Các khoáng chất giúp bổ sung và hấp thu sắt

Trong thai kỳ, dinh dưỡng của thai nhi phụ thuộc vào dinh dưỡng của mẹ. Nguồn dinh dưỡng từ mẹ sẽ theo máu qua nhau thai đến cung cấp cho con. Vì vậy khi có thai, mẹ vừa ăn cho mình, vừa ăn cho con. Ngoài những thực phẩm cơ bản là protid, glucid, lipid, nhu cầu của nhiều loại vitamin và khoáng chất cũng tăng lên khi phụ nữ mang thai, đặc biệt là vân đề thiếu sắt. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng năm 2009 thì có 36,5% phụ nữ mang thai bị thiếu máu thiếu sắt.

Sắt là một trong những khoáng chất quan trọng, giúp cơ thể tổng hợp hemoglobin tạo hồng cầu và vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Hai phần ba lượng sắt chứa trong hemoglobin, phần còn lại nằm trong hệ liên võng nội mô tại gan, lách, tủy xương Thiếu sắt sẽ ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp Hemoglobin gây ra thiếu máu do thiếu sắt

pdf 8 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Các khoáng chất giúp bổ sung và hấp thu sắt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các khoáng chất giúp bổ sung và hấp thu sắt

Các khoáng chất giúp bổ sung và hấp thu sắt
59
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Các khoáng chất giúp bổ sung và hấp thu sắt 
Nguyễn Thị Thanh Hà* 
Trong thai kỳ, dinh dưỡng của thai nhi 
phụ thuộc vào dinh dưỡng của mẹ. Nguồn 
dinh dưỡng từ mẹ sẽ theo máu qua nhau 
thai đến cung cấp cho con. Vì vậy khi có 
thai, mẹ vừa ăn cho mình, vừa ăn cho con. 
Ngoài những thực phẩm cơ bản là protid, 
glucid, lipid, nhu cầu của nhiều loại 
vitamin và khoáng chất cũng tăng lên khi 
phụ nữ mang thai, đặc biệt là vân đề thiếu 
sắt. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng 
năm 2009 thì có 36,5% phụ nữ mang thai 
bị thiếu máu thiếu sắt. 
 Sắt là một trong những khoáng chất 
quan trọng, giúp cơ thể tổng hợp 
hemoglobin tạo hồng cầu và vận chuyển 
oxy đi khắp cơ thể. Hai phần ba lượng sắt 
chứa trong hemoglobin, phần còn lại nằm 
trong hệ liên võng nội mô tại gan, lách, tủy 
xương Thiếu sắt sẽ ảnh hưởng đến quá 
trình tổng hợp Hemoglobin gây ra thiếu 
máu do thiếu sắt. 
_________________________________________
* BV Mekong, Email: [email protected], 
 DĐ: 0913777383 
Sắt 
Sắt là một nguyên tố vi lượng, có trong các 
khoáng chất và nguồn nước. Là một vi 
chất dinh dưỡng thiết yếu trong chế độ ăn, 
sắt được cung cấp chủ yếu từ các nguồn 
động vật như thịt đỏ và các nguồn từ thực 
vật như rau xanh và cây họ đậu, trong đó 
nguồn cung cấp từ thực vật dễ hấp thu 
hơn. 
Hình 1. Cấu trúc hóa học của sắt bisglycinate, một 
dạng phức hợp chelate của sắt, trong đó sắt hóa trị 
2 (Fe2+) được liên kết với 2 đầu của hai phân tử 
glycin. Ở dạng này, sắt có sinh khả dụng cao hơn 
gấp 4 lần. 
Cơ chế tác dụng 
Sắt là một thành phần thiết yếu, tham gia 
vào cấu tạo nhân hem của các protein tạo 
liên kết thuận nghịch với oxy và vận 
chuyển oxy vào máu (hemoglobin) và cơ 
(myoglobin). Khoảng 80% lượng sắt trong 
cơ thể nằm trong hemoglobin. Các trường 
hợp giảm lưu thông sắt trong máu thay đổi 
độ nhạy cảm của các thụ thể transferrin, 
điều này dẫn đến tăng cường nồng độ EPO 
(erythropoietin), kích thích tạo hồng cầu ở 
tủy xương của người trưởng thành. Để cân 
bằng nồng độ sắt trong máu, hepcidin sẽ 
điều hòa sắt dự trữ ở gan vào máu. Trong 
giai đoạn phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ 
nhỏ, nhu cầu sắt tăng cao để hỗ trợ cho sự 
tăng trưởng và phát triển của hệ thống tim 
mạch và tạo máu, từ đó hỗ trợ cho sự phát 
triển của não và các cơ quan khác. 
