Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam
Tóm tắt
Quản lý nợ công đương nhiên là một yêu cầu cần thiết cho mọi quốc gia vì nó sẽ giúp đảm bảo tính an
toàn không chỉ đối với vị thế tài chính của chính phủ mà còn đối với sự an toàn, lành mạnh, ổn định và
hiệu quả của toàn bộ hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế. Mặc dù hầu hết các nhà hoạch định chính
sách cũng đều có chung quan điểm như vậy, song trên thực tế, ít nhất cho đến trước cuộc khủng hoảng
nợ công châu Âu 2010, mức độ quan tâm mà các nhà hoạch định chính sách dành cho hoạt động quản lý
nợ công là rất hạn chế, ngay cả trước đó cũng có nhiều cuộc khủng hoảng nợ công riêng lẻ xảy ra ở nhiều
quốc gia khác nhau. Sau khi khủng hoảng nợ công nổ ra, bất luận dù với nguyên nhân gì thì công tác
quản lý nợ công vẫn giữ vai trò trung tâm và hết sức quan trọng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT Bài viết được chuẩn bị theo yêu cầu của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội và được trình bày tại Hội thảo về Nợ công được tổ chức ở Đồng Hới, Quảng Bình, ngày 11/7/2014. Các nội dung được trình bày trong bài viết là của tác giả, không nhất thiết phản ánh hay đại diện cho quan điểm của Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright. Tác giả xin chân thành cảm Ông Nguyễn Xuân Thành và Ông Huỳnh Thế Du vì những góp ý hết sức quý báu, tuy nhiên, những sai sót trong bài viết này nếu có là thuộc về tác giả. 10/2014 ĐỖ THIÊN ANH TUẤN 1 (tuandt@fetp.edu.vn) CÁC MÔ THỨC QUẢN LÝ NỢ CÔNG VÀ VẤN ĐỀ CỦA VIỆT NAM Abstract The recent international experience shows that the process and rules of good public debt management are not a prerequisite and unique, and also not necessarily make a country can eliminate costs and avoid risk of terrorist panic, but they are the necessary conditions for any country that wants to minimize costs and risks of debt crisis. Discussing these principles in the Vietnam’s situation showed that Vietnam now lacks the normative rules for public debt management. Although, Vietnam has issued the public debt management laws recently but it is only still at the initial stage. The content of the regulation is quite simple, contains many loopholes. When compared it with the international standards, the public debt management pattern of Vietnam is at the low standard level. In such conditions, along with the reality of the current debt as analyzed, it is clear that the risks and costs of public debt of Vietnam are very particularly worrisome. Improving policies and regulations on the public debt management, from declaration of the clear bundle of objectives to establishing of strategic processes, and developing the depth of the government bond market in the direction of soundness, efficiency is a critical requirement to help Vietnam can better manage its public debt. In addition, the process of designing a good public debt management practice and tool should also be placed in the general context of the macro economy along with the institutional reform process, the independence and the ability of coordinating with other macroeconomic policies. Tóm tắt Quản lý nợ công đương nhiên là một yêu cầu cần thiết cho mọi quốc gia vì nó sẽ giúp đảm bảo tính an toàn không chỉ đối với vị thế tài chính của chính phủ mà còn đối với sự an toàn, lành mạnh, ổn định và hiệu quả của toàn bộ hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế. Mặc dù hầu hết các nhà hoạch định chính sách cũng đều có chung quan điểm như vậy, song trên thực tế, ít nhất cho đến trước cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu 2010, mức độ quan tâm mà các nhà hoạch định chính sách dành cho hoạt động quản lý nợ công là rất hạn chế, ngay cả trước đó cũng có nhiều cuộc khủng hoảng nợ công riêng lẻ xảy ra ở nhiều quốc gia khác nhau. Sau khi khủng hoảng nợ công nổ ra, bất luận dù với