Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

TÓM TẮT

Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của của các nông hộ trên địa bàn huyện

Ba Vì, TP. Hà Nội là rất cấp thiết bởi vì nó là cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho

nông hộ trên địa bàn nghiên cứu. Để đạt mục tiêu nghiên cứu, trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo

sát trực tiếp 60 hộ nông dân trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Kết quả phân tích mô hình hồi quy

tuyến tính đa biến đã chỉ ra được 3 nhân tố có ảnh hưởng một cách đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của nông hộ

trên địa bàn nghiên cứu, bao gồm: (1) Qui mô vốn vay, (2) Diện tích đất của nông hộ, (3) Áp dụng kỹ thuật vào

sản xuất. Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao thu nhập

hỗn hợp cho các nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, TP. Hà Nội, bao gồm: (1) Tạo vốn cho hộ nông dân; (2)

Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất; (3) Tăng cường công tác khuyến nông và tập huấn kỹ thuật cho

hộ nông dân.

Từ khóa: Hồi qui đa biến, nhân tố ảnh hưởng, nông hộ, thu nhập hỗn hợp

pdf 10 trang phuongnguyen 660
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội
Kinh tế & Chính sách 
 162 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ 
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 
Lê Đình Hải 
Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp 
TÓM TẮT 
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của của các nông hộ trên địa bàn huyện 
Ba Vì, TP. Hà Nội là rất cấp thiết bởi vì nó là cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho 
nông hộ trên địa bàn nghiên cứu. Để đạt mục tiêu nghiên cứu, trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo 
sát trực tiếp 60 hộ nông dân trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Kết quả phân tích mô hình hồi quy 
tuyến tính đa biến đã chỉ ra được 3 nhân tố có ảnh hưởng một cách đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của nông hộ 
trên địa bàn nghiên cứu, bao gồm: (1) Qui mô vốn vay, (2) Diện tích đất của nông hộ, (3) Áp dụng kỹ thuật vào 
sản xuất. Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao thu nhập 
hỗn hợp cho các nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, TP. Hà Nội, bao gồm: (1) Tạo vốn cho hộ nông dân; (2) 
Giải quyết và điều chỉnh quan hệ ruộng đất; (3) Tăng cường công tác khuyến nông và tập huấn kỹ thuật cho 
hộ nông dân. 
Từ khóa: Hồi qui đa biến, nhân tố ảnh hưởng, nông hộ, thu nhập hỗn hợp. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Kinh tế nông nghiệp hiện đang đóng vai trò 
vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 
Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, nông 
dân chiếm gần 75% dân số và gần 61% lao 
động xã hội, hàng năm ngành nông nghiệp 
đóng góp gần 20% GDP cho nền kinh tế quốc 
dân và trên 25% giá trị kim ngạch xuất khẩu. 
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội nói 
chung, kinh tế nông hộ cũng không ngừng phát 
triển cả về quy mô và hình thức. Có không ít 
những nhóm nông dân đã làm giàu lên từ 
chính mảnh đất của mình, họ sử dụng có hiệu 
quả đất đai, lao động, tiền vốn và đã vươn lên 
làm giàu. 
Ngày nay nhiều hộ nông dân đã chuyển đổi 
nền kinh tế từ quy mô nhỏ thành quy mô lớn, 
sản xuất tự túc tự cấp sang nền kinh tế hàng 
hóa, có thể trao đổi hàng hóa trên thị trường. 
Mặc dù vậy, trong sản xuất nông nghiệp, 
kinh tế nông hộ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: 
phần lớn các nông hộ còn sản xuất nhỏ lẻ, tự 
cấp, tự túc và kém hiệu quả, đời sống nông dân 
gặp rất nhiều khó khăn Vì thế nông hộ và 
cộng đồng nông thôn đang rất cần sự hỗ trợ kịp 
thời của chính phủ cũng như các nhà khoa học 
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thích hợp 
nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống 
cho bộ phận dân cư nông thôn. 
Huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội là cửa ngõ 
của Thủ đô Hà Nội, cách Hà Nội 40 km, ngành 
nghề chính vẫn là nông nghiệp, trình độ sản 
xuất còn thấp, việc phát triển kinh tế nông 
nghiệp nông thôn vẫn gặp rất nhiều khó khăn, 
việc khai thác và sử dụng nguồn lực của hộ 
nông dân vào sản xuất vẫn chưa tốt. Trong 
những năm qua, cùng với sự phát triển chung 
của cả nước, do quá trình đô thị hoá và công 
nghiệp hoá làm cho diện tích đất nông nghiệp 
ngày càng bị thu hẹp, nông hộ bị mất tư liệu 
sản xuất, tình trạng lao động nông nghiệp dư 
thừa và thất nghiệp trong nông thôn ngày càng 
gia tăng, nông hộ đang trăn trở tìm kiếm sinh 
kế mới, ảnh hưởng trực tiếp tới định hướng 
phát triển và thu nhập của nông hộ. 
Vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân, tăng 
thu nhập cho nông hộ trong tiến trình hội nhập 
kinh tế quốc tế đang được các cấp ủy Đảng, 
chính quyền đoàn thể, các ngành và các nhà 
khoa học quan tâm. Những vấn đề cần làm rõ 
là thực trạng thu nhập của nông hộ trên địa bàn 
huyện Ba Vì ra sao? Những nhân tố nào ảnh 
Kinh tế & Chính sách 
 163TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
hưởng đến thu nhập của nông hộ? Và những 
giải pháp nào là giải pháp quan trọng nhất góp 
phần nâng cao thu nhập cho nông hộ trên địa 
bàn nghiên cứu? Vì vậy,việc nghiên cứu các 
nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ 
mang tính cấp thiết rất cao. 
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Nội dung nghiên cứu 
Bài viết đánh giá được thực trạng thu nhập 
hỗn hợp của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, 
TP. Hà Nội; Đồng thời xác định các nhân tố 
ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của 
các nông hộ; Trên cơ sở đó đề xuất một số giải 
pháp góp phần nâng cao thu nhập hỗn hợp của 
nông hộ trên địa bàn nghiên cứu. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Thu nhập của nông hộ và các nhân tố 
ảnh hưởng 
a. Thu nhập của nông hộ 
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam 
đã sử dụng chỉ tiêu thu nhập hỗn hợp để đánh 
giá thu nhập của nông hộ. Theo đó, thu nhập 
hỗn hợp của nông hộ là phần thu được sau khi 
lấy tổng thu trừ đi chi phí vật chất, trừ đi tiền 
công thuê ngoài và trừ chi phí khác (bao gồm 
thuế, khấu hao tài sản cố định...). Vận dụng các 
quan điểm này, thu nhập của nông hộ ở địa bàn 
nghiên cứu được xác định là phần thu còn lại 
của tổng thu sau khi trừ đi chi phí vật chất và 
dịch vụ, khấu hao và thuế để có được khoản 
thu đó trong một thời gian nhất định (thường là 
một năm), bao gồm: 
- Thu từ tiền công, tiền lương; 
- Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy 
sản (đã trừ chi phí sản xuất và thuế sản xuất); 
- Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm 
nghiệp, thủy sản (đã trừ chi phí sản xuất vàthuế 
sản xuất); 
- Thu khác được tính vào thu nhập (không 
tính tiền rút tiết kiệm, bán tài sản, vay thuần 
túy, thu nợ, và các khoản chuyển nhượng vốn 
nhận được). 
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của 
nông hộ 
Theo các nghiên cứu của Abdulai & 
CroleRees (2001), Demurger và cộng sự, 
(2010), Janvry & Sadoulet (2001), Klasen và 
cộng sự (2013), Yang (2004), Yu & Zhu 
(2013), thu nhập của nông hộ chịu ảnh hưởng 
của nhiều yếu tố, bao gồm vốn, đất đai, trình 
độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất, số lao động, 
khả năng đa dạng hóa thu nhập, cơ hội tiếp cận 
thị trường. 
Các nghiên cứu ở trong nước cũng cho kết 
quả tương tự. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn 
Lan Duyên (2014) cho thấy các yếu tố như 
trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian cư trú 
tại địa phương, khoảng cách từ nơi ở đến trung 
tâm, lượng vốn vay, lãi suất và số lao động có 
ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An 
Giang; Kết quả nghiên cứu của Chu Thị Kim 
Loan & Nguyễn Văn Hướng (2015) cũng chỉ 
ra rằng các nguồn lực của nông hộ như qui mô 
đất sản xuất, số lượng và trình độ học vấn của 
lao động, giá trị phương tiện sản xuất tỷ lệ 
thuận với thu nhập của hộ, trong đó qui mô đất 
sản xuất có ảnh hưởng lớn nhất. Ngoài ra, khả 
năng tiếp cận nguồn vốn vay, giới tính của chủ 
hộ và vị trí địa lý cũng có tác động tới thu nhập 
của nông hộ ở tỉnh Thanh Hóa. 
Như vậy, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn 
của các công trình nghiên cứu trước đây và 
điều kiện đặc thù của huyện Ba Vì, TP. Hà Nội 
có thể nhận diện các nhân tố tiềm năng ảnh 
hưởng đến thu nhập của nông hộ trên địa bàn 
nghiên cứu bao gồm 8 nhân tố tiềm năng (bảng 
1). Mô hình hồi quy cho các biến được xác 
định như sau: 
Kinh tế & Chính sách 
 164 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
THUNHAP = β0 + β1TUOI+ β2GIOITINH+ β3HOCVAN + β4NGHECHUHO + β5DTDAT+ β6VAYVON + 
β7THITRUONG + β8KYTHUAT (1) 
Bảng 1. Diễn giải các biến trong mô hình hồi qui tuyến tính đa biến 
Ký hiệu Nội dung Đơn vị tính 
Kỳ vọng 
dấu 
TUOI Tuổi của chủ hộ Năm + 
GIOITINH Giới tính của chủ hộ 
Nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là Nam, 
nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là Nữ 
+ 
HOCVAN Số năm đi học cao nhất của chủ hộ 
Nhận giá trị 1,2,3 trình độ học 
vấn của chủ hộ lần lượt là tiểu 
học, trung học cơ sở và trung học 
phổ thông 
+ 
NGHECHUHO Nghề của chủ hộ 
Nhận giá trị 0 là nông nghiệp; 
nhận giá trị 1 là nông nghiệp kết 
hợp với nghề 
+ 
DTDAT Diện tích đất của hộ Ha + 
VAYVON Qui mô vay vốn của hộ 
Nhận giá trị 1 nếu được vay dưới 
50 triêu; nhận giá trị 2 nếu vay từ 
50 đến 100 triệu;nhận giá trị 3 
nếu vay trên 100 triệu 
+ 
THITRUONG 
Khoảng cách đến thị trường tiêu thụ 
sản phẩm 
km - 
KYTHUAT Áp dụng kỹ thuật vào sản xuất 
Nhận giá trị 0 nếu chủ hộ là 
không áp dụng kỹ thuật vào sản 
xuất và nhận giá trị 1 nếu chủ hộ 
là có áp dụng 
+ 
THUNHAP 
Biến phụ thuộc thể hiện thu nhập 
hỗn hợp của nông hộ 
Triệu đồng/năm/hộ 
2.2.1. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu 
Ba Vì là một huyện thuộc vùng bán sơn địa, 
nằm ở phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội. Diện 
tích tự nhiên 428 km². Dân số 269.299 người. 