 Sắt cũng có chức năng như một đồng tố 
với nhiều enzyme trong ty thể kể cả các 
60
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
phức hợp cytochrome để điều hòa sản sinh 
năng lượng và cân bằng oxy hóa khử. Sắt 
hóa trị 2 có sinh khả dụng cao hơn, có thể 
phản ứng trực tiếp với các ion hydroxyl và 
các gốc oxy tự do khác tạo thành sắt hóa 
trị 3. Trong dạng phức hợp chelate, (hình 
1), sinh khả dụng của sắt hóa trị 2 được 
tăng cường (xem hình dưới). 
Bằng chứng 
Sự thiếu hụt dinh dưỡng là nguyên nhân 
gây thiếu sắt phổ biến nhất. Đây là cơ sở 
chủ yếu để bổ sung chế độ ăn cho từng 
trường hợp cụ thể. Thiếu sắt đi kèm với 
nồng độ hemoglobin dưới mức sinh lý dẫn 
đến thiếu máu do thiếu sắt. Nguyên nhân 
là do sự cung cấp sắt đến tủy xương giảm, 
dẫn đến thiếu nguyên liệu cho quá trình tạo 
hồng cầu ngay cả khi dự trữ sắt trong cơ 
thể chưa cạn kiệt hoàn toàn. Mặc dù phổ 
biến hơn ở các nước đang phát triển, sự 
thiếu hụt sắt xuất hiện ngay cả khi chế độ 
dinh dưỡng đầy đủ. Các nhóm đối tượng 
nguy cơ thiếu sắt bao gồm phụ nữ mang 
thai;phụ nữ không mang thai nhưngcó chế 
độ dinh dưỡng chưa đạt mức tối ưu trong 
chu kỳ kinh nguyệt và người trưởng thành 
bị viêm mạn tính hoặc nhiễm trùng. 
 Bổ sung sắt trong chế độ ăn vẫn là giải 
pháp hiệu quả nhất đối với các chỉ định về 
huyết học trong các bệnh tim mạch.Các 
nhóm nguy cơ đặc biệt bao gồm phụ nữ có 
thai hoặc cường kinh, người bị ung thư 
ruột hoặc có các vấn đề về dạ dày, ruột, 
người bị suy tim mạn tính. Một phân tích 
meta gần đây cho thấy việc bổ sung sắt 
bằng các viên thuốc bổ sung mang lại hiệu 
quả lâm sàng trong việc phòng ngừa IDA 
(iron deficiency anemia) cho phụ nữ đang 
trong chu kì kinh nguyệt.1 Tác dụng tương 
tự cũng được ghi nhận trên phụ nữ có thai 
kèm theo chậm phát triển bào thai và bệnh 
tật ở trẻ sơ sinh. Các lợi ích khác cũng 
được tìm thấy trên bệnh suy tim mạn tính, 
khi việc bổ sung sắt còn giúp giảm thời 
gian nằm viện. Trong hầu hết các nghiên 
cứu lâm sàng được đánh giá, liều sử dụng 
tính theo sắt nguyên tố dao động trong 
khoảng 10-300 mg/ngày. Moretti và cộng 
sự đã chứng minh mối liên quan tích cực 
giữa việc hấp thu sắt toàn phần và sắt 
sulfate liều lượngtừ 40-240 mg. Tuy nhiên, 
liều dưới 40-80 mg có tác dụng ngăn ngừa 
dư thừa hepcidin cấp tính - tình trạng dẫn 
đến ức chế tạm thời sự hấp thu sắt vào 
ruột. 
