Các chiến lược kháng viêm mới trong điều trị COPD (Emerging anti - inflammatory strategies for COPD)
Dấu hiệu phân biệt của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là phản ứng miễn dịch viêm ở phổi tăng
lên hoặc bất thường khi hít phải các phân tử nhỏ và khí, thường từ khói thuốc lá, đặc trưng bởi sự gia tăng
số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào đã hoạt hóa và các tế bào lympho-T hoạt hóa (Tc1
và các tế bào Th1). Do đó, ngăn chặn phản ứng viêm là một cách tiếp cận hợp lý để điều trị bệnh phổi tắc
nghẽn mãn tính (COPD). Mặc dù bản chất COPD là viêm, nhưng các phương pháp điều trị kháng viêm hiện
có mang lại ít lợi ích hoặc không có lợi cho bệnh nhân COPD và có thể có tác dụng bất lợi. Vì lý do này,
có một nhu cầu cấp bách nhằm khám phá các phương pháp điều trị kháng viêm hiệu quả và an toàn có thể
ngăn chặn sự tiến triển không ngừng của bệnh. Trong những năm gần đây, sự chú ý phần lớn tập trung vào
việc ức chế sự tập trung và hoạt hóa các tế bào viêm, và các chất đối vận với sản phẩm do các tế bào viêm
tạo ra. Trong tổng quan này, chúng tôi tóm tắt các sự phát triển tốt nhất các chiến lược dùng thuốc kháng
viêm rõ ràng và/hoặc có khả năng hữu ích trong điều trị COPD.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các chiến lược kháng viêm mới trong điều trị COPD (Emerging anti - inflammatory strategies for COPD)
65 Hô hấp số 17/2018 Các khái niệm liên quan đến cơ chế đã được đưa vào trong bệnh sinh của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) (1). Dấu hiệu phân biệt của COPD là phản ứng miễn dịch viêm ở phổi tăng lên hoặc bất thường khi hít phải các phân tử nhỏ và khí, thường từ khói thuốc lá, đặc trưng bởi sự gia tăng số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào đã hoạt hóa và các tế bào lympho-T hoạt hóa (Tc1 và các tế bào Th1). Do đó, ngăn chặn phản ứng viêm là một cách tiếp cận hợp lý để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) có thể cải thiện các triệu chứng như ho và tiết dịch nhầy, cải thiện tình trạng sức khỏe và giảm các cơn kịch phát. Về lâu dài, các phương pháp điều trị như vậy sẽ làm giảm sự tiến triển của bệnh. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có biện pháp điều trị kháng viêm nào hiệu quả cũng vì tình trạng viêm ở bệnh nhân COPD ít nhất đề kháng một phần với thuốc glucocorticoid, có khả năng do hút thuốc lá và stress oxy hóa làm suy giảm chức năng histone deacetylase 2 (HDAC2) (2). Trong mọi trường hợp, chỉ có một số lượng hạn chế các loại thuốc đã được chứng minh là ảnh hưởng đến số lượng tế bào viêm quan trọng, đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính và tế bào lympho T, trong phổi của bệnh nhân COPD. Rõ ràng là có một nhu cầu rất lớn về y học chưa được đáp ứng đối với các loại thuốc kháng viêm hiệu quả để điều trị bệnh nhân COPD. Vì lý do này, sự chú ý phần lớn tập trung vào việc ức chế sự tập trung và hoạt hóa các tế bào này, và các chất đối vận với các sản phẩm do các tế bào viêm tạo ra, mặc dù không có nhiều loại thuốc cùng lúc thực hiện hai hoạt động này. Ngoài ra, có những loại thuốc có thể có tác dụng kháng viêm gián tiếp. Bài dịch CÁC CHIẾN LƯỢC KHÁNG VIÊM MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ COPD (Emerging anti - inflammatory strategies for COPD) MarioCazzola,CliveP.Page, LuiginoCalzetta, M.GabriellaMatera (Nguồn: Tạp chí Hô hấp Châu Âu European Respiratory Journal In ấn ISSN 0903-1936, On line ISSN 1399-3003) NGƯờI DịCH: BS LÊ ĐÌNH HỒNG Tóm tắt Dấu hiệu phân biệt của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là phản ứng miễn dịch viêm ở phổi tăng lên hoặc bất thường khi hít phải các phân tử nhỏ và khí, thường từ khói thuốc lá, đặc trưng bởi sự gia tăng số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào đã hoạt hóa và các tế bào lympho-T hoạt hóa (Tc1 và các tế bào Th1). Do đó, ngăn chặn phản ứng viêm là một cách tiếp cận hợp lý để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD). Mặc dù bản chất COPD là viêm, nhưng các phương pháp điều trị kháng viêm hiện có mang lại ít lợi ích hoặc không có lợi cho bệnh nhân COPD và có thể có tác dụng bất lợi. Vì lý do này, có một nhu cầu cấp bách nhằm khám phá các phương pháp điều trị kháng viêm hiệu quả và an toàn có thể ngăn chặn sự tiến triển không ngừng của bệnh. Trong những năm gần đây, sự chú ý phần lớn tập trung vào việc ức chế sự tập trung và hoạt hóa các tế bào viêm, và các chất đối vận với sản phẩm do các tế bào viêm tạo ra. Trong tổng quan này, chúng tôi tóm tắt các sự phát triển tốt nhất các chiến lược dùng thuốc kháng viêm rõ ràng và/hoặc có khả năng hữu ích trong điều trị COPD. Từ khóa: Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, phương pháp điều trị hướng đến mục tiêu, các can thiệp điều trị, điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Dịch 66 Hô hấp số 17/2018 CÁC THUỐC ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP TRỰC TIẾP ĐẾN CÁC THÀNH PHẦN TẾ BÀO CỦA TÌNH TRẠNG VIÊM Hiện nay, một số loại thuốc mới ức chế trực tiếp các thành phần tế bào của tình trạng viêm, mặc dù có những quan ngại về việc sử dụng các loại thuốc này vì phản ứng tăng bạch cầu đa nhân trung tính bị suy giảm có thể làm tăng tính nhạy cảm với nhiễm trùng ở bệnh nhân COPD, những người thường gặp nguy cơ này (3). Các liệu pháp đã được nghiên cứu bao gồm các chất ức chế phosphodiesterase 4 (PDE4), chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a và các loại thuốc cản trở các phân tử bám dính (bảng 1). Các thuốc ức chế PDE4: Các đồng enzyme PDE4 là một mục tiêu điều trị chính vì nó là đồng enzyme chiếm ưu thế trong phần lớn các tế bào viêm liên quan đến sinh bệnh học của COPD. Sự ức chế của nó trong các tế bào viêm ảnh hưởng đến một số đáp ứng cụ thể, chẳng hạn như sản xuất và/hoặc phóng thích các chất trung gian tiền viêm, bao gồm các cytokine và các nhóm ôxy hoạt hóa tính(4), với các tác động được ghi nhận đầy đủ trong các mô hình động vật của COPD (5). Bảng 1. Các thuốc ảnh hưởng trực tiếp đến các thành phần tế bào của tình trạng viêm Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Các thuốc ức chế PDE4 Các chất được nghiên cứu tích cực Giảm các tế bào viêm ở mô đường hô hấp đặc trưng của COPD Ít xảy ra cơn kịch phát hơn Ổn định FEV 1 theo thời gian Kết quả mâu thuẫn với các hợp chất khác nhau Tác dụng phụ đường tiêu hóa Một số tác động kháng viêm được báo cáo trong phòng thí nghiệm (in-vitro) có thể không được thể hiện ở nồng độ trong huyết tương đã đạt được ở người Trì hoãn quá trình chết theo chương trình của bạch cầu đa nhân trung tính Chất ức chế PDE4 dùng đường uống Roflumilast ELB353 Revamilast MEM1414 Oglemilast OX914 BLX-028914 