Huyện Ba Vì có 1 thị trấn là Tây Đằng và 30 
xã. Địa hình của huyện có thể phân thành 03 
tiểu vùng khác nhau là vùng núi, vùng đồi gò 
và vùng Đồng bằng sông Hồng. Do không có 
đủ điều kiện để khảo sát tất cả các nông hộ 
trong huyện, nên chúng tôi áp dụng phương 
pháp điều tra chọn mẫu để khảo sát 60 nông hộ 
điển hình cho các vùng của huyện. Để nghiên 
cứu chúng tôi chọn 3 xã đó là: xã Vật Lại, thị 
trấn Tây Đằng, xã Thái Hòa, mỗi xã 20 nông 
hộ, với các lý do sau: 
- Xã Vật Lại là đại diện cho khu vực thuần 
nông với hầu hết đồng ruộng là trũng và vùng 
đồi gò. 
- Thị trấn Tây Đằng là nơi đại diện cho khu 
vực khá phát triển của huyện với hầu hết là 
vùng đồng bằng, với nhiều ngành nghề, dịch vụ. 
- Xã Thái Hòa là xã đại diện cho khu vực 
sản xuất cây vụ đông hàng hoá phát triển của 
huyện đồng thời đây cũng là xã có diện tích 
dồn điền đổi thửa nhiều nhất, cùng với nhiều 
ngành nghề buôn bán dịch vụ phát triển. 
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 
- Thông tin thứ cấp trong nghiên cứu này 
bao gồm các sách giáo trình, các luận văn thạc 
sỹ, luận án tiến sĩ, các công trình nghiên cứu 
khoa học, sách, báo, tạp chí, niên giám thống 
kê của các xã trên địa bàn huyện Ba Vì, các 
Kinh tế & Chính sách 
 165TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
văn bản về Nghị quyết của Đảng, của các 
phòng, ban, ngành của huyện Ba Vì. Các tài 
liệu này được thu thập, thống kê lại, tổng hợp 
và trích dẫn như trích dẫn tài liệu tham khảo. 
- Thông tin sơ cấp: Phương pháp điều tra 
khảo sát kinh tế hộ gia đình: Quá trình điều tra 
khảo sát được tiến hành theo bảng hỏi được 
thiết kế sẵn. Chọn hộ từ các xã đại diện: Kết 
hợp với các cán bộ của thôn, xã, chúng tôi điều 
tra 60 nông hộ. Phương pháp chọn mẫu điều 
tra được chọn theo phương pháp chọn mẫu 
ngẫu nhiên phân tầng theo các tiêu chí: Phân 
loại theo vùng (thị trấn Tây Đằng, xã Thái 
Hòa, xã Vật Lại), phân loại theo thu nhập (khá, 
trung bình, nghèo) và phân loại theo ngành 
nghề (nông nghiệp, nông nghiệp kiêm nghề 
tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp kiêm 
nghề buôn bán dịch vụ). 
2.2.3. Phương pháp xử lý, phân tích 
Nghiên cứu sử dụng phần mềm phân tích 
thống kê SPSS 23 cho việc phân tích thống kê 
mô tả, thống kê so sánh và cho việc xác định 
các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến thu nhập 
hỗn hợp của nông hộ thông qua mô hình hồi 
qui tuyến tính đa biến. Kết quả của phân tích 
thống kê so sánh và của mô hình hồi qui tuyến 
tính đa biến là cơ sở để đề xuất một số giải 
pháp nhằm nâng cao thu nhập hỗn hợp cho 
nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, TP Hà Nội. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN 
3.1. Đặc điểm của các nông hộ điều tra 
3.1.1. Lao động 
Bình quân mỗi hộ có 2,98 lao động chính, 
nhưng có sự chênh lệch đáng kể giữa nhóm hộ 
nghèo so với các nhóm hộ trung bình và khá 
(bảng 2). Trong đó, nhóm hộ nghèo có số lao 
động chính thấp nhất (2,10 lao động/hộ) và cao 
nhất là nhóm hộ khá (3,73 lao động/hộ). Hộ 
khá có nhân khẩu và lao động hợp lý, theo đó 
số nhân khẩu ăn theo trong hộ là thấp, tạo điều 
kiện thuận lợi trong việc bố trí công ăn việc 
làm cũng như giảm bớt gánh nặng chi tiêu và 
tăng khả năng tích luỹ (bảng 2). Đa số chủ hộ 
là nam giới (chiếm trên 75% tổng số chủ hộ) 
và có trình độ học vấn không cao (trên 90% 
tổng số chủ hộ điều tra có trình độ học vấn ở 
mức tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở). 
