Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ nông dân tỉnh Tiền Giang

TÓM TẮT

Tiền Giang là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý kinh tế -

chính trị khá thuận lợi nằm liền kề với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam

Bộ, là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam về sản xuất nông nghiệp mà kinh tế hộ gia

đình là một trong những tiềm năng kinh tế hàng đầu. Do đó, để thúc đẩy sản xuất

nông nghiệp thì nguồn vốn tín dụng là một nguồn lực rất quan trọng cho phép hộ

nông dân mở rộng hoạt động sản xuất hoặc áp dụng các công nghệ mới. Nghiên cứu

này thực hiện nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng

của 200 hộ nông dân tại Tiền Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 4 yếu tố tác

động đến khả năng tiếp cận tín dụng là: (1) Nhu cầu vay (X8), (2) Tài sản thế chấp

(X1), (3) Thu nhập tích lũy (X3) và (4) Trình độ học vấn của chủ hộ (X2), trong đó

yếu tố “Nhu cầu vay” có tác động lớn nhất, với phương pháp phân tích hồi quy

Binary logistic. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết cũng đưa ra một số khuyến nghị với

Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang và các tổ chức tín dụng trên địa bàn.

pdf 12 trang phuongnguyen 340
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ nông dân tỉnh Tiền Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ nông dân tỉnh Tiền Giang

