cơ quan quản lý nhằm nâng cao khả năng sinh lời của các doanh nghiệp ngành BĐS niêm yết trên HOSE. Cụ thể: Thứ nhất, các doanh nghiệp cần quan tâm mở rộng quy mô doanh nghiệp, mở rộng và phát triển thêm lĩnh vực hoạt động. Việc mở rộng quy mô làm cho doanh nghiệp tăng thị phần, có vị thế trên thị trường. Các công ty có thể tận dụng lợi thế quy mô để tiếp cận được nguồn vốn từ các nhà đầu tư, chi phí lãi vay sẽ thấp hơn. Đối với khách hàng, doanh nghiệp sẽ tạo dựng được niềm tin, duy trì và phát triển được số lượng khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, từ đó giúp nâng cao khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Thứ hai, doanh nghiệp cần có định hướng cơ cấu tài sản hợp lý, đặc biệt là vấn đề đầu tư, sử dụng tài sản cố định (TSCĐ), theo đó tăng hiệu quả quản lý, sử dụng và đầu tư mới TSCĐ, thanh lý các tài sản đã lạc hậu, lỗi thời, năng suất thấp Thứ ba, doanh nghiệp cần sử dụng đòn bẩy tài chính hợp lý để nâng cao khả năng sinh lời. Trong đó, doanh nghiệp cần đề ra chiến lược cụ thể về việc sử dụng đòn bẩy tài chính để năng cao khả năng sinh lời như sau: (i) Cần có chủ trương linh hoạt trong quá trình sử dụng nợ, hạn chế sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn khi chưa khai thác hết hiệu suất sử dụng; (ii) Cần linh hoạt trong việc sử dụng các nguồn tài trợ vốn, cụ thể trong giai đoạn lãi NGÔ THỊ HẰNG - NGUYỄN THỊ THUỲ LINH 25Số 223- Tháng 12. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng suất cho vay trên thị trường bất ổn, bên cạnh việc hạn chế đi vay nợ, doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức huy động vốn khác như phát hành thêm cổ phiếu cho nhân viên, các nhà đầu tư chiến lược. 5. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo Nghiên cứu này còn hạn chế về phạm vi nghiên cứu khi mới chỉ tập trung nghiên cứu vào các doanh nghiệp BĐS niêm yết trên HOSE. Việc mở rộng phạm vi nghiên cứu sang các doanh nghiệp BĐS niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội, sẽ góp phần đưa lại những nhận định thực nghiệm bao quát hơn và có nhiều ý nghĩa hơn trong việc xác định các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của phần lớn các doanh nghiệp BĐS tại Việt Nam. Thêm vào đó, các nghiên cứu tiếp theo cũng có thể cân nhắc mở rộng sử dụng các chỉ tiêu khác đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp BĐS, thay vì sử dụng chỉ tiêu khả năng sinh lời của các doanh nghiệp BĐS (ROA, ROE), như chỉ tiêu giá trị thị trường (Tobin’s Q), giá trị vốn hóa thị trường..., nhằm tìm kiếm những đánh giá đa dạng hơn về những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp BĐS trên thị trường Việt Nam ■ Tài liệu tham khảo Alshatti, A. S. (2015). “The Effect of the liquidity management on profitability in the Jordanian commercial banks”. International Journal of Business and Management, Vol. 10, No. 1. Andersson, A. & Minnema, J. (2018). “The relationship between leverage and profitability: a quantitative study of consulting firms in Sweden”. Umea University, International Business program, Degree Project. Bolek, M., & Wilinski, W. (2012). “The influence of liquidity on profitability of polish construction sector companies”. E-Finanse, Vol. 8, No. 1. Elif, A. S. (2016). “Does Firm Age Affect Profitability? Evidence from Turkey”. International Journal of Economic Sciences, Vol. 5, No. 3, pp. 1-9. Ghosh, C., Nag, R., & Sirmans, C. F. (2000). “The pricing of seasoned equity offerings: evidence from REITs”. Real Estate Economics, Vol. 28, No. 3, pp. 363 – 384 Gill, A., Biger, N., & Mathur, N. (2010). “The relationship between working capital management and profitability: Evidence from the United States”. Business and Economics Journal, Vol. 10, Issue. 1, pp. 1-9 Hambrick, D. C. and Mason, P. A. (1984). “Upper Echelons: The Organization as a Reflection of Its Top Managers”. Academy of Management Review, Vol. 9, No. 2, pp. 193-206. Hausman, J. (1978). “Specification Tests in Econometrics”. Econometrica, Vol. 46, Issue 6, pp.1251-71. Lazaridis, I., & Tryfonidis, D. (2006). “Relationship between working capital management and profitability of listed companies in the Athens stock exchange”. Journal of financial management and analysis, Vol. 19, Issue. 1. Liargovas, P & Skandalisk. (2008). “Factor affecting firms’ financial performance The Case of Greece”. University of Peloponnese Press. Owolabi, S. A., & Obida, S. S. (2012). “Liquidity management and corporate profitability: Case study of selected manufacturing companies listed on the Nigerian stock exchange”. Business Management Dynamics, Vol. 2, Issue. 2, pp.10-25. Quan Minh Nhựt & Lý Thị Thu Thảo. (2014). “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp BĐS đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ, Số 33, trang 65-67. Rehman, M. U. & Kidmat, W. B. (2014). “Impact of liquidity & solvency on profitability chemical sector of Pakítan”. Ekonomika Management Inovace (EMI), Vol. 6, Issue 3, pp.3-13. Shukeri S. N, O.W Shin, & M.S Shaari. (2012). “Does Board of Director’s Characteristics Affect Firm Performance? Evidence from Malaysian Public Listed Companies”. International Business Research, Vol. 5, No. 9. Sivathaasan, N., Tharanika, R., Sinthuja, M., & Hanitha, V. (2013). “Factors determining profitability: a study of selected manufacturing companies listed on Colombo Stock Exchange in Sri Lanka”. European Journal of Business and Management, Vol. 5, No. 27 Tổng cục Thống kê (2020). “Số liệu thống kê”. Truy cập ngày 18/4/2020 từ https://www.gso.gov.vn/SLTK/ Tu, T. T., & Nguyen, U. T. (2014). “Relationship between working capital management and profitability–empirical evidence from Vietnamese listed firms”. Conference paper at the International Conference on Finance and Eocnomics, held at Ton Duc Thang University, June 2nd – 4th, 2014.
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_toi_kha_nang_sinh_loi_cua_doanh_nghiep.pdf