ASP3258 TAS-203 Zl-n-91 NIS-62949 NCS 613 Tetomilast Chất ức chế PDE4 dùng đường hít GSK256066 SCH900182 Compound 1 Tofimilast AWD12-281 UK500001 Các thuốc ức chế PDE3/4 RPL554 Các thuốc ức chế PDE4/ TPI 1100 Dịch 67 Hô hấp số 17/2018 PDE4 cũng có trong cơ trơn đường thở, nhưng cho đến nay các chất ức chế PDE4 chọn lọc không cho thấy hoạt động giãn phế quản cấp tính ở người (6,7). Hầu hết các nghiên cứu (dài hạn) trong COPD cho đến nay đã được thực hiện với các thuốc ức chế PDE4 thế hệ thứ hai, cilomilast và roflumilast (8). Việc triển khai cilomilast đã bị chấm dứt vì các thử nghiệm pha III đa trung tâm lớn không đáp ứng được các kết cục hiệu quả được xác định trước của chúng và thường liên quan đến các tác dụng phụ đường tiêu hóa. Ngược lại, roflumilast đã được đăng ký ở một số nước châu Âu và được chấp thuận ở Mỹ. Một số thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (RCTs) từ 6 đến 12 tháng đã chỉ ra rằng roflumilast mang lại hiệu quả lâm sàng bền vững, chủ yếu là giảm các cơn kịch phát, trong một nhóm nhỏ bệnh nhân COPD có các đặc tính bao gồm viêm phế quản mạn tính có/không có dùng glucocorticoid hít đồng thời (9). Quan trọng hơn, nó làm giảm tỷ lệ các cơn kịch phát COPD và cải thiện chức năng phổi (FEV 1 trước và sau thuốc giãn phế quản) mặc dù điều trị đồng thời với các chất chủ vận β2-tác dụng kéo dài (10). Phân tích dữ liệu gộp cho thấy tác dụng phụ liên quan đến roflumilast (buồn nôn, đau đầu, tiêu chảy và giảm cân) thường không nặng và tự khỏi, mặc dù kết quả là tăng số bệnh nhân rút khỏi các nghiên cứu (8). Một số thuốc ức chế PDE4 khác vẫn đang trong giai đoạn phát triển (bảng 1), mặc dù cho đến nay, hiệu quả điều trị của các chất ức chế PDE4 dùng đường uống bị hạn chế bởi các tác dụng phụ của chúng, đặc biệt là ói và buồn nôn (bảng 1) (6,8). Đã có gợi ý rằng những tác dụng phụ là do ức chế của một phân nhóm riêng biệt của PDE4, PDE4D (11), trong khi PDE4B quan trọng hơn PDE4D trong các tế bào viêm (12). Về mặt lý thuyết, các chất ức chế chọn lọc PDE4B có thể có tỷ lệ điều trị lớn hơn (8). Tuy nhiên, quan điểm này không được chia sẻ phổ biến và khám phá gần đây về các chất ức chế PDE4 thâm nhập não chọn lọc không gây nôn (13) tăng cân sau đó đối với việc tránh nhắm đến mục tiêu của PDE4D, đặc biệt vì phân nhóm enzyme này hiện diện trong các tế bào liên quan tới COPD (8). Như một sự lựa chọn thay thế, các chất ức chế PDE4 đường uống có khả dụng sinh học thấp có thể được đưa vào bằng đường hít để tối đa hóa Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Các chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a Hoạt hóa các thụ thể adenosine A 2a gián tiếp tác động kháng viêm đáng kể, cả trong in- vitro và in-vivo Tác dụng phụ trên tim mạch CGS21680 ATL146e UK371,104 GW328267X Regadenoson 2-(cyclohexylethylthio)-AMP Các loại thuốc cản trở các phân tử bám dính Các phân tử này ức chế sự tích tụ bạch cầu đa nhân trung tính trong các mô hình viêm phổi trên động vật Các thử nghiệm lâm sàng sớm khi sử dụng các chất đối vận selectin và integrin đã có ít thành công Các chất ức chế có cấu trúc Carbohydrate Các chất đối vận sLex Bimosiamose Heparins và heparinoids PGX-100 PGX-200 Các chất ức chế mAb EL246 Viết tắt: PDE4: phosphodiesterase 4; COPD: (chronic obstructive pulmonary disease) bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính; FEV 