Đặc biệt, trong 60 nông hộ điều tra không có 
chủ hộ có trình độ từ trung cấp trở lên. Điều 
này cho thấy nguồn lực lao động của nông hộ 
còn hạn chế, nhất là trình độ của lao động. 
Nghề của chủ hộ chủ yếu là nông nghiệp 
chiếm 88,3%, còn lại 11,7% là hộ nông nghiệp 
kiêm nghề. 
Bảng 2. Đặc điểm của nông hộ khảo sát theo các biến phân loại theo các biến số liên tục 
TT Chi tiêu 
Hộ 
nghèo 
Hộ TB Hộ khá 
Bình 
quân 
chung 
Kiểm định 
F (Mức ý 
nghĩa 
thống kê) 
1 Tuổi bình quân của chủ hộ 38,35b 44,28ab 46,50a 43,12 3,31** 
3 Số nhân khẩu bình quân hộ 4,35b 5,11ab 5,50a 5,00 3,75** 
4 Số người lao động chính bình quân 2,10b 3,06a 3,73a 2,98 9,56*** 
5 Số nhân khẩu/lao động chính 2,07a 1,67ab 1,47b 1,68 5,78*** 
6 Diện tích đất bình quân hộ (ha/hộ) 0,2226b 0,2229ab 0,2595a 0,2362 2,65* 
7 
Thu nhập hỗn hợp bình quân hộ 
(triệu VND/hộ) 
29,20c 49,50b 77,56a 53,02 50,84*** 
Ghi chú: 
- Chữ thường ở cột phân loại hộ thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về về các chỉ tiêu so sánh kiểm 
định 
- *** Mức ý nghĩa <0,01; ** Mức ý nghĩa <0,05; * Mức ý nghĩa <0,1 
(Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra) 
Kinh tế & Chính sách 
 166 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
3.1.2. Đất đai 
Bảng 2 cho thấy diện tích đất sử dụng bình 
quân của các nhóm hộ điều tra là 2.362 m2/hộ. 
Qui mô diện tích này được đánh giá ởmức 
tương đương so với mức bình quân chung của 
cả nước ở năm 2009 là 1560,4 m2 (Xuân Thân, 
2013). Qui mô diện tích đất có sự khác biệt lớn 
giữa nhóm hộ khá có tổng diện tích đất bình 
quân hộ lớn nhất (2.595 m2/hộ) so với nhóm hộ 
nghèo qui mô nhỏ nhất (chỉ có 2.226 m2/hộ). 
3.1.3. Vốn 
Quy mô vốn là điều kiện tiên quyết để nông 
hộ mở rộng quy mô sản xuất, khai thác tốt các 
nguồn lực như lao động và đất đai. Thông 
thường, nông hộ có lượng vốn thấp. Tuy nhiên, 
những hộ biết tận dụng các nguồn vốn bên 
ngoài sẽ nâng cao được mức vốn và có nhiều 
cơ hội phát triển sản xuất hơn. Số liệu ở bảng 3 
cho thấy 100% hộ thuộc nhóm hộ nghèo vay ở 
mức thấp dưới 50 triệu VND; trong đó nhóm 
hộ khá có tỷ lệ các hộ vay ở mức cao trên 100 
triệu đạt 72,7%. Điều đó cho thấy nhóm hộ khá 
đã chú trọng đến vay vốn đầu tư mở rộng qui 
mô sản xuất kinh doanh. 
3.1.4. Áp dụng kỹ thuật vào sản xuất 
Công nghệ kỹ thuật là nhân tố quan trọng 
góp phần nâng cao năng suất lao động và chất 
lượng sản phẩm. Kết quả khảo sát ở bảng 3 cho 
thấy tỷ lệ số hộ khá và trung bình đã áp dụng 
kỹ thuật vào sản xuất đó là lý do tại sao thu 
nhập của các nhóm hộ có sự khác nhau một 
cách đáng kể. 
3.1.5. Khoảng cách đến thị trường tiêu thụ 
Kết quả của bảng 3 cho thấy khoảng cách 
đến thị trường tiêu thụ của nhóm hộ khá chủ 
yếu là cự ly so với thị trường tiêu thụ dưới 2 
km trong khi đó nhóm hộ nghèo có tỷ lệ 80% 
số hộ có cự ly so với thị trường tiêu thụ trên 4 
km. Gần thị trường tiêu thụ mang lại nhiều 
thuận cho nhóm hộ khá về tiêu thụ sản phẩm, 
tiết kiệm chi phí vận chuyển... 