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của hộ nông dân tỉnh Tiền Giang
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
43 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢƠNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN 
TÍN DỤNG CỦA HỘ NÔNG DÂN TỈNH TIỀN GIANG 
Lâm Thái Bảo Ngọc
1 
TÓM TẮT 
Tiền Giang là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý kinh tế - 
chính trị khá thuận lợi nằm liền kề với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam 
Bộ, là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam về sản xuất nông nghiệp mà kinh tế hộ gia 
đình là một trong những tiềm năng kinh tế hàng đầu. Do đó, để thúc đẩy sản xuất 
nông nghiệp thì nguồn vốn tín dụng là một nguồn lực rất quan trọng cho phép hộ 
nông dân mở rộng hoạt động sản xuất hoặc áp dụng các công nghệ mới. Nghiên cứu 
này thực hiện nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng 
của 200 hộ nông dân tại Tiền Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 4 yếu tố tác 
động đến khả năng tiếp cận tín dụng là: (1) Nhu cầu vay (X8), (2) Tài sản thế chấp 
(X1), (3) Thu nhập tích lũy (X3) và (4) Trình độ học vấn của chủ hộ (X2), trong đó 
yếu tố “Nhu cầu vay” có tác động lớn nhất, với phương pháp phân tích hồi quy 
Binary logistic. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết cũng đưa ra một số khuyến nghị với 
Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang và các tổ chức tín dụng trên địa bàn. 
Từ khóa: Tín dụng chính thức, khả năng tiếp cận tín dụng, Binary logistic, 
Tiền Giang 
1. Giới thiệu 
Đối với các hộ gia đình, vấn đề 
thiếu vốn là trở ngại chính đối với tăng 
trưởng kinh tế ở các khu vực nông 
thôn. Theo Tổng cục Thống kê Việt 
Nam [1], dân số khu vực thành thị ở 
Việt Nam năm 2019 là 33.059.735 
người, chiếm 34,4%; ở khu vực nông 
thôn là 63.149.249 người, chiếm 
65,6%. Tính đến ngày 31/12/2016, 
tổng diện tích đất nông nghiệp của cả 
nước là 27.284.906 ha, chiếm 82,37% 
tổng diện tích tự nhiên và chiếm 
87,99% tổng diện tích đất đã sử dụng. 
Với số diện tích đất đai chiếm tỷ trọng 
lớn có thể thấy khu vực nông nghiệp và 
nông thôn sở hữu một lượng lớn tư liệu 
lao động, tuy nhiên mức đóng góp vào 
tăng trưởng GDP năm 2018 chỉ tăng 
3,76% so với năm 2017 và góp một 
phần không đáng kể là 8,7% vào GDP 
cả nước. Có thể thấy các quyết sách 
của Chính phủ về hỗ trợ tín dụng phát 
triển ngành nông nghiệp phát triển 
nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc 
gia chưa thực sự được đầu tư tương 
xứng. Có nhiều nguyên nhân để giải 
thích vấn đề này, tuy nhiên có thể thấy 
việc Chính phủ ban hành các Nghị 
định số 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 
về chính sách tín dụng phục vụ phát 
triển nông nghiệp, nông thôn; Nghị 
định số 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018 
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị 
định số 55/2015/NĐ-CP chưa thực sự 
đem lại hiệu quả tương xứng, sự tiếp 
cận nguồn vốn này thực sự cũng không 
dễ dàng. 
Tại Tiền Giang, uớc tính có 2.440 
trang trại vừa và nhỏ, trong đó có 1.640 
trang trại nông nghiệp, chủ yếu là lập 
vườn quả chuyên canh và sản xuất lúa 
gạo. Các trang trại trên có tổng quy mô 
đất sản xuất 4.522 ha, sử dụng gần 
1Học viện Hành chính Quốc gia 
Email: lamthaibaongoc@yahoo.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
44 
2.000 lao động. Những năm trở lại đây, 
người dân tại các huyện, xã tại Tiền 
Giang đang có xu hướng mở rộng quy 
mô sản xuất cũng như tiếp nhận chuyển 
giao kỹ thuật nghề vườn và xây dựng, 
chuyên canh sản xuất lúa, nhân rộng 
những mô hình kinh tế VAC, VAC kết 
hợp biogas, trồng cây ăn quả theo tiêu 
chí GAP, tạo ra những nông sản hàng 
hóa chất lượng, có lợi thế cạnh tranh 
trên thị trường hướng đến xuất khẩu có 
giá trị thương phẩm cao hơn. Tuy 
nhiên, các hộ dân còn gặp rất nhiều khó 
khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín 
dụng chính thức, nguyên nhân chính là 
do những hộ này còn nghèo, không đáp 
ứng đủ các yêu cầu cơ bản của tổ chức 
tín dụng khi cho vay như tài sản thế 
chấp, mục đích sử dụng vốn vay, hoặc 
số tiền vay từ các tổ chức tín dụng 
(TCTD) còn bị hạn chế không đủ để 
phục vụ sản xuất. Với mục đích xác 
định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng 
tiếp cận nguồn tín dụng chính thức, từ 
đó đề xuất một số giải pháp nâng cao 