Sắt bisglycinate 
Mặc dù được sử dụng không phổ biến 
bằng sắt sulfate, dạng phức hợp chelate 
của sắt với amino axit được chứng minh có 
sự hấp thu và dung nạp tốt hơn khi thí 
nghiệm trên động vật (in vivo)và có thể tan 
được tại nhiều mức pH khác nhau. Các 
nghiên cứu lâm sàng ở phụ nữ mang thai 
cũng đưa ra các kết quả huyết học tương tự 
với liều bổ sung thấp hơn so với sắt 
sulfate.2 Trong một nghiên cứu sơ bộ của 
Szarfarc và cộng sự,2 liều 15 mg/ngàychế 
phẩm sắt bisglycinate độc quyền 
(Ferrochel®)mang lại tác dụng tương tự 
như liều 40 mg/ngày sắt sulfate khi so sánh 
các thông số huyết học ở người mẹ trong 
khi tần suất thiếu sắt ít hơn rất nhiều (hình 
2). Ferrochel® cũng được chứng minh lâm 
sàng về tác dụng ngăn ngừa thiếu máu do 
thiếu sắt ở trẻ 1 tuổi. Trong một nghiên 
cứu so sánh, sử dụng sắt sulfate ở mức liều 
5 mg/kg (tương đương với mức liều 30-48 
mg/ngày) mang lại hiệu quả tương đương 
với sắt bisglycinate khi sử dụng ở mức liều 
tương tự trong việc cải thiện nồng độ 
hemoglobin, muối bisglycinate ưu việt hơn 
trong việc cải thiện nồng độ ferritin máu 
và sinh khả dụng nói chung (91 vs 27%). 
Trong một nghiên cứu trước đócủa cùng 
tác giả, hàm lượng 30 mg sắt bisglycinate 
cho tác dụng tương tự như 120 mg sắt 
sulfate trong phòng ngừa IDA ở thanh 
thiếu niên.Trong một thử nghiệm lâm sàng 
gần đây tiến hành trên trẻ em đang trong 
độ tuổi đi học bị thiếu sắt ở Mexico, bổ 
sung 30 mg sắt sulfate hoặc sắt 
bisglycinate có tác dụng tương đương 
nhau, tuy nhiên sắt bisglycinate cải thiện 
nồng độ ferritin tốt hơn sau 6 tháng điều trị 
61
THÔNG TIN CẬP NHẬT
tiếp theo.3 Trong một thử nghiệm lâm 
sàng khác gần đây được tiến hành bởi 
Milman và cộng sự, sử dụng liều 25 
mg/ngày sắt bisglycinate độc 
quyền(Aminojern®) cho các thông số 
huyết học tương tự như sắt sulfate ở người 
mẹ, không có kết quả thống kê trên cân 
nặng trẻ sơ sinh. Các nghiên cứu này cũng 
đưa ra một kết quả quan trọng, đó là các 
tác dụng phụ trên đường tiêu hóa giảm 
đáng kể khi sử dụng sắt bisglycinate 
(hình 3). 
Hình 2. Bổ sung 15mg/ngày sắt bisglycinate 
(Ferrochel®)làm giảm đáng kể tần suất thiếu sắt ở 
phụ nữ mang thai, so với sắt sulfate (liều 40 
mg/ngày) (*P<0.05).2 
Hình 3. Tần suất xuất hiện các tác dụng phụ trên 
đường tiêu hóa bao gồm buồn nôn, đau bụng, phân 
đen giảm đáng kể ở phụ nữ dùng 25 mg 
Ferrochel®/ngày so với sử dụng 50 mg sắt 
sulfate/ngày (**P<0.001).10 
Các nghiên cứu đã chứng minh phức hợp 
chelate sắt bisglycinate mang lại hiệu quả 
lâm sàng ở mức liều 15-50mg và an toàn 
cho cả người lớn và trẻ em. Gần như 
không có độc tính cấp ở mức liều này, do 
đó Ferrochel® đã được FDA đánh giá là 
an toàn khi sử dụng (GRAS).4 Một cơ 
quan có thẩm quyền của châu Âu cũng đã 
đánh giá việc bổ sung sắt bisglycinate và 
sự đáp ứng liều trong một loạt các nghiên 
cứu trên người và động vật.5 Dựa trên các 
tiêu chuẩn sinh học, cơ quan này đã đưa ra 
kết luận sắt bisglycinate an toàn khi sử 
dụng. 
Axit folic 
Axit folic là dạng folate tồn tại trong chế 
độ ăn và là một vitamin nhóm B tan trong 
nước thiết yếu, với các vai trò chuyển hóa 
trong việc biến đổicarbon để tổng hợp và 
methyl hóa ADN thông qua folate và chu 
trình methyl. 
Cơ chế tác dụng 
Ở cấp độ mô, folate cần thiết cho sự phân 
chia tế bào, các mô có nhu cầu folate cao 
để tăng trưởng. Đóng vai trò trung gian 
trong chuyển hóa C-1, axit folic tham gia 
vào việc biến đổi nhóm methyl giữa 
methionine và homocysteinđể tổng hợp và 
methyl hóa ADN. Đây là một cơ chế biểu 
sinh quan trọng để các quá trình tái thiết 
lập sự cân bằng để điều hòa sự phân hóa. 