Bảng 3. Đặc điểm của nông hộ khảo sát theo các biến phân loại 
STT Chỉ tiêu 
Hộ nghèo 
Hộ 
trung bình 
Hộ khá Tổng cộng 
SL % SL % SL % SL % 
I Giới tính của chủ hộ 
1 Nam 15 75,0 14 77,8 17 77,3 46 76,7 
2 Nữ 5 25,0 4 22,2 5 22,7 14 23,3 
II Trình độ học vấn của chủ hộ 
1 Tiểu học 15 75,0 6 33,3 2 9, ... ều tra 
Tổng thu nhập hỗn hợp bình quân của các 
nhóm hộ là 53,02 triệu đồng/hộ/năm, trong đó 
thu nhập cao nhất là 77,56 triệu đồng thuộc 
nhóm hộ khá, thu nhập thấp nhất thuộc nhóm 
hộ nghèo là 29,20 triệu/hộ/năm. Thu nhập hỗn 
hợp bình hộ giữa 3 nhóm hộ có sự khác biệt 
một cách đáng kể với mức ý nghĩa thống kê 
1% (bảng 2). Nếu tính bình quân nhân khẩu, 
thu nhập theo tháng ở mức 10,6 triệu 
đồng/khẩu/năm hay 0,88 triệu/khẩu/tháng. So 
sánh với số liệu điều tra của Tổng cục Thống 
kê năm 2012, mức thu nhập của nông hộ ở địa 
bàn nghiên cứu thấp hơn mức bình quân chung 
của cả nước (1,579 triệu đồng/khẩu/tháng). 
3.3. Kết quả phân tích mô hình hồi qui 
đa biến 
Nghiên cứu đã khảo sát bằng bảng hỏi với 
dung lượng mẫu (n = 60). Nghiên cứu đã sử 
dụng phần mềm SPSS 23 cho phân tích mô 
hình hồi qui tuyến tính đa biến để xác định 
các nhân tố chính ảnh hưởng đến thu nhập 
hỗn hợp của nông hộ trên địa bàn huyện Ba 
Vì, TP. Hà Nội. 
Kết quả chạy tương quan hồi qui giữa các 
biến độc lập với biến phụ thuộc trong mô hình 
hồi qui cho thấy các biến trừ biến TUOI, 
GIOITINH có tương quan với |r| > = 0,3. Các 
biến này được sử dụng để đưa vào mô hình hồi 
qui. Kết quả mô hình hồi qui được trình bày 
qua bảng 4. 
Trong bảng 4, với mức ý nghĩa Sig. của 
kiểm định F < 0,01, có thể kết luận rằng mô 
hình hồi qui luôn luôn tồn tại với mức độ tin 
cậy 99%. 
Bảng 4. Tóm tắt mô hình hồi quy (Model Summary) 
Biến độc lập 
Hệ số hồi 
quy chưa 
chuẩn 
hóa (B) 
Giá trị t 
Mức ý 
nghĩa 
thống 
kê 
(Sig.) 
VIF 
Hệ số 
hồi quy 
chuẩn 
hóa 
(Beta) 
Giá trị 
tuyệt 
đối của 
Beta 
Mức độ 
đóng 
góp của 
các biến 
(%) 
Tầm 
quan 
trọng 
của 
các 
biến 
(Constant) -7,834 -,697 ,489 
HOCVAN 7,536 1,786NS ,080 2,050 ,182 ,182 12,84 4 
NGHECHUHO -13,055 -1,740NS ,088 1,774 -,165 ,165 11,64 5 
DTDAT ,015 4,227** ,000 1,339 ,348 ,348 24,56 2 
VAYVON 12,361 4,220** ,000 1,939 ,418 ,418 29,50 1 
THITRUONG -2,879 -,911NS ,366 1,981 -,091 ,091 6,42 6 
KYTHUAT 11,356 2,233* ,030 1,800 ,213 ,213 15,03 3 
Tổng 1,417 100,0 
Biến số phụ thuộc: THUNHAP (triệu đồng/năm) 
Dung lượng mẫu quan sát 60 
F 24,072*** 
Hệ số R2 0,732 
Hệ số R2 hiệu chỉnh 0,701 
Durbin Watson 2,322 
Chi chú: ** Mức ý nghĩa <0,01; * Mức ý nghĩa <0,05; NS: Không có ý nghĩa thống kê (Kiểm định 2 phía) 
Kinh tế & Chính sách 
 168 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Dựa trên kết quả phân tích từ bảng 4 ta thấy 
hệ số R2 hiệu chỉnh đạt giá trị 0,701; điều này 
có nghĩa là 70,1% sự thay đổi về thu nhập hỗn 
hợp của nông hộ trên địa bàn nghiên cứu được 
giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình, 
còn lại 29,9% được giải thích bởi các nhân tố 
khác mà chưa có điều kiện đưa vào mô hình. 
Như vậy có thể kết luận rằng mô hình đưa ra là 
phù hợp với dữ liệu thực tế. 
Kết quả ở bảng 4 cho thấy hệ số phóng đại 
phương sai (VIF) đều nhỏ hơn 10, như vậy mô 
hình hồi qui không có hiện tượng đa cộng tuyến. 
Hệ số Durbin-Watson (1 < d = 2,322 < 3), như 
vậy mô hình hồi qui không có hiện tượng tự 
tương quan. Kết quả từ hình 1 cho thấy mô 
hình hồi quy không có hiện tượng phương sai 
của sai số thay đổi vì phân bố của phần dư 
thuộc phân phối chuẩn. 