khả năng tiếp cận nguồn vốn này, bài 
viết gồm: phần 2 cơ sở lý thuyết, phần 3 
phương pháp nghiên cứu, phần 4 kết 
quả nghiên cứu và phần 5 là kết luận, 
khuyến nghị. 
2. Cơ sở lý thuyết 
Theo các nghiên cứu trước, việc 
không tiếp cận được nguồn vốn tín 
dụng chính thức thường do các nông hộ 
thường gặp các vấn đề khách quan như 
thiên tai, dịch bệnh, giá nông sản bấp 
bênh... trong khi tài sản thế chấp thường 
không có giá trị lớn, không có cơ chế 
bảo hiểm cây trồng, vật nuôi do đó các 
TCTD chính thức thường từ chối hoặc 
hạn chế cho vay [2]. 
Theo lý thuyết Thông tin bất cân 
xứng thì có hạn chế trong thị trường tín 
dụng nên sẽ có một số người không vay 
được mặc dù họ chấp nhận trả lãi suất 
cao hơn [3]. Nghiên cứu của Diagne A. 
và cộng sự [4] đã đưa ra phương pháp 
đo lường mức độ hộ nông dân tiếp cận 
tín dụng bằng phương pháp phỏng vấn 
trực tiếp để tìm ra giới hạn tín dụng của 
hộ đối với nguồn tín dụng nhất định. 
Nghiên cứu cho thấy các TCTD sẽ lựa 
chọn giới hạn tín dụng đối với người 
vay cụ thể và giới hạn này là số tiền tối 
đa mà người cho vay sẵn sàng cho vay. 
Vì vậy, giới hạn tín dụng là một hàm 
của sự đánh giá chủ quan của người cho 
vay về khả năng trả nợ, vỡ nợ và các 
đặc tính khác của người vay. Vì thế, 
việc tìm giới hạn tín dụng của nông hộ 
từ bất kỳ nguồn cung cấp tín dụng nào 
là cách đo lường tốt nhất đối với mức 
độ tiếp cận tín dụng đó. Cũng do vậy, 
có các nhân tố tác động đến khả năng 
tiếp cận tín dụng chính thức như sau: 
Tài sản thế chấp: Đây là tổng tài 
sản thuộc sở hữu của nông hộ bao gồm 
nhà ở, đất canh tác và các loại đất khác. 
Tài sản này phải có quyền sở hữu hợp 
pháp và được quy giá tương đương theo 
Bảng giá đất Số: 09/2017/QĐ-UBND do 
UBND tỉnh Tiền Giang công bố ngày 
14/4/2017. Đối với các nông hộ, các tài 
sản thế chấp này là cơ sở quan trọng để 
các TCTD căn cứ xét duyệt cho vay. 
Nếu quy mô đất canh tác càng lớn thì 
nhu cầu về máy móc thiết bị canh tác 
cũng như nhà xưởng để sơ chế nông sản 
sau thu hoạch càng được đầu tư hiện đại 
để tăng giá trị nông phẩm [5], [6]. 
Trình độ học vấn của chủ hộ: 
Trình độ học vấn của chủ hộ phản ánh 
khả năng tiếp cận và am hiểu thông tin 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
45 
về tín dụng cũng như các thủ tục về cho 
vay của các TCTD. Nghiên cứu Trần Ái 
Kết và Huỳnh Trung Thời cho thấy 
trình độ học vấn có quan hệ tích cực 
giữa việc tạo thu nhập và trình độ giáo 
dục [7]. 
Thu nhập tích lũy: Thu nhập tích 
lũy ổn định được xem là nguồn thanh 
toán nợ khả dụng cho các khoản vay 
ngân hàng. Theo Nguyễn Nhan Như 
Ngọc và Phạm Đức Chính thì thu nhập 
tích lũy thể hiện tổng thu nhập bình 
quân tích lũy của hộ trong tháng, được 
tính bằng tổng thu nhập của cả hộ trừ đi 
chi phí sinh hoạt tối thiểu cho các thành 
viên trong hộ [8]. Tổng thu nhập của hộ 
bao gồm thu nhập nông nghiệp hay thu 
nhập từ kết quả hoạt động sản xuất 
nông nghiệp và thu nhập phi nông 
nghiệp (cày cấy, thu hoạch...), tiền 
lương khác và thu nhập khác. Chi phí 
sinh hoạt tối thiểu căn cứ vào mức 
lương cơ bản do nhà nước quy định tại 
Nghị định số 38/2019/NĐ-CP và nguồn 
thu nhập này sẽ được các nhân viên của 
các TCTD thẩm định, hoặc căn cứ vào 
phương án sử dụng vốn của khách hàng 
đề nghị vay để dự đoán khả năng thanh 
toán nợ của hộ nông dân. 
Thói quen tiết kiệm: Dzadze P. và 
cộng sự cho thấy thói quen tiết kiệm có 
ảnh hưởng đến việc TCTD chính thức 
của hộ gia đình [9]. Theo Chauke và 
cộng sự thì nghiên cứu tại Ghana về văn 
hóa tiết kiệm được thực hiện bởi chính 
quyền địa phương và Bộ Phát triển 
Nông thôn Ghana thu thập từ 900 người 
trả lời, trong số những người xin cấp tín 
dụng thành công cho thấy 58% số người 
được hỏi có sở hữu tài khoản tiết kiệm 
trong đó 42% người thì không [6]. 
Khoảng cách từ nông hộ đến tổ 
chức tín dụng gần nhất: Khoảng cách 
đến TCTD xa sẽ làm tăng chi phí đi lại, 
nghĩa là làm tăng chi phí và làm giảm 
tổng thu nhập của nông hộ. Do đó, các 
nông hộ nếu gần các TCTD thì sẽ có lợi 
thế hơn do có thể liên hệ với người vay 
dễ dàng cũng như thuận tiện trong việc 
các cán bộ tín dụng kiểm tra, thẩm định 
sau cho vay [9]. 
Lịch sử tín dụng: Vai trò quan 
trọng của thông tin về người vay đối với 
quyết định chấp thuận cho vay của các 
TCTD cho thấy mức độ tín nhiệm của 
người xin vay. Để đánh giá mức độ tín 