nguyên nhân gì thì công tác quản lý nợ công vẫn giữ vai trò trung tâm và hết sức quan trọng. Nhiều nước đã bắt đầu khẩn trương rà soát lại hệ thống quản lý nợ công của họ, từ việc nhận diện lại bức tranh nợ công, đánh giá các chi phí và 1 Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 2/76 rủi ro của nợ dựa trên các chuẩn mực và quy chuẩn mới, đến việc xây dựng và hoàn thiện các quy trình và quy tắc quản lý nợ công, kể cả việc thiết kế lại mô hình tổ chức của cơ quan quản lý nợ cũng như các mô thức giám sát nợ công phù hợp. Bài viết này sẽ thảo luận các mô thức quản lý nợ công được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đồng đề xuất trong Các nguyên tắc chung về quản lý nợ công, lồng ghép kinh nghiệm áp dụng ở các nước và việc áp dụng ở Việt Nam. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, một quy trình và quy tắc quản lý nợ tốt không phải là điều kiện tiên quyết và duy nhất, và cũng chưa hẳn đã giúp cho một quốc gia có thể loại bỏ được rủi ro và tránh được nguy cơ khủng hoảng, song nó phải là điều kiện cần cho bất kỳ quốc gia nào muốn tối thiểu hóa chi phí và giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng nợ phát sinh. Thảo luận các nguyên tắc đó ở Việt Nam cho thấy Việt Nam còn thiếu một quy tắc mang tính chuẩn mực cho quản lý nợ công. Các quy định và quy trình quản lý nợ công ở Việt Nam dù đã có nhưng chỉ ở giai đoạn ban đầu, nội dung còn khá đơn giản, thậm chí chứa nhiều lỗ hổng, và nếu so với các chuẩn mực quốc tế đang được đề xuất áp dụng thì chuẩn mực của Việt Nam chỉ ở cấp độ thấp. Trong điều kiện đó, cùng với thực trạng về nợ công hiện nay như được phân tích, rõ ràng là các rủi ro về quản lý nợ công của Việt Nam hiện nay là rất đáng quan ngại. Hoàn thiện chính sách và các quy định về quản lý nợ công, từ việc tuyên bố mục tiêu cho đến việc thiết lập các quy trình mang tính chiến lược và cả việc phát triển một thị trường trái phiếu chính phủ trong nước theo hướng lành mạnh, hiệu quả, và có độ sâu là một yêu cầu tối quan trọng để giúp Việt Nam có thể quản lý nợ công tốt hơn. Tuy nhiên, quá trình thiết kế chính sách quản lý nợ cũng cần phải được đặt vào bối cảnh chung của nền kinh tế vĩ mô cùng với các cải cách về thể chế, về sự độc lập và khả năng điều phối với các chính sách kinh tế vĩ mô khác mới có kết quả đáng mong đợi. Từ khóa: Nợ công, quản lý nợ công, rủi ro nợ công, đánh đổi rủi ro – chi phí, khủng hoảng nợ công châu Âu, vách đá tài khóa, trần nợ công, chỉ báo nợ, Việt Nam. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 3/76 I. Giới thiệu và bối cảnh về nợ công thế giới Đã gần 4 năm trôi qua kể từ khi châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công có thể xem là tồi tệ nhất trong lịch sử các cuộc khủng hoảng nợ công của thế giới kề từ sau Thế chiến II như Thủ tướng Đức Angela Merkel từng nói.2 Cuộc khủng hoảng bùng nổ đầu tiên ở Hy Lạp năm 2010, dù trước đó đã có một số triệu chứng bất ổn được cảnh báo khi chi phí các khoản nợ của Chính phủ liên tục tăng lên. Cuộc khủng hoảng sau đó đã nhanh chóng lan sang các nước khác trong khu vực như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, và Ai-Len. Trên các diễn đàn học thuật, các nhà nghiên cứu phân tích nhiều khía cạnh khác nhau cũng như tranh luận những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, song cho đến nay vẫn còn khá nhiều quan điểm trái chiều.3 Trong số các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng đã được phân tích, đáng chú ý có nguyên nhân sâu xa nằm ở bản thân Hiệp ước Maastricht (1992) – Hiệp ước về Liên minh châu Âu (EU) với sự ra đời của đồng tiền chung Euro.4 Trong khuôn khổ của bản Hiệp ước, một ngân hàng trung ương chung (có tên gọi là Ngân hàng trung ương châu Âu – ECB) sẽ ra đời để vận hành hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) và quản lý đồng tiền chung. Nói khác đi, các nước sẽ hướng