Hình 1. Kết quả kiểm định hiện tượng phương sai của sai số thay đổi 
Cột mức ý nghĩa thống kê (cột Sig.) ở bảng 
4 cho thấy tất cả các biến trừ biến VAYVON, 
DTDAT, KYTHUAT đều có mức ý nghĩa 
thống kê <0,05. Như vậy, các nhân tố bao 
gồm: quy mô vốn vay, diện tích của nông hộ, 
và áp dụng kỹ thuật vào sản xuất có ảnh hưởng 
đáng kể đến thu nhập hỗn hợp của nông hộ 
trên địa bàn nghiên cứu với độ tin cậy 95%. 
Kết quả cũng cho thấy 3 nhân tố có ý nghĩa 
thống kê VAYVON, DTDAT, KYTHUAT đều 
có mối quan hệ cùng chiều với THUNHAP và 
đúng như kỳ vọng dấu đặt ra ban đầu. Dựa vào 
hệ số hồi qui đã được chuẩn hóa (bảng 4) ta 
thấy thứ tự tầm quan trong của các biến như 
sau: (1) quy mô vốn vay, (2) diện tích của 
nông hộ, và (3) áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. 
3.4. Một số giải pháp góp phần nâng cao thu 
nhập cho nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, 
TP. Hà Nội 
3.4.1. Tạo vốn cho hộ nông dân 
Vốn cho sản xuất là vấn đề được tất cả các 
ngành kinh tế quan tâm, nó là nhân tố quan 
trọng quyết định phương hướng và quy mô sản 
xuất của tất cả các ngành. Qua điều tra thực tế 
ta thấy, hầu hết các hộ sản xuất trong huyện 
đều thiếu vốn, mặc dù các hình thức cho nông 
hộ vay vốn ở địa phương khá phong phú. 
Các mô hình cho kinh tế nông hộ tự do vay 
vốn phát triển sản xuất của Ngân hàng, mô 
hình tín dụng ưu đãi người nghèo, tín dụng 
thông qua hội Phụ nữ... ở Ba Vì đã hình thành. 
Tuy nhiên, không phải ai có nhu cầu vay vốn 
của Ngân hàng cũng được vay, bởi Nhà nước 
vẫn còn có quy định rất khắt khe, đặc biệt đối 
với hộ nghèo vì họ không đủ tiêu chuẩn về 
nhiều mặt nên rất nhiều hộ nghèo trong huyện 
đã phải đi vay vốn ở bên ngoài với lãi suất rất 
cao. Điều này không những ảnh hưởng đến khả 
Kinh tế & Chính sách 
 169TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
năng sản xuất mà nhiều khi nó còn gây ra mất 
đoàn kết cộng đồng. 
Vì vậy, trong những năm tới, để đáp ứng 
nhu cầu về vốn cho bà con nông dân trong 
huyện phát triển sản xuất, chúng tôi mạnh dạn 
nêu ra một số biện pháp như sau: 
- Các tổ chức tín dụng cần tìm hiểu cho 
đúng đối tượng cần vay vốn, nghĩa là đối 
tượng cho vay vốn của Ngân hàng phải là 
những hộ thực sự cần vốn cho phát triển SX-
KD, sử dụng vốn đúng mục đích chứ không 
phải vay vốn để tiêu dùng, cần có biện pháp ưu 
đãi đối với những nông hộ nghèo. 
- Việc dùng tài sản thế chấp cũng như các 
vật dụng thế chấp của Ngân hàng hiện nay đã 
hạn chế rất nhiều nhu cầu vốn của hộ, do đó 
trong những năm tới, các tổ chức tín dụng nên 
có biện pháp thay đổi cho phù hợp. Hiện nay 
Nhà nước ta đã có quy định các tổ chức kinh tế 
có thể thế chấp bằng tính khả thi của dự án, 
cho nên, Ngân hàng huyện nên áp dụng hình 
thức này để khuyến khích sản xuất, đồng thời 
cũng nên mở rộng hình thức tín dụng dài và 
trung hạn vì đây là nguồn vốn rất quan trọng 
đối với các dự án sản xuất kinh doanh dài. 
- Nghiên cứu các biện pháp huy động nguồn 
vốn nhàn rỗi trong nông thôn để tăng cường 
vốn vay cho nông hộ cần vốn. Quy mô của 
ngân hàng nông nghiệp nông thôn cần mở rộng 
hơn, vì đây là loại hình Ngân hàng rất ưu ái 
của Nhà nước ta đối với nông nghiệp nông 
thôn. Đồng thời cũng cần có các chính sách 
mềm dẻo để ngân hàng cũng như các tổ chức 
tín dụng nông thôn hoạt động theo cơ chế thị 
trường, có như vậy mới tạo ra sự cạnh tranh 
lành mạnh và nguồn vốn sẽ được giải ngân 
nhiều hơn. 
- Các cấp lãnh đạo cơ sở và địa phương nên 
thành lập các mô hình hợp tác xã tín dụng ở 
ngay mọi địa phương để huy động cũng như hỗ 
trợ vốn kịp thời cho những người cần vốn, 
hoặc phát triển các mô hình hợp tác xã tự 
nguyện để có điểu kiện hỗ trợ nhau về vốn 
cũng như kỹ thuật. 