nhiệm của người xin vay, các TCTD 
phải nghiên cứu nhiều khía cạnh của 
người xin vay: mục đích sử dụng tiền 
vay, khả năng tạo ra thu nhập và khả 
năng tạo ra đủ tiền mặt từ các nguồn thu 
nhập và tài sản thuộc sở hữu của nông 
hộ cũng như lịch sử những lần vay trước 
của nông hộ. Bertola và cộng sự chỉ ra 
rằng, trong thực tế, các giao dịch tín 
dụng trên cơ sở các đặc điểm quan sát 
được, bên cạnh việc các TCTD sử dụng 
thông tin thống kê liên quan đến lịch sử 
khả năng trả nợ của người đi vay [10]. 
Tham gia vào các tổ chức xã hội: 
Theo Nguyễn Nhan Như Ngọc và Phạm 
Đức Chính [8], Lê Khương Ninh và 
Phạm Văn Dương [11] thì khi tham gia 
vào các tổ chức xã hội ở địa phương 
như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội 
Cựu chiến binh, các tổ chức đoàn thể 
khác.. thì hộ nông dân sẽ có nhiều cơ 
hội tiếp cận thông tin tín dụng chính 
thức hơn những hộ khác do các chương 
trình tài chính vi mô thường được phổ 
biến thông qua các tổ chức đoàn thể. 
Trong nghiên cứu này, biến này là biến 
giả mang giá trị 1 nếu thành viên nông 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
46 
hộ có tham gia vào các tổ chức xã hội 
và mang giá trị 0 nếu không tham gia. 
Nhu cầu vay: Theo Nguyễn Nhan 
Như Ngọc và Phạm Đức Chính [8] thì 
thông thường, các hộ nông dân nếu có 
nhu cầu vay sẽ tìm hiểu các thủ tục vay 
cũng như các thông tin về lãi suất, thời 
gian vay, số tiền được vay... của TCTD. 
Sơ đồ 1: Mô hình nghiên cứu do tác giả tổng hợp 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 
3.1. Mô hình nghiên cứu 
Dựa vào lý thuyết thông tin bất cân 
xứng [3] và các nghiên cứu của Diagne 
A. và cộng sự [4], Nguyễn Nhan Như 
Ngọc và Phạm Đức Chính [8], Lê 
Khương Ninh và Phạm Văn Dương 
[11], tác giả xây dựng mô hình nghiên 
cứu với các biến tại bảng 1. 
Bảng 1: Bảng tóm tắt các biến và dấu kỳ vọng 
Tên biến Ý nghĩa của biến số 
Dấu kỳ 
vọng 
Tài sản thế chấp (X1) Tổng giá trị tài sản của hộ (triệu đồng). + 
Trình độ học vấn của chủ hộ (X2) Số năm đi học của chủ hộ + 
Thu nhập tích lũy (X3) Tổng thu nhập của cả hộ trừ đi chi phí 
sinh hoạt tối thiểu cho các thành viên 
trong hộ (triệu đồng) 
+ 
Thói quen tiết kiệm (X4) Là biến giả mang giá trị 1 nếu hộ gia 
đình có gởi tiền tiết kiệm tại bất kỳ 
TCTD nào trên địa bàn tỉnh Tiền 
Giang, và mang giá trị 0 nếu hộ không 
có tài khoản tiết kiệm. 
+ 
Khoảng cách từ nông hộ đến tổ 
chức tín dụng gần nhất (X5) 
Biến này thể hiện khoảng cách (km) từ 
nơi cư trú của hộ gia đình đến tổ chức 
tín dụng gần nhất mà hộ biết. 
+ 
Khả năng tiếp cận 
tín dụng 
Tài sản thế chấp 
Trình độ học vấn của chủ hộ 
Thu nhập tích lũy 
Thói quen tiết kiệm 
Khoảng cách từ nông hộ đến 
 tổ chức tín dụng gần nhất 
Lịch sử tín dụng 
Tham gia vào các tổ chức xã hội 
Nhu cầu vay 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
47 
Tên biến Ý nghĩa của biến số 
Dấu kỳ 
vọng 
Lịch sử tín dụng (X6) Là biến giả mang giá trị 1 nếu hộ gia 
đình có lịch sử tín dụng tốt, và mang 
giá trị 0 nếu có lịch sử tín dụng xấu. 
+/- 
Tham gia vào các tổ chức xã 
hội (X7) 
Là biến giả mang giá trị 1 nếu hộ gia 
đình có tham gia vào các tổ chức xã hội, 
và mang giá trị 0 nếu không tham gia. 
+ 
Nhu cầu vay (X8) Là biến giả mang giá trị là 1 nếu nông 
hộ có nhu cầu vay tại các TCTD chính 
thức và mang giá trị 0 nếu không có 
nhu cầu tham gia từ nguồn này. 
+ 
(Nguồn: Nghiên cứu tổng hợp của tác giả) 
Nghiên cứu này tiếp cận theo mô 
hình hồi quy Binary Logistic với phần 
mềm xử lý số liệu SPSS 20. Đây là mô 
hình phi tuyến tính sử dụng biến phụ 
thuộc dạng nhị phân để ước lượng xác 
suất một sự kiện sẽ xảy ra với những 
thông tin của biến độc lập mà ta có 
được. Theo Studenmund (1992) thì 
phương trình hồi quy như sau: 
)1/(1()/1( )( bXiaeXiYEPi 
Trong đó Pi là kỳ vọng xác suất 
Y=1 (tiếp cận nguồn vốn được tín dụng 
chính thức) với điều kiện Xi đã xảy ra. 
Xi là biến độc lập. Hay viết cách khác:
bXiaPi))Ln(Pi(1Li (2) 
Với Li là tỷ số giữa xác suất Y=1 
và xác suất Y = 0. Áp dụng phương 
pháp tuyến tính hoá, mô hình dự kiến 
được viết thành: 
Y
e
e
Pi
Pi
Ln
Y
 1
]
1
[
 (3) 
 Với: Y= 0 + 1X1 + 2X2+ 3X3+ 4X4+ 5X5+ 6X6+ 7X7+ 8X8+ui (4)
Trong đó Y là biến phụ thuộc, trong 
mô hình này là biến giả (biến dummy) 
chỉ nhận 2 giá trị 0 và 1, và X1, X2.....X8 
là các biến độc lập. 
3.2. Dữ liệu nghiên cứu 
Trong nghiên cứu này, người thực 