đến một chính sách tiền tệ nhất thể cùng với một đồng tiền chung cho toàn khối. Trong khi đó, các nước thành viên vẫn duy trì chính sách tài khóa độc lập. Điều này được xem là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các trục trặc hiện nay. Mặc dù Hiệp ước cũng đặt ra nghĩa vụ cho các nước thành viên phải duy trì các chính sách tài khóa lành mạnh, ở đó ngưỡng nợ công so với GDP được giới hạn ở mức 60% và mức thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt quá 3% GDP. Tuy nhiên, cho đến trước cuộc khủng hoảng nổ ra, nhiều nước trong khối, ngay cả những nước vốn được xem là có nền tài chính khỏe mạnh như Đức, Anh, Pháp cũng đã không thể duy trì được các cam kết này. Đến nay, dù đã có nhiều gói cứu trợ được tiến hành nhưng cuộc khủng hoảng vẫn còn tiếp diễn và nỗ lực của các chính phủ sẽ vẫn phải tiếp tục và các nền kinh tế Eurozone sẽ còn phải gánh chịu nhiều chi phí tốn kém nữa. 2 Xem tại 3 Xem các nghiên cứu của Milos và Sotiropoulos (2010), Mongolli (ECB, 2013), Soros G. (2012), Shambaugh, J.C. (2012), OECD (2010). Dadush E. et al. (2010), Honkapohja S. (2012). 4 Xem Mansori 2010, What Really Caused the Eurozone Crisis? Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 4/76 Hình 1. Thâm hụt ngân sách và nợ công của một số nước EU trước khủng hoảng (2009) Nguồn: Eurostat. Trong khi châu Âu còn vật lộn với mớ nợ công khổng lồ thì Mỹ cũng đối mặt với mức trần nợ công và cái gọi là vách đá tài khóa (fiscal cliff). Cuối năm 2012, nợ công của Mỹ đã gần chạm mức trần nợ 16.400 tỉ USD. Bất đồng nảy sinh khi Đảng Cộng hòa muốn giải quyết bằng cách cắt giảm chi tiêu tương đương với mức tăng giới hạn nợ. Trong khi Chính quyền Tổng thống Obama lại muốn gỡ bỏ quy định về tăng trần nợ phải được Quốc hội thông qua. Song song với vấn đề trần nợ công, nước Mỹ cũng đã phải đối mặt với sự chia rẽ liên quan đến kế hoạch tăng thuế và giảm chi tiêu công trị giá 1.600 tỉ USD. Kế hoạch này đã không được Hạ viện Mỹ chấp thuận, thậm chí cơ quan này còn đưa ra chương trình 2.200 tỉ USD giảm thuế và chi phí y tế. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ vách đá tài khóa để mô tả các vấn đề nan giải liên quan đến chính sách tài khóa mà Chính phủ Mỹ phải đối mặt vào đầu năm 2013 khi các điều khoản của Đạo luật Kiểm soát ngân sách (2011) bắt đầu có hiệu lực.5 Đến nay, mặc dù trở ngại của vách đá tài khóa về cơ bản đã được dàn xếp và trần nợ công cũng đã được nâng lên và sau đó lại được trì hoãn,6 song các thách thức tài khóa và nợ công của nước Mỹ vẫn còn đó và không ai có thể chắc rằng nước Mỹ sẽ không phải đối mặt với rủi ro khủng hoảng trần nợ công trong tương lai gần. 5 Những thách thức liên quan đến cái gọi là vách đá tài khóa liên quan đến những thay đổi trong chính sách tài khóa bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/2013 bao gồm, chấm dứt cắt giảm thuế lương và tăng thuế đối với người lao động lên thêm 2%. Bên cạnh đó, chính sách giảm thuế cho các doanh nghiệp cũng sẽ hết hiệu lực. Chính sách cắt giảm thuế được áp dụng trong giai đoạn 2001-2003 cũng được hủy bỏ, trong khi các loại thuế liên quan đến luật chăm sóc y tế của Tổng thống Obama bắt đầu được áp dụng. Ngoài ra, chương trình cắt giảm chi tiêu nằm trong thỏa thuận nâng trần nợ trong năm 2011 của chính quyền Obama cũng bắt đầu có hiệu lực. 6 Ngày 11/2/2014, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu hoãn áp dụng trần nợ công đến 15/3/2015. Điều này sẽ cho phép Chính quyền Tổng thống Obama tiếp tục vay mượn thêm 13 tháng nữa, đẩy lùi nguy cơ khủng hoảng nợ qua cuộc bầu cử tháng 11 và Quốc hội cũng có thêm thời gian để tìm giải pháp cho vấn đề. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 5/76 Hình 2. Nợ công và trần nợ công của Mỹ, 1996 - 2014 Nguồn: Bộ Tài chính Mỹ, Austin và Levit (2013) cho số liệu 1996-2012, IMF và tính toán của tác giả cho số liệu ước tính và dự báo 2013-2014. Đối với Trung Quốc, mặc dù quy mô nợ công năm 2013 chỉ khoảng xấp xỉ 17% GDP, nhưng nước này cũng đang bắt đầu đối mặt với tình trạng nợ công gia tăng nhanh chóng. Con số 17% chỉ là con số thống kê của Đồng hồ nợ công thế giới (GDC), còn của IMF là 22,4% GDP.7 Trong khi đó, theo một báo cáo của Văn phòng Kiểm toán quốc gia Trung Quốc (NAO) vào tháng 12/2013 cho thấy nợ công của Trung Quốc đã là 56% GDP tính đến giữa năm 2013, trong đó nợ của chính quyền địa phương là 33% GDP, và nợ của chính quyền trung ương là 23% GDP.8 Nợ công của Trung Quốc chủ yếu là nợ của chính quyền địa phương, bao gồm các khoản nợ tiềm ẩn và các khoản bảo lãnh nợ phát sinh (17.890 tỉ RMB, tương đương gần 2.900 tỉ USD tính đến giữa năm 2013, tăng 63% so với thời điểm cuối năm 2010).9 Một số thành phố hàng đầu của Trung Quốc đang có mức nợ cao, chẳng hạn như Bắc Kinh là 135%, Thượng Hải là 123%, Trùng Khánh là 156% so với tổng thu ngân sách của các địa phương này. Một số địa phương có mức nợ nguy hiểm, chẳng hạn như Giang Tô với hơn một phần ba dư nợ sẽ đáo hạn trong năm 2014, Chiết Giang với 30% nợ sẽ đáo hạn đến tháng 1 năm 2015, Bắc Kinh và Tứ Xuyên cũng có mức nợ ngắn hạn rất cao. Với chính sách phân cấp ngân sách mạnh và việc trao quyền rất lớn cho các địa phương được tự chủ nhiều hơn trong việc vay nợ, trong khi các chính sách kiểm 7 Cho đến năm 2009, dữ liệu nợ công của Trung Quốc chỉ bao gồm nợ của chính quyền trung ương theo báo cáo của Bộ Tài chính Trung Quốc. Đến năm 2010, dữ liệu nợ bao gồm nợ của địa phương như được thể hiện trong báo cáo kiểm toán quốc gia 2011. Theo ước tính của IMF trong Báo cáo của Nhân viên theo Điều IV 2013, nếu tính cả các khoản nợ gia tăng thêm – khi mở rộng phạm vi của chính phủ bao gồm cả các công cụ tài chính của chính quyền địa phương và các hoạt động ngoài ngân sách khác – thì quy mô nợ công sẽ lên đến 46,2% so với GDP tính đến cuối 2012. Các khoản thâm hụt ngân sách của Trung Quốc cũng không bao gồm các khoản chi tiêu, phần lớn là các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng được tài trợ ngoài ngân sách thông qua nguồn thu từ bán đất và các công cụ tài tài chính của chính quyền địa phương. 8 Truy cập tại docs/Bull%20in%20a%20China%20shop%2003%202014.pdf 9 Truy cập tại Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 6/76 soát rủi ro và giám sát lỏng lẻo đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho Chính phủ Trung Quốc trong việc đồng thời giải quyết hai bài toán nợ công và tăng trưởng kinh tế. Hình 3. Xu hướng nợ công của các nền kinh tế trên thế giới (% GDP) Nguồn: Ước tính của nhân viên IMF trong báo cáo Giám sát tài khóa (2014). Trong báo cáo Giám sát tài khóa tháng 4/2014, IMF cho rằng sự kết hợp giữa quy mô nợ công lớn với sự thiếu vắng các kế hoạch điều chỉnh trung hạn bao gồm các biện pháp cụ thể và các cải cách phúc lợi mạnh mẽ là yếu tố chính đằng sau những rủi ro tài khóa trung hạn quan trọng ở các nền kinh tế phát triển, bao gồm cả Mỹ. Trong khi đó, ở các nước kém phát triển việc tích lũy nợ công và nợ nước ngoài cũng là một cảnh báo đáng chú ý mà các nước này cần phải tránh. Ở một số nền kinh tế, chẳng hạn như Bra-xin, Trung Quốc, hay Venezuela, các rủi ro tiềm ẩn đối với ngân sách và nợ công đang tăng lên một cách đáng kể do các chính sách tựa tài khóa (quasi-fiscal) và thâm hụt buộc các nước này sẽ phải điều chỉnh nhanh chóng các chính sách có tính chất tựa tài khóa đó. Theo IMF (2014b), rủi ro tài khóa dù có dịu đi phần nào nhưng nhìn chung vẫn còn cao. Ở các nền kinh tế phát triển, các động thái chính sách gần đây của các chính phủ đã cho thấy sự ổn định rộng rãi về tỷ lệ nợ công, song triển vọng trung hạn vẫn chưa chắc chắn, và quy mô nợ vẫn ở mức cao trong lịch sử. Các nguy cơ tổn thương tài chính đang gia tăng ở cả các nền kinh tế thị trường mới nổi và các nước có thu nhập thấp, mặc dù nhiều nước trong số này có mức nợ tương đối vừa phải. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 7/76 Nguồn: Số liệu của IMF (2014b). Ở Việt Nam, nợ công bắt đầu tăng tốc mạnh kể từ năm 2009 khi nền kinh tế bắt đầu rơi vào suy giảm và Chính phủ thực hiện một số gói kích thích kinh tế nhằm vực dậy khu vực sản xuất và nền kinh tế. Số liệu thống kê tài chính của IMF cho thấy quy mô nợ công năm 2009 của Việt Nam đã tăng nhanh lên đến 47% GDP từ mức 39,4% năm 2008. Đến cuối năm 2012, nợ công của Việt Nam đã lên đến 50% GDP, trong khi số li ... riển thị trường trái phiếu chính phủ cũng phải được đặt trong tổng thể đề án tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó có cả thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu nội địa. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 71/76 Chuẩn mực báo cáo nợ Việt Nam hiện nay hầu như không có một chuẩn mực báo cáo nợ đầy đủ, kịp thời và chuyên nghiệp. Tính đến thời điểm hiện nay (6/2014) Bộ Tài chính mới công bố 2 bản tin nợ công, trong đó bản tin nợ công gần nhất cũng chỉ mới có số liệu đến cuối năm 2012. Kết cấu và nội dung của bản tin nợ công bất hợp lý và nghèo nàn thông tin. Chẳng hạn, toàn bộ Bản tin nợ công số 2 gồm có 20 trang, trong đó đã bao gồm 4 trang bìa (2 trang đầu và 2 trang cuối) và 2 trang trống. Nội dung quan trọng nhất của bản tin chỉ thể hiện ở ba trang (trang 11, 12, và 13), trong khi trang 14 chỉ vẽ 2 đồ thị đơn giản về cơ cấu nợ chính phủ và nợ chính phủ bảo lãnh trong nước với nước ngoài mà dữ liệu ở 2 trang trước đã trình bày. Phần còn lại của bản tin nợ công là lời nói đầu, danh mục chữ viết tắt, các thống kê tỷ giá và phần định nghĩa khái niệm. Riêng phần định nghĩa khái niệm đã chiếm đến 4 trang nhưng nội dung cũng chỉ lặp lại các khái niệm đã được định nghĩa trong các văn bản luật. Hơn nữa, nhiều thuật ngữ nợ công được giải thích nhưng không hiểu để làm gì khi phần thống kê dữ liệu nợ không có. Nói chung, phần định nghĩa này như một quyển từ điển thuật ngữ về nợ công hơn là một bản tin nợ công. Nếu so với nội dung Bản tin nợ nước ngoài (từ số 1 đến số 7) trước đó cũng do Bộ Tài chính phát hành thì các nội dung trong Bản tin nợ công sau này lại nghèo nàn hơn hẳn. Nếu so sánh với các báo cáo nợ công của nhiều nước trên thế giới, ngay cả ở những nước đang phát triển khác, thì bản tin nợ công của Việt Nam là không thể so sánh. Đây có thể xem là một sự thụt lùi trong việc thiết kế chuẩn mực báo cáo nợ công của Bộ Tài chính. Thực ra, theo đánh giá về năng lực thì Bộ Tài chính vẫn có thể thiết kế một chuẩn mực báo cáo về nợ công tốt hơn nhiều so với hiện nay, song vấn đề là động cơ liệu Bộ Tài chính có sẵn lòng cung cấp nhiều hơn các thông tin về nợ công cho công chúng hay không. XI. Tạm kết Cho đến trước năm 2009, các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động quản lý nợ công của Chính phủ không đầy đủ và thiếu đồng bộ. Các quy định về vay nợ, trả nợ, sử dụng nợ vay được quy định rãi rác ở nhiều nghị định, thông tư khác nhau, thiếu nhất quán và thống nhất. Từ khi Quốc hội thông qua Luật Quản lý nợ công năm 2009, Chính phủ đã nhanh chóng ban hành một loạt các quy định liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nợ công quốc gia. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn ở giai đoạn đầu triển khai và thường mất nhiều thời gian để có thể đi vào thực tiễn và phát huy tác dụng. Trong chừng mực đó, các thói quen, các quy tắc thường lệ liên quan đến quản lý nợ trước đây sẽ vẫn chi phối. Hơn nữa, như kinh nghiệm thực thi Luật Ngân sách từ năm 2002 đến nay cho thấy, mặc dù nhìn chung các quy định trong luật ngân sách là phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực quản lý ngân sách quốc gia, song trên thực tế việc áp dụng các quy định đó vào thực tiễn như thế nào để phù hợp với tinh thần của Luật vẫn còn là một điều thách thức. Chẳng hạn như tính kỷ luật