- Ngoài các tổ chức Ngân hàng, huyện cần 
phải xây dựng quỹ xoá đói giảm nghèo riêng 
để hỗ trợ nhiều mặt cho các nông hộ nghèo ở 
nông thôn. Hiện nay, số hộ nghèo vẫn còn 
tương đối nhiều ở nông thôn, đặc biệt là ở 
nông thôn vùng núi, vùng sâu. Vì vậy, việc xoá 
đói giảm nghèo là một vấn đề chiến lược ở 
nông thôn Ba Vì nói riêng và cả nước nói 
chung. 
- Biện pháp cuối cùng là thường xuyên tư 
vấn sản xuất cho tất cả các nông hộ để nâng 
cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Tăng cường 
khuyến nông cơ sở cũng như tích cực chuyển 
giao khoa học kỹ thuật để khơi thông suy nghĩ 
của người dân. 
3.4.2. Giải quyết và điều chỉnh quan hệ 
ruộng đất 
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của 
nông hộ, nó đóng vai trò quan trọng quyết định 
quá trình phát triển sản xuất của nông hộ. Vì 
vậy, muốn phát triển kinh tế nông hộ cùng với 
giải pháp về vốn chúng ta cần có biện pháp về 
ruộng đất. Cụ thể: 
- Phải đẩy nhanh quá trình "dồn điền đổi 
thửa" tiến tới ổn định ruộng đất. Do ruộng đất 
của huyện rất manh mún: Bình quân số thửa 
của các hộ điều tra là từ 8 - 10 thửa cho nên 
vấn đề dồn điền đổi thửa là rất cần thiết. Với 
những ô thửa lớn, người dân có thể dễ dàng 
đầu tư thâm canh cũng như áp dụng các tiến bộ 
kỹ thuật trên mảnh đất đó, nhưng hiện tại do tư 
tưởng (có tốt, có xấu, có đất lúa, có đất màu) 
trong nông dân cho nên ruộng đất của họ vẫn 
còn manh mún, nhiều thửa. Để làm được điểu 
này, các cấp lãnh đạo mà trực tiếp là lãnh đạo 
cấp xã cần nghiên cứu đưa ra những biện pháp 
hợp lý. 
Hình thức chuyển đổi này có thể áp dụng 
dần dần, ở từng địa phương, sau đó cấp giấy 
chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho 
người dân. Có như vậy thì người dân mới yên 
tâm sản xuất và mô hình kinh tế hàng hoá mới 
Kinh tế & Chính sách 
 170 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
hình thành và phát triển được. 
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ 
có khả năng tham gia đấu thầu như nhau, cả 
đất dự trữ và đất mặt nước đã và chưa sử dụng, 
để một mặt phát triển sản xuất, nâng cao thu 
nhập cho nông hộ, mặt khác đưa đất đai của 
huyện vào sử dụng đầy đủ, hợp lý. Tuy nhiên, 
hình thức đấu thầu cũng nên lâu dài và có thể 
tái thầu nếu như hết thời hạn nông hộ vẫn có 
nguyện vọng sử dụng. Làm được như vậy, các 
nông hộ mới thực sự yên tâm và mạnh dạn đầu 
tư cho sản xuất. 
3.4.3. Tăng cường công tác khuyến nông và 
tập huấn kỹ thuật cho hộ nông dân 
Khuyến nông là công việc dạy học, huấn 
luyện, bồi dưỡng, đào tạo cho nông dân biết 
cách sản xuất, cách tiến hành công việc và cả 
cách nghĩ trong việc lựa chọn mô hình sản 
xuất. Mặc dù trong những năm gần đây phòng 
Nông nghiệp huyện Ba Vì đã rất nỗ lực trong 
công tác khuyến nông, song do cán bộ khuyến 
nông cơ sở còn non kém nên tác dụng của công 
tác khuyến nông đối với người dân trong 
huyện chưa cao. Qua điều tra thực tế chúng tôi 
thấy, đa số các hộ nghèo và phần đông các hộ 
trung bình kiến thức về khoa học kỹ thuật sản 
xuất nông nghiệp, kinh nghiệm sản xuất, kỹ 
thuật thâm canh cây trồng cũng như vật nuôi 
còn thấp. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển sản 
xuất nông nghiệp hơn nữa, công tác khuyến 
nông đến từng nhóm hộ là rất cần thiết. Để đẩy 
mạnh công tác khuyến nông, huyện Ba Vì cần 
tiến hành các biện pháp như sau: 
- Kiện toàn và xây dựng hệ thống khuyến 
nông từ huyện cho đến xã và đến hộ nông dân. 
- Đối với nhóm hộ khá: Khuyến nông nên 
hướng họ phát triển sản xuất hàng hoá, sản 
xuất những ngành nghề, những cây, con đòi 
hỏi đầu tư lớn, kỹ thuật phức tạp, đặc biệt là 
sản xuất gắn liền với chế biến. Các cây, con 
mà nhóm hộ này nên phát triển theo hướng sản 
xuất hàng hoá là: lúa tẻ thơm, các cây vụ đông 
hàng hoá như khoai tây, dưa xuất khẩu... bò 
sữa, cá chim trắng. 