hiện sử dụng phương pháp phỏng vấn 
trực tiếp thông qua bảng câu hỏi để xác 
định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố 
ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín 
dụng của hộ nông dân tỉnh Tiền Giang. 
Hình thức lấy mẫu phi xác suất thông 
qua điều tra, phỏng vấn ngẫu nhiên các 
hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn 
tỉnh Tiền Giang vào tháng 5 năm 2019. 
Các huyện được chọn đại diện bao gồm: 
huyện Gò Công Tây, Gò Công Ðông, 
huyện Cái Bè. Mỗi huyện chọn 3 xã đại 
diện và mỗi xã khảo sát ngẫu nhiên 20 
hộ căn cứ vào danh sách do địa phương 
cung cấp. 
Tổng số hộ được khảo sát là 225, số 
phiếu khảo sát thu về đảm bảo đầy đủ 
thông tin là 200. Các hộ gia đình được 
(1) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
48 
phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi 
soạn sẵn về các thông tin cần thiết cho 
nghiên cứu bao gồm: đặc điểm nhân 
khẩu và kinh tế - xã hội của hộ, như: độ 
tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ 
học vấn, số nhân khẩu diện tích đất ở và 
diện tích đất sản xuất có giấy chứng 
nhận quyền sử dụng, mục đích vay vốn, 
tổng thu nhập và chi phí sinh hoạt bình 
quân, tài sản thế chấp, số lần vay vốn, 
nông hộ có hay không gởi tiết kiệm tại 
các TCTD, khoảng cách từ hộ đến 
TCTD gần nhất. 
Từ thông tin của 200 nông hộ được 
thu thập, quy mô nông hộ (số nhân khẩu 
trong hộ) cũng như số lao động bình 
quân ở mức phổ biến chung ở nước ta 
hiện nay. Tuy nhiên, giá trị độ lệch 
chuẩn cho thấy có sự chênh lệch đáng 
kể về thu nhập bình quân/năm của nông 
hộ. Đặc điểm nhân khẩu và kinh tế của 
hộ được trình bày ở bảng 2. 
Bảng 2: Kinh tế và nhân khẩu nông hộ 
TT Chỉ tiêu ĐVT Min Max 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
1 Giá trị tài sản năm 2018 Triệu đồng/ hộ 120 1.258 452,5 168,1 
2 Thu nhập bình 
quân/năm 
Triệu đồng/ hộ 17 342 57,4 43,5 
3 Số nhân khẩu Người 1 7 4,7 1,6 
4 Số lao động chính Người 1 5 2,7 0,8 
(Nguồn: Tác giả khảo sát tháng 5/2019) 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Kết quả hồi quy 
Theo kết quả kiểm định hệ số tương 
quan Pearson tại bảng 3 cho thấy, hệ số 
này giữa biến Thói quen tiết kiệm và 
Khoảng cách từ nông hộ đến TCTD gần 
nhấ ... 642 4 ,0000 
Model 91,642 4 ,0362 
 (Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS 20) 
Qua bảng 6 cho thấy trong 65 
trường hợp được dự đoán về việc tiếp 
cận được với nguồn vốn tín dụng chính 
thức thì mô hình đã dự đoán đúng 35 
trường hợp, tương ứng tỷ lệ là 53,8%. 
Còn 200 trường hợp được dự đoán về 
Biến B S.E. Wald df Sig. 
Nhu cầu vay (X8) ,1853 ,0813 4,086 1 ,039 
Tài sản thế chấp (X1) ,1074 ,1377 2,893 1 ,042 
Thu nhập tích lũy (X3) ,0029 ,0082 23,143 1 ,000 
Trình độ học vấn của chủ hộ (X2) ,0485 1,399 3,737 1 ,043 
Constant -1,0210 2,598 11,618 1 ,001 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
50 
khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ 
gia đình thì mô hình đã dự đoán trúng 
188 trường hợp, tương ứng với tỷ lệ là 
94%, và tỷ lệ dự đoán đúng của toàn bộ 
mô hình là 83,8%. 
Bảng 6: Kết quả dự báo của mô hình 
Observed 
Predicted 
TCTD % 
0 1 
Step 1 
TCTD 
0 30 35 53,8 
1 12 188 92,1 
Overall Percentage 83,8 
(Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu từ SPSS 20) 
Như vậy, mô hình (6) được lựa 
chọn do tất cả các biến đều có ý nghĩa 
thống kê ở mức ý nghĩa 1% và 5%. Như 
vậy, mô hình này là mô hình tối ưu 
trong nghiên cứu này và được sử dụng 
trong phân tích, nhận xét và đưa ra các 
khuyến nghị. 
4.2. Giải thích kết quả của các hệ 
số hồi quy Binary Logistic 
Hệ số hồi quy biến Tài sản thế 
chấp (X1): Biến Tài sản thế chấp có 
Sig.= 0,042< 0,05. Do đó, biến này có 
tương quan có ý nghĩa với biến phụ 
thuộc là khả năng tiếp cận tín dụng 
chính thức với độ tin cậy là 95%. Khi 
Tài sản thế chấp càng cao, cụ thể nếu 
Tài sản thế chấp (X1) tăng lên 1 đơn vị 
với điều kiện Nhu cầu vay (X8); Thu 
nhập tích lũy (X3) và Trình độ học vấn 
của chủ hộ (X2) là như nhau thì Log 
của tỷ lệ xác suất có khả năng tiếp cận 
tín dụng chính thức và xác suất không 
có khả năng tiếp cận tín dụng chính 
thức sẽ tăng thêm 0,1074 đơn vị (lần). 
Các nghiên cứu của Mohamed K [5], 
Chauke, P.K và cộng sự [6] và Nguyễn 
Nhan Như Ngọc và Phạm Đức Chính 
[8] cho thấy biến này cũng có tác động 
có ý nghĩa thống kê đến khả năng tiếp 
cận tín dụng chính thức. 