Sự phát triển của thai nhi trong giai đoạn 
sớm (đặc biệt là 3 tháng đầu của thai kỳ) 
phụ thuộc vào việc cung cấp axit folic liên 
tục ở người mẹ để phát triển các cơ quan 
chính, nổi bật là hệ thống thần kinh trung 
ương và hệ thống tim mạch. 
 Liên quan đến nồng độ sắt trong cơ thể, 
vai trò chính của axit folic là duy trì quá 
trình tạo máu. Quá trình này bắt đầu trong 
giai đoạn sớm của thai nhi và tiếp diễn cho 
đến tuổi trưởng thành, sử dụng cơ chế 
phân hóa. Người trưởng thành có nhu cầu 
sản xuất hồng cầu hàng ngày rất lớn, ước 
tính có gần 2 triệu tế bào hồng cầu được 
sản xuất trong một giây bởi các tế bào 
hồng cầu ở tủy xương. Do vậy, cần cung 
cấp thường xuyên sắt, folate và các 
vitamin B để duy trì nồng độ hemoglobin 
dồi dào, từ đó đáp ứng nhu cầu hồng cầu 
cho cơ thể. 
Bằng chứng 
Trước đây axit folic được bổ sung kết hợp 
với sắt để cải thiện sự tổng hợp 
62
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
hemoglobin và phòng ngừa thiếu sắt. Đặc 
biệt ở phụ nữ có thai, nhu cầu folate tăng 
gấp 3 lần bình thường nên thiếu máu ở phụ 
nữ mang thai thường đi kèm với thiếu 
folate.6 Các nghiên cứu lâm sàng ban đầu 
vẫn có sự tranh luận về việc bổ sung đều 
đặn kết hợp cả sắt và axit folic.7 Ngày nay, 
WHO tiếp tục ủng hộ việc sử dụng folate 
kết hợp cùng sắt cho phụ nữ có thai, để 
giảm nguy cơ thiếu máu ở cả người mẹ và 
trẻ sơ sinh, giảm nguy cơ trẻ sơ sinh bị 
thiếu cân và các vấn đề khác khi mang 
thai,8 đặc biệt ở khu vực các nước đang 
phát triển thường tiêu thụ ít protein. 
 Axit folic cũng thể hiện tác dụng độc lập 
trong việc phòng ngừa nguy cơ dị tật ở trẻ 
sau khi sinh.Kết quả các nghiên cứu lâm 
sàng cho thấy lợi ích của việc bổ sung sắt, 
folate và/hoặc các vi chất dinh dưỡng 
(MMN = Multiple micronutrient) trước 
hoặc trong suốt thời gian mang thai trong 
việc phòng ngừa các vấn đề khi sinh. Tuy 
nhiên, ngay cả khi chỉ bổ sung 400 µg 
folate riêng lẻ/ngày, thậm chí sử dụng 
trước khi thụ thaiđã là đủ để giảm đáng kể 
nguy cơ dị tật ống thần kinh (NTDs 
= neural tube defect). Kết quả này dựa 
trên các bằng chứng trước đó về mối liên 
quan giữa nồng độ folate trong máu người 
mẹ và tỉ lệ dị tật ống thần kinh. Do vậy, 
WHO khuyến cáo nên bổ sung folate cho 
phụ nữ mang thai sẽ mang lại hiệu quả lâm 
sàng cao hơn so với việc chỉ bổ sung thông 
qua chế độ ăn hàng ngày.9 
 Trong quản lý bệnh tim mạch (CVD), 
axit folic thể hiện lợi ích lâm sàng thông 
qua việc làm giảm nồng độ cystein máu. 
Trong một số thử nghiệm lâm sàng sớm, 
sử dụng liều cao axit folic (5-10 mg/ngày) 
trong vòng 1 năm có tác dụng làm giảm 
nồng độ homocystein máu và cải thiện tính 
đàn hồi của động mạch so với nhóm 
chứng. Các thử nghiệm gần đây đã sử 
dụng folate ở mức liều thấp hơn (1-2 
mg/ngày), nhưng được kết hợp với MMN 
như vitamin B6 và B12.Nhìn chung, axit 
folic và các đồng tố có liên quan đến 
chuyển hóa C-1 có khả năng giảm thiểu 
tổn thương do oxy hóa ở mạch máu. Axit 
folic cũng liên quan đến nồng độ các lipid 
trong máu – một yếu tố nguy cơ độc lập 
đối với bệnh tim mạch. Bổ sung 400 µg 
axit folic ở bệnh nhân có các yếu tố nguy 
cơ xơ vữa động mạch cho thấy nồng độ 
cholesterol, LDL và ApoA1 giảm so với 
giả dược. 