tài khóa, các ràng buộc ngân sách “mềm” vẫn tiếp tục diễn ra trong khi Luật Ngân sách từ khi ban hành đã cố gắng áp đặt một kỷ luật ngân sách nghiêm khắc hơn. Chính vì vậy, việc áp dụng Luật Quản lý nợ công hiện nay có khả năng cũng không phải là ngoại lệ. Chính phủ cũng như các cơ quan liên quan có thẩm quyền và trách nhiệm trong quản lý nợ công cần phải nỗ lực nhiều, đặc biệt Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 72/76 là phải có quyết tâm và ý chí chính trị, mới có thể làm cho các tinh thần của Luật được tuân thủ một cách trọn vẹn trên thực tế. Có một điều đáng chú ý là năm 2009, khi Luật Quản lý nợ công ra đời, cũng là từ năm đó nợ công của Việt Nam liên tục tăng cao, gây quan ngại cho nhiều người. Gánh nặng và rủi ro nợ công đã bắt đầu được người dân chú ý hơn, trong khi Chính phủ có vẻ như cũng đang cảm thấy “thấm đòn” nợ công. Năm 2014, Chính phủ phải dành một phần ngân sách không nhỏ để cho trả nợ nhưng vẫn không đủ buộc phải đi vay thêm để đảo nợ. Tình trạng đảo nợ cho thấy rằng Chính phủ đang gặp trục trặc về khả năng trả nợ của mình. Tuy nhiên, ngay cả như vậy thì các rủi ro nợ công của Việt Nam vẫn chưa thực sự được bộc lộ hết qua các con số nợ công được Bộ Tài chính công bố hiện nay. Các thách thức và rủi ro nợ công của Việt Nam nằm ở triển vọng cải cách ngân sách và giảm thâm hụt ngân sách; các ràng buộc ngân sách lỏng lẻo, cùng với tình trạng thiếu kỷ cương, kỷ luật tài khóa; tăng trưởng kinh tế chậm lại trong khi các nỗ lực tái cơ cấu kinh tế có vẻ như đang bị trì hoãn; các khoản chi cho đầu tư từ ngân sách và nguồn trái phiếu chính phủ quá lớn và nhưng hiệu quả đầu tư lại quá thấp do tình trạng “ống bơ thủng”; bản thân các SOEs cũng đi vay nợ quá nhiều trong khi kết quả hoạt động lại nghèo nàn, làm tăng nghĩa vụ nợ tiềm ẩn cho ngân sách; nợ nước ngoài quá cao cũng gây sức ép lên chính sách tỷ giá, trong khi cơ chế tỷ giá hiện nay vừa khuyến khích vay nợ mới vừa làm giảm động lực cho việc gầy dựng và nuôi dưỡng ngành công nghiệp phụ trợ trong nước, v.v Các thách thức này không thể chỉ được giải quyết bằng chính sách quản lý nợ trong khuôn khổ của Luật Quản lý nợ công đã có cũng như các quy định kèm theo đó. Các quy định quản lý nợ công hiện nay nếu được áp dụng tốt nhất cũng chỉ giúp cho Việt Nam quản lý tốt hơn các khoản nợ công của mình và từ đó phần nào giảm được một số rủi ro liên quan, song nó vẫn không đủ và không thể loại bỏ hết được các nguyên nhân hình thành nợ công vốn có nguồn gốc sâu xa ở phương diện thượng tầng thể chế kinh tế. Việt Nam sẽ không thể giảm được gánh nặng nợ công nếu chừng nào kinh tế không thể tăng trưởng được một cách bền vững. Chính vì vậy, các nỗ lực kiểm soát không làm cho quy mô nợ công tăng lên và tăng nhanh là quan trọng, song vấn đề quan trọng hơn là phải thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Do đó, các nỗ lực tái cấu trúc kinh tế hiện nay, đặt trọng tâm vào cải cách thể chế, phải được tiến hành một cách mạnh mẽ và dứt khoát hơn nếu muốn thoát khỏi mối lo đổ vỡ của bong bóng nợ công, và cả mối nguy của bẫy thu nhập trung bình mà Việt Nam có thể sẽ dẫm phải./. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 73/76 TÀI LIỆU THAM KHẢO Austin D. A., and Levit M. R. (2013), The Debt Limit: History and Recent Increases. Congressional Research Service 7-5700. Barro R. J. (1999), Notes on Optimal Debt Management. Harvard University. Bartkowiak (2008). Public debt management. Theory and practice in the EU countries. Brownlee H. and Scott O. (1963), Utility, Liquidity, and Debt Management, Econo- metrica, XXXI, 349-62. Các bản tin nợ công và nợ nước ngoài của Bộ Tài chính. Cherif R. and Hasanov R. (2012), Public Debt Dynamics: The Effects of Austerity, Inflation, and Growth Shocks. IMF Working Paper WP/12/230. Cohen, J., (1955), A Theoretical Framework for Treasury Debt Management, American Economic Review, 45, 320-344. Currie, Dethier and Togo (2003), Institutional Arrangement for Public Debt Management. World Bank Policy Research Working Paper 3021, April 2003. Dadush U. et al. (2010), Paradigm Lost: the Euro in Crisis. Carnegie Endowment. Denes M., Eggertsson G. E., Gibukh S. (2012), Defi cits, Public Debt Dynamics, and Tax and Spending Multipliers. Federal Reserve Bank of New York. Staff Report No. 551. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2010), Khủng hoảng tiền tệ: Vấn đề Việt Nam và một số gợi ý chính sách. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013), Tương lai nợ công của Việt Nam: Xu hướng và Thử thách. WP201304, Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright. Dooley M. P. (2000), Debt Management and Crisis in Developing Countries. Journal of Development Economics, Vol. 63 (2000) 45-58. ECB (2005), Government Debt Management in the Euro Area-Recent Theoretical Developments and Changes in Practices. By Guido Wolswijk and Jakob de Haan. Occasional Paper Series N.25. ECB (2010), The Impact of High and Growing Government Debt on Economic Growth: an Empirical Investigation for the Euro Area. By Cristina Checherita and Philipp Rother. Working Paper Series No. 1237. Eichengreen et al. (2011), Public Debt: Nuts, Bolts, and Worries. Geneva Reports on the World Economy 13. ICMB, Centre for Economic Policy Research. ISBN: 978-1-907142-31-4. Favero C., Alessandro M. và Gustavo Piga (2000), EMU and Public Debt Management: One Money, One Debt? Centre for Economic Policy Research Policy Paper. Friedman, B.M., (1978), Crowding Out or Crowding In? The Economic Consequences of Financing Government Deficits. Brookings Papers on Economic Activity, 1978:3, 593-654 Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 74/76 Garcia et al. (2000), Debt management in Brazil: Evaluation of the Real Plan and Challenges Ahead. Policy Research Working Paper Series 2402, The World Bank. Gill I. and Pinto B. (2005), Public Debt in Developing Countries: Has the Market-Based Model Worked? World Bank Policy Research Working Paper 3674. Golebiowski và Bartkowiak (2010), Governance of the Public Debt Management Agency in Selected OECD Countries. Goto Yasuo (2008), Governance of the Management of Public Debt in Japan. Policy Research Institute, Ministry of Finance, Japan. Public Policy Review, Vol. 4, No.1, December. Grechyna D. (2012), Public Corruption and Public Debt: Some Empirical Evidence. University of Auckland, Department of Economics. Harvard Kennedy School and FETP (2012), Bài thảo luận chính sách Cải cách cơ cấu vì mục tiêu tăng trưởng, công bằng và chủ quyền quốc gia. Chương trình Lãnh đạo cao cấp Việt Nam (VELP), tháng 2/2012. Harvard Kennedy School and FETP (2013), Bài thảo luận chính sách Khơi thông những nút thắt thể chế để phục hồi tăng trưởng. Chương trình Lãnh đạo cao cấp Việt Nam (VELP), tháng 8/2013. Honkapohja S. (2013), The Euro Crisis: a View from the North. Bank of Finland Research, Discussion Papers. IMF (2000), Code of Good Practices on Transparency in Monetary and Financial Policies (MFP Transparency Code)”. IMF (2013), Public Sector Debt Statistics – Guide for Compilers and Users. IMF (2014a), Revised Guidelines for Public Debt Management. IMF (2014b), Fiscal Monitoring. Lê Đăng Doanh (2014), “Cảnh báo sau nghi án tham nhũng”. Báo Tia Sáng. Lora E. and Olivera M. (2006), Public Debt and Social Expenditure: Friends or Foes? Inter- American Development Bank, Working Paper #563. Mansori 2010, What Really Caused the Eurozone Crisis? Melecky M. (2007), A Cross-Country Analysis of Public Debt Management Strategies. Policy Research Working Paper 4287. Mongolli F.P. (2013), The Mutating Euro Area Crisis: Ss the Balance between “Sceptics” and “Advocates” Shifting? Occasion Paper Series, No. 144. ECB Feb 2013. Musgrave, R.A., (1959), The Theory of Public Finance, McGraw-Hill Book Company, New York. OECD (2010), “Economic Survey of the Euro Area”, OECD, Paris. Phạm Thế Anh (2013), Nợ công của Việt Nam: Nguồn hình thành và rủi ro vĩ mô. Roley, V.V., (1979), A Theory of Federal Debt Management". American Economic Review, 69, 915-926. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 75/76 Rolph, E. R. (1957), "Principles of Debt Management," American Economic Review, XLVII, 302- 20. Shambaugh, J.C. (2012), “The Euro’s Three Crises”, Brookings Papers on Economic Activity, Spring. Soros, G. (2012a), “The Tragedy of the European Union and How to Resolve It”, The New York Review of Books, europeanunion-and-how-resolve-it/ Tobin J. (1963), An Essay on the Principles of Debt Management," Commission on Money and Credit, Fiscal and Debt Management Policies, Englewood Cliffs: Prentice-Hall. Tobin, J. (1963), “An Essay on Principles of Debt Management”, Fiscal and Debt Management Policies, Englewood Cliffs. Togo, E. (2007). Coordinating Public Debt Management with Fiscal and Monetary Policies: An Analytical Framework. manuscript, Banking and Debt Management Department, World Bank. Washington, D.C. Tokuaka K. (2010), The Outlook for Financing Japan’s Public Debt. IMF Working Paper WP/10/19. Udaibir S. D., Michael G. P., Christoph T. (2012), Sovereign Debt Restructurings 1950-2010: Literature Review Survey, Data, and Stylized Facts. IMF Working Paper WP/12/203. UNCTAD (2002), Role and Organization of a Debt Office. By Borresen and Pascal. UN, New York and Geneva. UNCTAD (2008), Domestic and External Public Debt in Developing Countries. Discussion Paper No. 188. Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam Trang 76/76 PHỤ LỤC Phụ lục 1. Tổng thu và chi chính phủ ở một số nước/nhóm nước năm 2013 (% GDP) TT Quốc gia Thu của chính phủ Chi của chính phủ TT Quốc gia Thu của chính phủ Chi của chính phủ 1 Na Uy 56.4% 44.1% 20 Trung bình TG 31.7% 33.6% 2 Đan Mạnh 54.8% 57.6% 21 Nhật Bản 31.6% 41.4% 3 Phần Lan 54.2% 56.2% 22 Mới nổi và ĐPT 27.8% 29.7% 4 Pháp 52.9% 56.6% 23 Việt Nam 25.0% 29.0% 5 Thụy Điển 49.9% 50.7% 24 Malaysia 24.0% 28.1% 6 Ý 48.2% 50.8% 25 Hàn Quốc 23.3% 20.9% 7 Eurozone 46.5% 49.4% 26 Singapore 22.8% 17.8% 8 Đức 44.4% 44.7% 27 Trung Quốc 22.1% 24.2% 9 Hy Lạp 43.0% 47.5% 28 Thái Lan 21.6% 24.3% 10 Bồ Đào Nha 42.6% 48.1% 29 Đang PT châu Á 21.3% 24.4% 11 Anh 38.6% 45.6% 30 Hồng Kông 20.3% 18.6% 12 G7 37.1% 42.9% 31 ASEAN 5 20.0% 22.8% 13 Tây Ban Nha 37.1% 43.7% 32 Myanmar 19.8% 25.0% 14 Nga 36.2% 36.5% 33 Lào 19.7% 22.2% 15 New Zealand 34.6% 36.5% 34 Ấn Độ 19.5% 27.8% 16 Úc 34.5% 35.6% 35 Đài Loan 19.0% 22.0% 17 Ai Len 34.0% 41.6% 36 Philippines 18.1% 18.9% 18 Thụy Sĩ 33.2% 33.0% 37 Indonesia 17.6% 20.5% 19 Mỹ 32.9% 39.5% 38 Cam-pu-chia 16.6% 19.4% Nguồn: Cơ sở dữ liệu thống kê tài chính quốc tế của IMF. Phụ lục 2. Cơ cấu vốn đầu tư xã hội (tỉ VND) 2001-05 2006-10 2011 2012 2013e Tổng đầu tư xã hội 1243.9 3132.7 924.5 1010.1 1075.5 So với GDP (%) 39 42.7 33.3 31.1 29.1 Đầu tư công 664.2 1341.6 341.6 394.5 403.6 Tỷ trọng 53.4% 42.8% 36.9% 39.1% 37.5% Vốn đầu tư từ nguồn NSNN 285.3 664.5 178 205 201.6 Tỷ trọng 22.9% 21.2% 19.3% 20.3% 18.7% Vốn TPCP 19.5 169.2 44.9 62.2 57.8 Tỷ trọng 1.6% 5.4% 4.9% 6.2% 5.4% Vốn tín dụng nhà nước 174.2 197 69.2 40.3 53.4 Tỷ trọng 14.0% 6.3% 7.5% 4.0% 5.0% Đầu tư của DNNN 185.2 310.9 49.5 87 90.8 Tỷ trọng 14.9% 9.9% 5.4% 8.6% 8.4% Vốn đầu tư nhân 579.7 1791.1 582.9 615.6 671.9 Tỷ trọng 46.6% 57.2% 63.1% 60.9% 62.5% Đầu tư tư nhân trong nước 403.7 1155.4 356 385 407.4 Tỷ trọng 32.5% 36.9% 38.5% 38.1% 37.9% Đầu tư trực tiếp nước ngoài 176 606.2 226.9 218.6 241.5 Tỷ trọng 14.1% 19.4% 24.5% 21.6% 22.5% Đầu tư khác 29.5 12 23 Tỷ trọng 0.9% 1.2% 2.1% Nguồn: Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
File đính kèm:
cac_mo_thuc_quan_ly_no_cong_va_van_de_cua_viet_nam.pdf