Hệ số hồi quy biến Trình độ học 
vấn của chủ hộ (X2): Trình độ học vấn 
của chủ hộ có tác động cùng chiều tới 
khả năng tiếp cận tín dụng chính thức 
của nông hộ, kết quả này phù hợp với 
kỳ vọng và cũng như kết luận của Trần 
Ái Kết và Huỳnh Trung Thời [7]. Khi 
Thu nhập tích lũy càng cao, cụ thể nếu 
Trình độ học vấn của chủ hộ (X2) tăng 
lên 1 đơn vị với điều kiện Nhu cầu vay 
(X8); Tài sản thế chấp (X1) và Thu 
nhập tích lũy (X3) là như nhau thì Log 
của t tỷ lệ xác suất có khả năng tiếp cận 
tín dụng chính thức và xác suất không 
có khả năng tiếp cận tín dụng chính 
thức sẽ tăng thêm 0,0485 đơn vị (lần). 
Hệ số hồi quy biến Thu nhập tích 
lũy: Kết quả thu được của nghiên cứu 
này đồng nhất với kết quả nghiên cứu 
của Nguyễn Nhan Như Ngọc và Phạm 
Đức Chính [8]. Bảng 2 cho thấy biến 
Thu nhập tích lũy có Sig.= 0,000 < 0,01. 
Do đó, biến này có tương quan có ý 
nghĩa với biến phụ thuộc là khả năng 
tiếp cập tín dụng chính thức. Khi Thu 
nhập tích lũy càng cao, cụ thể nếu Thu 
nhập tích lũy (X3) tăng lên 1 đơn vị với 
điều kiện Nhu cầu vay (X8); Tài sản thế 
chấp (X1) và Trình độ học vấn của chủ 
hộ (X2) là như nhau thì Log của t tỷ lệ 
xác suất có khả năng tiếp cận tín dụng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
51 
chính thức và xác suất không có khả 
năng tiếp cận tín dụng chính thức sẽ 
tăng thêm 0,0029 đơn vị (lần). 
Hệ số hồi quy biến Nhu cầu vay: 
Biến Nhu cầu vay có Sig.= 0,039 < 0,05. 
Do đó, biến này có tương quan có ý 
nghĩa với biến phụ thuộc là khả năng 
tiếp cập tín dụng chính thức với độ tin 
cậy là 95%. Khi nhu cầu vay tăng cao, 
cụ thể nếu Nhu cầu vay (X8) tăng lên 1 
đơn vị với điều kiện Tài sản thế chấp 
(X1); Thu nhập tích lũy (X3) và Trình 
độ học vấn của chủ hộ (X2) là như nhau 
thì Log của t tỷ lệ xác suất có khả năng 
tiếp cận tín dụng chính thức và xác suất 
không có khả năng tiếp cận tín dụng 
chính thức sẽ tăng thêm 0,1853 đơn vị 
(lần). Kết quả của nghiên cứu này đồng 
nhất với kết quả thu được trong nghiên 
cứu của Nguyễn Nhan Như Ngọc và 
Phạm Đức Chính [8]. 
5. Kết luận và hàm ý quản lý 
Qua việc nghiên cứu thông qua việc 
khảo sát 200 hộ nông dân trên địa bàn 
Tỉnh Tiền Giang, kết quả phân tích hồi 
qui mô hình Binary Logistic cho thấy 
có 4 yếu tố có ảnh hưởng tới khả năng 
tiếp cận tín dụng chính thức của nông 
hộ, đó là: Trình độ học vấn của chủ hộ, 
Nhu cầu vay, Tài sản thế chấp và Thu 
nhập tích lũy và Trình độ học vấn của 
chủ hộ. Các nhân tố này có tác động 
tích cực đến việc tiếp cận nguồn vốn tín 
dụng chính thức của các TCTD. Từ kết 
quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số 
khuyến nghị nhằm phát triển thị trường 
tín dụng nông thôn như sau: 
Thứ nhất, cần đa dạng hóa các hình 
thức thế chấp sẽ làm gia tăng khả năng 
tiếp cận tín dụng. Hiện tại, đa phần các 
TCTD thường căn cứ vào Giấy chứng 
nhận quyền sử dụng đất là căn cứ pháp 
lý cao nhất để cho vay. Tuy nhiên, trong 
thực tế, tài sản của các nông hộ còn ở 
các tài sản trên đất canh tác như vườn 
cây lâu năm, hoa màu đang tác trên 
đất... Ngoài ra, cần linh hoạt trong tài 
sản thế chấp và định giá tài sản thế chấp 
theo giá trị thị trường vì nếu áp theo 
khung giá của Nhà nước quy định 
thường thấp hơn rất nhiều, gây thiệt hại 
cho các hộ nông dân khi họ muốn định 
giá tài sản thế chấp sát với giá thị 
trường nhằm có thể vay được nguồn 
vốn tín dụng cao hơn, đáp ứng nhu cầu 
sản xuất và kinh doanh. Cần rút 
ngắn thời gian xét duyệt và giải ngân 
ngay trong ngày với chính sách kiểm 
soát sau và áp dụng mức lãi suất hợp lý, 
đủ bù đắp rủi ro trong cho vay trong 
lĩnh vực nông nghiệp. Hơn nữa, cần 
phát triển loại hình cho thuê tài chính 
trong lĩnh vực nông nghiệp và nông 
thôn nhằm giúp cho các hộ nông dân 
đổi mới công nghệ trước và sau khi thu 
hoạch nhằm đem lại năng suất và chất 
lượng nông sản cao hơn. 
Thứ hai, cần nâng cao trình độ của 
chủ nông hộ, có thể nói một bộ phận 
nông hộ, nhất là nông hộ ở những vùng 
chưa phát triển sản xuất hàng hóa, vẫn 
quen sống tự cấp tự túc nên việc tiếp 
nhận các nguồn vốn tín dụng chính thức 
rất ít. Do đó, để tiếp cận nguồn vốn này 
cũng như đổi mới cách thức sản xuất 
nông nghiệp theo hướng tập trung hóa, 
chuyên môn hóa, hiện đại hóa là rất khó 
khăn. Vì thế, phải nâng cao trình độ 
nhận thức, đổi mới tư duy của các nông 
hộ để tự họ thấy rằng, muốn giàu lên thì 