Canxifolinate 
Canxi folinate là dạng dễ hấp thu hơn của 
axit folic, có thể chuyển hóa trực tiếp 
thành tetrahydrofolate, bỏ qua các bước 
chuyển hóa axit folic. 
Cơ chế tác dụng 
Sau khi hấp thu, axit folic được chuyển 
hóa thành folate ở gan, chất này sau đó 
được chuyển hóa thành dạng có hoạt tính 
trong tế bào dưới sự xúc tác của enzyme. 
Trong khi đó axit folinic trực tiếp tạo 
thành chất trung gian có hoạt tính, bỏ qua 
các bước chuyển hóa, cung cấp nhiều 
folate hơn ở mức liều thấp hơn.Axit folinic 
chuyển hóa thành dạng folate có hoạt tính 
một cách dễ dàng hơn do không yêu cầu sự 
tham gia của các enzyme (hình 4). Việc bỏ 
qua các bước chuyển hóa có thể giảm nguy 
cơ axit folic không chuyển hóa được. Axit 
folic không được chuyển hóa kết hợp với 
tăng cường dinh dưỡng trong thức ăn có 
thể dẫn đến tích lũy axit folic trong một số 
trường hợp.10 Trong khoảng 10% người 
mang gen đột biến MTHFR bị giảm khả 
năng chuyển hóa axit folic thành folate, 
việc sử dụng axit folinic có thể mang lại 
lợi ích. 
Bằng chứng 
Từ những năm 1950, axit folinic đã được 
sử dụng bổ sung thêm ngoài chế độ ăn 
theo cơ chế tương tự như axit folic. Gần 
đây, hiệu quả lâm sàng của axit folinic đã 
được chứng minh dưới dạng thuốc độc 
quyền leucovorin, được sử dụng như một 
thuốc hỗ trợ trong hóa trị liệu ung thư với 
5-fluorouracil và methotrexate. Cả hai 
63
THÔNG TIN CẬP NHẬT
thuốc này đều ức chế tổng hợp ADN để 
tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách phong 
tỏa các enzyme tổng hợp pyrimidin trong 
chuyển hóa folate. Do vậy, bổ sung axit 
folinic từ bên ngoài không ảnh hưởng đến 
các tế bào bình thường do bỏ qua sự phong 
tỏa này. Điều này đặc biệt quan trọng để 
bảo vệ tủy xương, ngăn ngừa cái chết hàng 
loạt của các tế bào hồng cầu,tiền thân tạo 
máu trong quá trình điều trị. Bệnh nhân 
đang trong quá trình điều trị thường bị 
giảm sản xuất hồng cầu, do đó cần tăng 
cường sử dụng sắt để duy trì nồng độ 
hemoglobin.Mặc dù các hướng điều trị này 
yêu cầu axit folinic liều cao (10-20 mg), 
tuy nhiên vẫn chứng minh được hiệu quả 
lâm sàng trong điều hòa cân bằng sắt ở các 
tình trạng bệnh lý. 
Hình 4. Sơ đồ chuyển hóa folate, canxi folinate 
chuyển hóa trực tiếp thành 5-methyl-
tetrahydrofolate, dạng có hoạt tính sinh học của 
folate, bỏ qua các bước chuyển hóa chính. 
 Axit folinic đã được chứng minh hiệu 
quả lâm sàng trong các tình trạng bệnh lý 
khác như tình trạng thiếu máu. Trước đây, 
axit folinic đã được sử dụng thành công để 
điều trị thiếu máu nguyên hồng cầu khổng 
lồ và thiếu máu ác tính (thiếu vitamin 
B12). Liều 370 mcg axit folinic/ngày kết 
hợp với 80mg phức sắt chelate/ngày hiệu 
quả hơn việc bổ sung sắt đơn độc (không 
kết hợp với folate) cho bệnh thiếu máu do 
thiếu sắt (IDA) khi mang thai.11 Cả hai 
cách điều trị đều làm tăng nồng độ 
hemoglobin nhưng kết quả rõ rệt hơn khi 
bổ sung sắt kết hợp với axit folic ở những 
phụ nữ có nồng độ hemoglobin thấp hơn 
(hình 5). 