- Đối với những hộ trung bình: Đối với 
nhóm hộ này là khuyến nông nên xu hướng 
cho họ vào những giống, cây trồng, vật nuôi 
mới để phục vụ cho sản xuất hàng hóa chứ 
không phải tiêu dùng, tư vấn cho họ về các mô 
hình ngành nghề - dịch vụ, các công thức luân 
canh mới hướng họ vươn lên thành những hộ 
có tiềm lực. 
- Đối với hộ nghèo: Đây là đối tượng mà 
khuyến nông cần phải quan tâm và tạo điều 
kiện hơn cả. Do các hộ này hạn chế về rất 
nhiều mặt, cho nên khuyến nông đối với họ là: 
Phổ biến và tuyên truyền những giống cây, con 
có những đặc tính tốt, dễ thích nghi, yêu cầu 
đầu tư cũng như kỹ thuật không cao, để họ 
từng bước đi lên. 
IV. KẾT LUẬN 
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến 
thu nhập hỗn hợp của của các nông hộ trên địa 
bàn huyện Ba Vì, TP. Hà Nội là rất cấp thiết 
nhằm xác định được các nhân tố ảnh hưởng 
đáng kể và đề xuất các giải pháp góp phần 
nâng cao thu nhập cho nông hộ trên địa bàn 
nghiên cứu. Để đạt mục tiêu nghiên cứu trên, 
đề tài nghiên cứu đã khảo sát bằng bảng hỏi 
cho 60 nông hộ trên địa bàn nghiên cứu và đã 
sử dụng các mô hình hồi qui đa biến cho việc 
xác định được các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu 
thu nhập hỗn hợp của nông hộ, bao gồm: (1) 
Qui mô vốn vay, 2) Diện tích đất của nông hộ, 
(3) Áp dụng kỹ thuật vào sản xuất. Trên cơ sở 
các nhân tố ảnh hưởng, một số giải pháp cũng 
đã được đề xuất nhằm nâng cao thu nhập của 
nông hộ trên địa bàn nghiên cứu theo thứ tự ưu 
tiên của các giải pháp dựa theo ảnh hưởng của 
các nhân tố. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Lan Duyên (2014). Các yếu tố ảnh hưởng 
đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Tạp chí Khoa 
học trường Đại học An Giang, (2), 63–69. 
2. Chu Thị Kim Loan, Nguyễn Văn Hướng (2015). 
Ảnh hưởng của nguồn lực đến thu nhập của nông hộ tỉnh 
Thanh Hóa: nghiên cứu điển hình ở huyện Thọ Xuân và 
Kinh tế & Chính sách 
 171TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2017 
Hà Trung. Tạp chí Khoa học và Phát triển, Học viện 
Nông nghiệp Việt Nam, 13(6): 1051-1060. 
3. Abdulai, A. & CroleRees, A. (2001). 
Determinants of Income Diversification amongst Rural 
Households in Southern Mali. Food Policy 26, 437–452. 
4. Demurger, S., Fournier, M. & Yang, W. (2010). 
Rural Households’ Decisions towards Income 
Diversification: Evidence from a Township in Northern 
China. China Economic Review 457, 1–13. 
5. Janvry, A.D. & Sadoulet, E. (2001). Income 
Strategies Among Rural Households in Mexico: The Role 
of Off-farm Activities. World Development 29(3), 467-480. 
6. Klasen, S., Priebe, J. & Rudolf, R. (2013). Cash 
Crop Choice and Income Dynamics in Rural Areas: 
Evidence for Post-crisis Indonesia. Agricultural 
Economics 44, 349–364. 
7. Yang, D. (2004). Education and Allocative 
Efficiency: Household Income Growth during Rural 
Reforms in China. Journal of Development Economics 
74, 137–162. 
8. Yu, J., & Zhu, G. (2013). How Uncertain Is 
Household Income in China. Economics Letters 120, 74–78. 
FACTORS INFLUENCING INCOME OF PEASANT HOUSEHOLDS 
IN BAVI DISTRICT, HANOI CITY 
Le Dinh Hai 
Vietnam National University of Forestry – Southern Campus 
SUMMARY 
The study of significant factors influencing mixed income of peasant households in Ba Vi district, Hanoi city is 
very urgent because it can be the basis to propose solutions to improve income for peasant households in the 
study area.In order to achieve study objectives, in this study, we conducted the surveys of 60 peasant 
households living in Ba Vi district, Hanoi city. Results of multiple regression model indicated that three factors 
including: (1) level of loans, (2) total land area, (3) technical application in production, significantly influenced 
mixed income of peasant households in the study area. The findings of this study, therefore, provide 
implications for solution development, with the aims of improving mixed income of peasant households in Ba 
Vi district, Hanoi city, including: (1) provide capital for peasant households, (2) solve and justify land relations, 
(3) strengthen agricultural extension activities and technical training for peasant households. 
Keywords: Influential factors, mixed income, multiple linear regression, peasant household. 
Ngày nhận bài : 07/7/2017 
Ngày phản biện : 13/7/2017 
Ngày quyết định đăng : 24/7/2017 

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_thu_nhap_cua_nong_ho_tren_dia_ban.pdf