phải cơ cấu lại lao động và ruộng đất, 
giảm lao động chân tay mà thay vào đó 
cần đổi mới công nghệ sản xuất, tạo ra 
sản phẩm nông sản có giá trị thương 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
52 
phẩm cao. Điều này cần có sự điều phối 
của Chính phủ thông qua cơ chế, chính 
sách hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn, 
nông dân như khuyến khích liên kết bốn 
nhà; hỗ trợ lãi suất vay vốn trong sản 
xuất nông nghiệp; khuyến khích các 
doanh nghiệp chuyển giao khoa học, kỹ 
thuật và đầu tư vào sản xuất nông 
nghiệp cũng như vào địa bàn nông thôn 
tỉnh Tiền Giang. Ngoài ra, các TCTD 
trên địa bàn tỉnh cần đào tạo đội ngũ 
các chuyên viên tư vấn tín dụng tại chỗ, 
nghĩa là phối hợp tổ chức các hoạt động 
đoàn thể, tăng cường giao lưu văn hóa 
giữa các huyện phối hợp với việc tuyên 
truyền các chính sách ưu đãi trong nông 
nghiệp của TCTD góp phần nâng cao 
nhận thức của các nông hộ. 
Thứ ba, nâng cao Thu nhập tích lũy 
của các nông hộ bắt nguồn từ nâng cao 
thu nhập của các hộ nông dân. Tại Tiền 
Giang có hai sản phẩm nông sản nổi 
tiếng như xoài cát Hòa Lộc và vú sữa 
Lò Rèn vào top 15 loại nông sản nổi 
tiếng Việt Nam được người tiêu dùng 
khắp nơi trên thế giới ưa chuộng. Thật 
sự đây là niềm tự hào to lớn cho người 
dân tỉnh Tiền Giang vì đang sở hữu hai 
thương hiệu trái cây nổi tiếng không 
những trong nước mà cả trên thế giới. 
Nhưng hiện nay, các cơ chế chính sách 
của Tiền Giang chưa có các chính sách 
phối hợp với các hộ nông dân về việc 
bao tiêu sản phẩm. Trong trường hợp 
giá nông sản hạ sâu, người nông dân lỗ 
nặng thì việc các công ty thu mua nông 
sản thường chậm trễ thu mua gây nên 
sự bức xúc đối với các hộ dân. Ngược 
lại, khi các tổ chức nhà nước tại Tiền 
Giang ký các hợp đồng bao tiêu sản 
phẩm nông sản và chăn nuôi với các 
nông hộ, nhưng khi nông sản được mùa, 
chăn nuôi thắng vụ thì các hộ nông dân 
sẵn sàng hủy bỏ các giao kèo ký kết đối 
với các công ty bao tiêu, thu mua nông 
sản. Điều này cho thấy chưa có sự phối 
hợp nhịp nhàng, sự kết nối giữa hộ 
nông dân với các chính sách điều tiết, 
bao tiêu sản phẩm. Ủy ban nhân dân 
tỉnh Tiền Giang cần có các chương trình 
như cung cấp con giống, các chế phẩm 
bảo vệ thực vật hay các loại kháng sinh 
trong chăn nuôi nhằm kiểm soát được 
chất lượng đầu ra, đảm bảo sản xuất 
khép kín nhằm đem lại hiệu quả kinh tế 
của chuỗi sản xuất đạt cao hơn sản xuất 
đại trà. Tỉnh nên khuyến khích hỗ trợ 
các hộ gia đình ứng dụng công nghệ cao 
gồm: trồng rau thủy canh, rau hữu cơ 
trong nhà màng; trồng rau hữu cơ và rau 
theo tiêu chuẩn VietGAP ngoài trời 
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh 
đó, việc xây dựng thương hiệu, đăng ký 
bảo hộ bản quyền, mã vạch và tem điện 
tử để truy xuất nguồn gốc là điều cần 
thiết đối với các sản phẩm chủ lực của 
tỉnh như xoài cát Hòa Lộc và vú sữa Lò 
Rèn. Cần xây dựng các mô hình khuyến 
nông theo chuỗi quản trị khép kín từ sản 
xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. 
Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức xã 
hội đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa 
công tác khuyến nông, khuyến ngư; tổ 
chức tốt hoạt động tập huấn hướng dẫn 
kỹ thuật, chuyển giao công nghệ nâng 
cao trình độ sản xuất, quản lý và xây 
dựng nhiều mô hình trình diễn cho 
nông, ngư dân áp dụng. Đẩy mạnh áp 
dụng cơ giới hóa trong sản xuất như: 
làm đất, gieo sạ, thu hoạch bằng 
máy nhằm nâng cao giá trị và sản 
lượng nông sản, từ đó góp phần nâng 
cao thu nhập, tăng thu nhập tích lũy của 
các nông hộ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
53 
Thứ tư, về Nhu cầu vay của nông 
hộ, thông qua kết quả khảo sát có thể 
nói hiện nay nhu cầu vay của các hộ 
nông dân tại các xã rất lớn tại các xã 
thuộc ấp Hòa, xã Hòa Hưng, huyện Cái 
Bè (chuyên về xoài cát Hòa Lộc) và các 
huyện Gò Công Tây, Gò Công Ðông. 
Tuy nhiên, sự tiếp cận các thông tin về 
thủ tục cho vay ở các TCTD rất hạn chế 
do sự khó khăn trong khâu tiếp cập 
nông hộ vì khoảng cách tới các TCTD 
huyện thuộc tỉnh Tiền Giang là rất lớn. 
Do đó, các TCTD cần cải thiện các thủ 
tục cho vay theo hướng đơn giản hóa, 
cũng như làm công tác quảng bá các sản 
phẩm tín dụng đến các nông hộ. Từ đó 
sẽ góp phần hướng các nông hộ có nhu 
cầu vay vốn đến các TCTD. Nên xem 
xét các hình thức thanh toán, trả nợ nhất 
là các trường hợp thanh toán các khoản 