Hình 5. Sự thay đổi nồng độ hemoglobin theo thời 
gian ở phụ nữ mang thai bị thiếu máu do thiếu sắt. 
Trong khoảng tứ phân vị thấp nhất, bổ sung sắt 
+370 mcg folate/ngày cho thấy sự hồi phục rõ rệt 
hơn so với chỉ sử dụng đơn độc sắt (*P<0.01) [35]. 
Axit ascorbic (vitamin C) 
Axit ascorbic là một vitamin quan trọng, 
tan trong nước, hoạt động như một đồng tố 
của enzyme trong việc tổng hợp L-
cartinine và các catecholamine.Vì cơ thể 
người không thể tự tạo ra vitamin C nên 
việc cung cấp từ chế độ ăn là bắt 
buộc.Trong khoang ruột và hệ thống tuần 
hoàn, ascorbate còn là một chất chống oxy 
hóa tiềm năng, có đặc tính kháng vi khuẩn 
và kháng viêm, cũng như hỗ trợ hấp thu 
sắt. 
Cơ chế tác dụng 
Vai trò của axit ascorbic trong cân bằng 
nội môi sắt thường liên quan đến khả năng 
tăng cường hấp thu sắt ở ruột và giảm 
stress oxy hóa.Vitamin C phản ứng với 
Fe3+ để tạo thành dạng sắt hấp thu trong cơ 
thể Fe2+, sau đó Fe2+ được vận chuyển tích 
cực qua màng tế bào ruột. Các nghiên cứu 
in vitro sử dụng các tế bào ruột đã cho thấy 
sự vận chuyển sắt phụ thuộc vào ascorbate 
có thể diễn ra ở cả mặt đỉnh và mặt đáy tế 
bào thông qua sự điều hòa lên hoặc xuống 
64
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
của các kênh vận chuyển. Do vậy, sự vận 
chuyển được điều hòa bởi cả quá trình hấp 
thu qua màng tế bào và vận chuyển vào 
máu. Ascorbate cũng điều hòa sản xuất 
hepcidin và các thụ thể của EPO trong các 
tế bào gan được nuôi cấy, từ đó ảnh hưởng 
lớn đến nồng độ sắt trong cơ thể.Trong các 
tình trạng bị stress như thiếu oxy ở mô, 
viêm mạn tính hay thiếu dinh dưỡng, 
ascorbate đóng vai trò như một chất chống 
oxy hóa mang lại các lợi ích chuyển hóa. 
Bằng chứng 
Các bằng chứng khoa học cho thấy 
ascorbate có hiệu quả trong việc khôi phục 
cân bằng sắt, nhưng cũng mang lại các lợi 
ích về mặt chuyển hóa do có đặc tính 
chống oxy hóa và kháng viêm. Chỉ sử 
dụng 1000 mg axit ascorbic/ngày trong 
vòng 2 tháng thể hiện khả năng điều chỉnh 
rõ rệt IDA trên các đối tượng nghiên cứu. 
Nghiên cứu này cũng cho thấy, sau khi 
điều trị bằng axit ascorbic, nồng độ sắt, 
hemoglobin và ferritin máu tăng đáng kể 
(hình 6). Trong một nghiên cứu so sánh 
khác, sử dụng kết hợp 50mg sắt và 500mg 
ascorbate ở nữ giới khỏe mạnh bị thiếu hụt 
hồng cầu tạm thời sau khi hiến máu, sự hồi 
phục hemoglobin được cải thiện hơn.12 
Một nghiên cứu lâm sàng khác cho thấy 
ascorbate và sắt có hiệu quả tốt trong việc 
cải thiện sự bão hòa ferritin và nồng độ 
hepcidin ở mức liều thấp hơn (~30mg), tuy 
nhiên ở phụ nữ bị thừa cân và béo phì, sự 
cải thiện này không rõ rệt.13 Kết quả này 
có thể do sự rối loạn chuyển hóa và viêm 
có thể ảnh hưởng đến tác dụng chống oxy 
hóa của ascorbate. Liều tương tự 
sắt/ascorbate dùng hàng ngày ở phụ nữ trẻ 
làm giảm đáng kể các tác nhân sinh học 
gây nên stress oxy hóa và giảm tình trạng 
thiếu sắt không thiếu máu. Một nghiên cứu 
sử dụng liều 60 hoặc 260 mg ascorbate, 
cùng với 14mg sắt/ngày làm tăng sự bão 
hòa transferrin và nồng độ vitamin E trong 
máu, làm giảm sự oxy hóa lipid và giảm 
hoạt hóa tiểu cầu so với trước khi điều trị, 
sự khác biệt xuất hiện sớm hơn ở mức liều 
ascorbate cao hơn. 
Hình 6. Các thông số máu trước và sau khi bổ sung 
1000 mg axit ascorbic đường uống, thể hiện sự cải 
thiện IDA (*P<0.01). 
Vitamin B (vitamin B1, B2, B6, B12) 
Như sắt, các vitamin nhóm B có nhiều 
trong thịt đỏ và các nguồn protein khác.Vì 
vậy, những người ăn chay thường bị thiếu 
các vitamin B và do đó dễ bị thiếu sắt. 
Cơ chế tác dụng 
Các vitamin nhóm B đóng vai trò quan 
trọng trong chuyển hóa sắt.Vitamin B6 
(pyridoxine) và B12 (cyanocobalamin) là 
các đồng tố quan trọng trong quá trình 
chuyển hóa folate, do đó hỗ trợ cho cơ chế 
tác dụng của axit folic được miêu tả ở trên. 
Vitamin B12 chỉ được cung cấp thông qua 
chế độ ăn, sự thiếu hụt nghiêm trọng 
vitamin B12 có thể gây ra thiếu máu ác 
65
THÔNG TIN CẬP NHẬT
tính, đặc trưng bởi sự giảm nồng độ hồng 
cầu do giảm khả năng tạo hồng cầu. 
Vitamin B1 (thiamine) và B2 (riboflavin) 
là tiền chất của các đồng tố liên kết với 
pyruvate dehydrogenase (PDH) trong ty 
thể. Đây là enzyme quan trọng xúc tác cho 
bước đầu tiên trong quá trình chuyển hóa 
carbohydrate thành ATP. Trong chuyển 
hóa sắt, PDH quan trọng trong việc cung 
cấp năng lượng để tổng hợp hemoglobin 
và hỗ trợ tổng hợp các protein nói chung 
trong quá trình tạo máu. 
Bằng chứng 
WHO khuyến cáo nên bổ sung đa dạng các 
vi chất dinh dưỡng (MMN) ở các nhóm 
nguy cơ như phụ nữ mang thai, đặc biệt ở 
các nước đang phát triển – nơi chế độ ăn 
thường thiếu dinh dưỡng. Các vitamin B 
kể trên thường được bổ sung với nhiều 
mục đích khác nhau.14 Một nghiên cứu so 
sánh gần đây ở Trung Quốc được tiến hành 
trên phụ nữ mang thai bị thiếu máu nhẹ, 
được bổ sung 500 µg folate/ngày và 30 mg 
sắt/ngày, cùng với hoặc không MMNs (kể 
cả các vitamin B kể trên). Sự kết hợp thêm 
với các MMN cải thiện nhẹ nồng độ 
ferritin và sắt so với việc sử dụng folate/sắt 
và cải thiện nhiều hơn so với việc chỉ sử 
dụng folate, mặc dù nồng độ hemoglobin 
không thay đổi.Các kết quả tương tự cũng 
được đưa ra trong một thử nghiệm quy mô 
lớn hơn trên hơn 6.000 phụ nữ mang thai 
Trung Quốc. Trong các nhóm: (a) bổ sung 
đơn độc 400 g folate, (b) bổ sung 400 g 
folate/40mgsắt fumarat, hoặc (c) bổ sung 
UNICEF/WHO/UNUMMN1, chế độ dinh 
dưỡng ở nhóm (b) và (c) làm giảm đáng kể 
tần suất thiếu máu ở người mẹ trong giai 
đoạn sau của thai kỳ so với chế độ dinh 
dưỡng ở nhóm (a), không có sự khác biệt 
nào về bệnh tật ở thai nhi hoặc thai chết 
1 Kết hợp MMN ở hàm lượng thấp hơn: vitamin A (800 μg), 
vitamin E (10 mg), vitamin D (5 μg), vitamin C (70 mg), thiamine 
(1.4 mg), riboflavin (1.4 mg), vitamin B6 (1.9 mg), vitamin B12 
(2.6 μg), niacin (18 mg), kẽm (15 mg), đồng (2 mg), iod (150 μg), 
and selen (65 μg). 
lưu trong suốt quá trình điều trị. Như đã 
nói ở trên về vấn đề bổ sung folate sớm, 
phân tích tổng hợp ở các thử nghiệm tương 
tự cho thấy việc sử dụng kết hợp MMN 
với sắt/folate cho tình trạng thiếu máu liên 
quan tới mang thai cũng được khuyến 
khích. 