nợ tín dụng trước hạn, không nên áp 
dụng các hình thức lãi phạt hoặc phí 
phạt trả trước hạn đối với các hộ nông 
dân. Điều này gây nên tâm lý hoang 
mang, dè dặt và lo ngại đối với các 
nông hộ khi phát sinh các nhu cầu vay 
đối với các TCTD. Đặc biệt, mặt bằng 
dân trí của các nông hộ tại các huyện, 
xã của Tiền Giang không cao, từ đó vô 
tình đẩy các hộ gia đình tiếp cận đến 
các hình thức tín dụng phi chính thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tổng cục Thống kê (2019), “Công bố kết quả tổng điều tra dân số năm 
2019”,  tradanso.vn/cong-bo-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-2019.hlml, 
(truy cập ngày 19/12/2019) 
2. Joanna Ledherwood (2006), Hoạt động ngân hàng bền vững cho người nghèo - 
Cẩm nang hoạt động tài chính vi mô, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội 
3. Stiglitz, J.E., and A. Weiss (1981), “Credit rationing in markets with 
imperfect information”, part I, American Economic Review. 71, 393-410 
4. Diagne, Aliou, Manfred Zeller, and Manohar Sharma (2000), “Empirical 
measurements of households’ access to credit and credit constraints in developing 
countries: Methodological issues and evidence”, IFPRI FCND Discussion, No. 90. 
Washington, DC: IFPRI 
5. Mohamed K (2003), “Access to formal and quasi-formal credit by 
smallholder farmers and artisanal fishermen: a case study of Zanzibar”, Tanzania: 
Mkuki na Nyota Publishers, ISBN 9987-686-75-3 
6. Chauke, P.K., and Anim, F.D.K (2013), “Predicting Access to Credit by 
Smallholder Irrigation Farmers: A logistic Regression Approach”, J Hum Ecol, 42 
(3): 195-202 (2013) 
7. Trần Ái Kết và Huỳnh Trung Thời (2013), “Các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp 
cận tín dụng chính thức của nông hộ trên địa bàn tỉnh An Giang”, Tạp chí Khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ Phần D: Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật: 27 
(2013), tr. 17-24 
8. Nguyễn Nhan Như Ngọc và Phạm Đức Chính (2015), “Các nhân tố ảnh 
hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của nông hộ tỉnh An Giang”, Tạp 
chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 18. Số Q1, tr. 28-39 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
54 
9. Dzadze P., Osei Mensah J., Aidoo R. and Nurah G. K (2012), “Factors 
determining access to formal credit in Ghana: A case study of smallholder farmers in 
the AburaAsebu Kwamankese district of central region of Ghana”, Journal of 
Development and Agricultural Economics. Vol. 4(14), pp. 416-423 
10. Duy V.Q (2012), “Determinants of household access to formal cerdit in the 
rural areas of the Making Delta, Viet Nam”, MPRA paper No.38202 
11. Bertola, G. Disney, R. & Grant, C. (2006), “The Economics of Consumer Credit 
Demand and Supply”, The MIT Press Cambridge, Massachusetts London, England 
12. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên 
cứu với SPSS, Nxb Thống kê, Hà Nội 
FACTORS AFFECTING ACCESS TO FORMAL CREDIT BY 
SMALLHOLDER FARMERS IN TIEN GIANG PROVINCE 
ABTRACT 
 Tien Giang is a province in the Mekong Delta, with a quite favorable socio-
political geographic location adjacent to Ho Chi Minh City and the Southeast. It is 
also the southern key economic region in agricultural production in which the 
household economy is one of the leading economic potentials. Therefore, to promote 
agricultural production, credit capital is a very important resource that allows 
farmers to expand production activities or apply new technologies. This study aims 
to identify factors affecting the access to credit of 200 farmer households in Tien 
Giang. The research results show that there are 4 factors affecting access to credit: 
(1) Loan demand (X8); (2) Collateral (X1); (3) Cumulative income (X3) and (4) 
Educational attainment of the head of household (X2), in which the demand for loan 
has the greatest impact, with Binary logistic regression analysis. From the research 
results, the article also gives some recommendations to the People's Committee of 
Tien Giang Province and credit institutions in the area. 
Keywords: Fomal credit, smallholder, Binary logictic, Tien Giang 
(Received: 1/10/2019, Revised: 17/10/2019, Accepted for publication: 25/10/2019) 

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_kha_nang_tiep_can_tin_dung_cua_ho.pdf