Tóm tắt 
Thiếu sắt có thể xảy ra cho tất cả mọi đối 
tượng, đặc biệt là: phụ nữ mang thai; phụ 
nữ không mang thai thiếu hụt dinh dưỡng 
trong chu kỳ kinh nguyệt và người trưởng 
thành bị viêm mạn tính hoặc nhiễm trùng. 
Sắt bisglycinate (Ferrochel®) là một chế 
phẩm mới độc đáo, sinh khả dụng cao có 
thể hỗ trợ bổ sung sắt mà không gây hại 
cho hệ tiêu hóa Ngoài ra, nếu được kết hợp 
với một số loại vitamin như C, B1, B2, B6, 
B12, sắt có thể được hấp thu và chuyển 
hóa một cách tối ưu. Sự kết hợp của sắt và 
acid folic cũng đã được khuyên dùng bởi 
WHO để giảm thiểu nguy cơ thiếu sắt cho 
cả mẹ và thai nhi, đồng thời đẩy lùi nguy 
cơ nhẹ cân và dị tật bẩm sinh cho các bé sơ 
sinh. 
Tài liệu tham khảo 
1. Low, M.S., et al., Daily iron supplementation for 
improving anaemia, iron status and health in 
menstruating women. Cochrane Database Syst 
Rev, 2016. 4: p. CD009747. 
2. Szarfarc, S.C., et al., Relative effectiveness of 
iron bis-glycinate chelate (Ferrochel) and 
ferrous sulfate in the control of iron deficiency 
in pregnant women. Arch Latinoam Nutr, 2001. 
51(1 Suppl 1): p. 42-7. 
3. Duque, X., et al., Effect of supplementation with 
ferrous sulfate or iron bis-glycinate chelate on 
ferritin concentration in Mexican schoolchildren: 
a randomized controlled trial. Nutr J, 2014. 13: 
p. 71. 
4. FDA. GRAS Notice 19: Ferrous bisglycinate 
chelate 1999; Available from: 
PackagingLabeling/GRAS/NoticeInventory/ucm
261608.pdf. 
5. EFSA. Ferrous bisglycinate as a source of iron 
for use in the manufacturing of foods and in 
food supplements. 2006. 
6. board, B.e., Folic axit and combined iron and 
folic axit preparations. Br Med J, 1968. 4(5623): 
p. 102-3. 
7. Horn, E., Iron and folate supplements during 
pregnancy: supplementing everyone treats 
66
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
those at risk and is cost effective. BMJ, 1988. 
297(6659): p. 1325, 1327. 
8. WHO, Guideline: Daily Iron and Folic Axit 
Supplementation in Pregnant Women2012, 
Geneva: World Health Organization. 
9. WHO. VITAMIN AND MINERAL 
REQUIREMENTS IN HUMAN NUTRITION. 
Section 15 - folic axit 2016; 2nd. 
10. Kelly, P., et al., Unmetabolized folic axit in 
serum: acute studies in subjects consuming 
fortified food and supplements. Am J Clin Nutr, 
1997. 65(6): p. 1790-5. 
11. Juarez-Vazquez, J., E. Bonizzoni, and A. 
Scotti, Iron plus folate is more effective than 
iron alone in the treatment of iron deficiency 
anaemia in pregnancy: a randomised, double 
blind clinical trial. BJOG, 2002. 109(9): p. 1009-14. 
12. Chiamchanya, N., Rapid recovery time of 
hemoglobin level in female regular blood 
donors with ferrous fumarate and high dose of 
ascorbic axit supplement. J Med Assoc Thai, 
2013. 96(2): p. 165-71. 
13. Cepeda-Lopez, A.C., et al., In overweight and 
obese women, dietary iron absorption is 
reduced and the enhancement of iron 
absorption by ascorbic axit is one-half that in 
normal-weight women. Am J Clin Nutr, 2015. 
102(6): p. 1389-97. 
14. WHO. VITAMIN AND MINERAL 
REQUIREMENTS IN HUMAN NUTRITION. 
Section 9 - Thiamine, riboflavin, niacin, vitamin 
B6, pantothenic axitand biotin 2016. 

File đính kèm:

  • pdfcac_khoang_chat_giup_bo_sung_va_hap_thu_sat.pdf