1 : (forced expiratory volume in 1s) thể tích thở ra gắng sức trong 1 giây; mAb: (monoclonal antibodies) các kháng thể đơn dòng. Dịch 68 Hô hấp số 17/2018 hiệu quả của chúng trong điều trị bệnh viêm trong khi giảm thiểu tác dụng phụ của chúng. Một số thuốc ức chế PDE4 đường hít, ví dụ GSK256066, đang được phát triển, nhưng thất bại trong các thử nghiệm lâm sàng đã được báo cáo cho ba chất ức chế PDE4 hít khác, tofimilast (14), AWD12-281 (15) và UK500001 (16). Một cách tiếp cận khác là sự phát triển của các chất ức chế PDE3/4 hỗn hợp với mục tiêu có thuốc giãn phế quản và tác động kháng viêm trong một phân tử đơn lẻ (hình 1). Sự phát triển của thuốc ức chế PDE3/4 hỗn hợp có thời gian tác dụng kéo dài cùng với tác động kháng viêm có thể có tiện ích lớn hơn trong COPD bởi vì sự kết hợp của cả hai thuốc giãn phế quản (PDE3 qua trung gian) và tác động kháng viêm (gián tiếp qua PDE3 và PDE4) có thể dẫn đến tăng hiệu quả tổng thể so với các thuốc ức chế PDE4 chọn lọc. RPL 554 là chất ức chế PDE3/4 hỗn hợp tiên tiến nhất đang được phát triển (17). Hình 1. Sự ức chế kết hợp các chất ức chế phosphodiesterase (PDE) 3 và PDE4 có tác động kháng viêm và giãn phế quản hiệp đồng cộng và hiệu ứng đồng vận so với sự ức chế của PDE3 hoặc PDE4 riêng lẻ. (Các) cơ chế hiệu ứng đồng vận cơ bản rõ ràng của sự ức chế kép PDE3/4 hiện chưa rõ. Tuy nhiên, người ta đã gợi ý rằng PDE3 (chủ yếu tác dụng tại chỗ thành phần tế bào hạt) và PDE4 (chủ yếu tác dụng đến nguyên sinh chất) có thể điều chỉnh các nhóm khác nhau của cAMP. ASM: cơ trơn đường hô hấp; PMN: bạch cầu đa nhân trung tính; iNANC: ức chế không adrenergic và không cholinergic. Ngoài ra, các chất ức chế PDE4/7 hỗn hợp đang được phát triển. Sự kết hợp ức chế PDE7 với sự ức chế PDE4 có thể, về mặt lý thuyết, có tính hiệp đồng trong việc giảm sự hoạt hóa tế bào viêm và chemokine và cytokine phóng thích trong phổi (8). TPI 1100 bao gồm hai oligonucleotides theo chiếu ngược (antisense) nhắm mục tiêu mRNA đối với các đồng phân PDE4B/4D và PDE 7A (18). Nó rất hiệu quả trong việc giảm dòng bạch cầu đa nhân trung tính đi vào và các cytokine quan trọng trong một mô hình gây COPD cho chuột hít khói thuốc đã được xác lập (18). Các chất chủ vận thụ thể Adenosine A2a: Có bằng chứng cho thấy sự tham gia của thụ thể adenosine trong quá trình viêm. Cho đến nay, bốn loại phân nhóm (A 1 , A 2a , A 2b và A 3 ) của thụ thể adenosine đã được nhân bản. Các tác dụng kháng viêm của adenosine thường được quy cho sự chiếm dụng các thụ thể A 2a kết hợp với protein Gs tăng AMP vòng (cyclic adenosine monophosphate/ cAMP) (19). Một cơ chế phân tử chính là ngăn chặn con đường yếu tố hạt nhân (NF)-kB được kích hoạt bởi các cytokine như yếu tố hoại tử khối u (TNF)-a và interleukin (IL)-1b. Sự kích thích các thụ thể A 2a giới hạn sản xuất cytokine tiền viêm đại thực bào, làm giảm độ bám dính phân tử hiện diện trên các tế bào nội mô và ngăn chặn sự phát sinh các ion âm superoxide và bạch cầu đa nhân trung tính tổng hợp leukotriene (20-22). Một số chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a đã được báo cáo là có hiệu quả trong các mô hình COPD (bảng 1), nhưng các vấn đề tiềm tàng có thể là do tác dụng phụ tim mạch, chủ yếu là hạ huyết áp và nhịp tim nhanh phản xạ (20,22). Regadenoson (CVT-3146), một chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a chọn lọc, an toàn ở bệnh nhân ngoại trú có COPD ổn định trên lâm sàng ở mức trung bình đến nặng, nhưng không thể thay đổi nhiều thông số chức năng phổi, bao gồm FEV 1 và dung tích sống gắng sức (FVC) lặp lại khi so với giả dược (23). Tuy nhiên, UK432,097, có lợi trong phổi của lợn thực nghiệm gây mê mà không có bất kỳ tác dụng phụ tim mạch rõ ràng nào, và giống như GW328267X, một chất chủ vận thụ thể A 2a mạnh, hiện đang trong giai đoạn II thử nghiệm đối với COPD. Các báo cáo về tác động của các hợp chất này trong COPD được mong đợi với sự quan tâm. Dịch 69 Hô hấp số 17/2018 Gần đây, người ta đã đề xuất để phát triển các chất chủ vận thụ thể A 2a như tiền chất bằng cách tổng hợp các dạng phosphoryl hóa, không hoạt hóa của các chất chủ vận thụ thể A 2a (24,25). Cách tiếp cận này có thể giúp đạt được các tác động kháng viêm mong muốn và giảm tác dụng phụ không mong muốn, chẳng hạn như hạ huyết áp. Các loại thuốc cản trở các phân tử bám dính: Các quá trình viêm trong COPD được đặc trưng bởi sự di chuyển liên tục của các tế bào viêm, chủ yếu là các tế bào đa nhân trung tính, từ khoang mạch máu đến phổi, một phần được điều chỉnh bởi các phân tử bám dính selectin (26). Selectins dàn xếp thoáng qua các tương tác bám dính thích hợp với tình trạng viêm thông qua sự nhận ra của các quyết định kháng nguyên (epitope) carbohydrate, sialyl Lewisx (sLex), biểu hiện trên các phối tử protein- lipid đa dạng về cấu trúc của các bạch cầu lưu hành. Tốc độ luân chuyển nhanh của các liên kết phối tử- selectin, do tốc độ mở và đóng nhanh của chúng cùng với các mức độ kéo căng cao đáng kể của chúng, cho phép chúng làm trung gian kết nối tế bào và cuộn lại trong dòng chảy cắt hạn (27). Ba lựa chọn đã được xác định: L-, P- và E-selectin. Các phần tử hướng đến mục tiêu này đã được công nhận có thể làm giảm tình trạng viêm trong COPD (28). Chắc chắn cách tiếp cận phổ biến nhất ức chế chức năng selectin là ức chế trực tiếp một hoặc nhiều selectins. Carbohydrates, các phối tử hòa tan tái tổ hợp, các kháng thể và các chất ức chế phân tử nhỏ đều đã đưa vào phát triển trên lâm sàng như là các thuốc trị liệu có tiềm năng hướng đến mục tiêu selectins (bảng 1). Bimosiamose (TBC1269, 1) là một chất đối vận pan-selectin tổng hợp hướng đến mục tiêu E-, P- và L-selectin. In vitro, bimosiamose ngăn chặn sự bám dính của bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái toan và các lympho bào dưới điều kiện dòng chảy tĩnh và động (29). In vivo, nó cho thấy hiệu quả kháng viêm trong nhiều mô hình động vật khác nhau, bao gồm các mô hình viêm phổi (30). Trong một thử nghiệm thí điểm, bimosiamose dạng hít đã cho thấy an toàn và dung nạp tốt ở những bệnh nhân COPD nhẹ và trung bình ổn định và cho thấy có tác động kháng viêm ảnh hưởng đến các thông số về đàm, giảm nồng độ IL-8 và lympho bào(31). Một thử nghiệm khác gần đây đã ghi nhận rằng việc hít bimosiamose trong 28 ngày trên các thuốc giãn phế quản tiêu chuẩn là a ... ế bào chính. Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng LY294002 Chất ức chế phân tử nhỏ của PI3Kγ và δ TG100-115 AS252424 AS605240 Các thuốc ức chế LTB4 Chúng có thể có tác dụng lên đờm, thành phần bạch cầu đa nhân trung tính và/hoặc hoạt hóa ở bệnh nhân COPD ổn định. Chúng có thể bảo vệ đường hô hấp khỏi các tổn thương qua trung gian bạch cầu đa nhân trung tính và từ những tác động của đợt kịch phát cấp tính Các chất ức chế 5-LO gây ra tác dụng phụ Các chất đối vận BLT1 LY 29311 SB 225002 SC 53228 CP 105696 Amelubant (BIIL284) LY 29311 LTB019 SB 201146 Các chất đối vận kép BLT1 và BLT2 RO5101576 Các chất ức chế 5-LO Zileuton MK-0633 Chất đối vận FLAP BAYx1005 Chất chủ vận PPARs Hoạt hóa PPARγ và PPARα có tác động kháng viêm và điều hòa miễn dịch. Hoạt hóa PPARα dẫn đến giảm tiết LTB4 Tác dụng phụ trên tim mạch với rosiglitazone. Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng Các chất chủ vận PPARγ Troglitazone Rosiglitazone Pioglitazone GW1929 Các chất chủ vận PPARα Clofibrate Fenofibrate Macrolides Macrolides liều thấp làm các tế bào biểu mô và miễn dịch giảm sản xuất các cytokines và chemokines tiền viêm Macrolides có thể phát huy hiệu quả điều trị độc lập hoạt tính kháng khuẩn của chúng Macrolides liều thấp lâu dài làm giảm tần suất các cơn kịch phát Điều trị macrolid liều thấp trong thời gian dàithường liên quan đến giảm thính lực. Sử dụng mãn tính có thể dẫn đến với vi khuẩn kháng macrolid cư trú ở đường hô hấp Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng với immunolides Erythromycin Clarithromycin Roxithromycin Azithromycin Immunolides EM703 EM900 CSY0073 CEM-101 Dịch 73 Hô hấp số 17/2018 Thuốc ức chế TNF-α: TNF-α được cho là đóng một vai trò trung tâm trong sinh lý bệnh của COPD (34). Nó được các đại thực bào phế nang, bạch cầu đa nhân trung tính, tế bào T, dưỡng bào và các tế bào biểu mô tạo ra sau khi tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm khác nhau, kể cả khói thuốc lá. Trong các mô hình trên động vật, TNF-α gây ra các đặc tính bệnh học liên quan đến COPD như tế bào viêm xâm nhập vào phổi, xơ hóa phổi và khí phế thũng. Hơn nữa, nó giúp tăng cường hóa hướng động bạch cầu đa nhân trung tính và sự di chuyển bằng cách gây ra sự biểu hiện của chemokine CXCL8 (còn được gọi là IL-8) và điều chỉnh tăng lên các phân tử bám dính nội mô. In vivo, nồng độ TNF-α tăng cao đã được chứng minh trong máu ngoại vi, sinh thiết phế quản, dịch tiết đàm và dịch rửa phế quản phế nang của bệnh nhân COPD ổn định so với đối tượng trong nhóm chứng. TNF-α cùng với IL-1β đã được xác định là một cytokine quan trọng có thể khởi phát các đợt viêm trong cơn kịch phát cấp của COPD. Đặc biệt, đã có báo cáo rằng TNF-α là cytokine ban đầu và dự báo được phóng thích trong quá trình viêm sau khi tiếp xúc với lipopolysaccharide (LPS). Do đó không ngạc nhiên khi đã có gợi ý rằng việc ngăn chặn các tác động sinh học của TNF-α có thể có lợi trong điều trị COPD. Có ba chất sinh học lưu hành trên thị trường có tác dụng ức chế TNF-α: etanercept, infliximab và adalimumab. Ngoài ra, hai chất ức chế TNF khác, certolizumab pegol và golimumab, đang trong quá trình phát triển. Chúng có hiệu quả trong điều trị các bệnh lý viêm, chẳng hạn như viêm khớp dạng thấp và bệnh viêm ruột, và việc sử dụng chúng có thể mở rộng sang COPD. Tuy nhiên, các thử nghiệm ngẫu nhiên có đốichứng để đánh giá tính hiệu quả của các chất ức chế TNF-α ở bệnh nhân COPD rất ít với kết quả của những nghiên cứu đầu tiên không được hứa hẹn (35-37). Hơn nữa, tỷ lệ viêm phổi cao hơn trên các bệnh nhân được điều trị với infliximab và, mặc dù không có ý nghĩa thống kê, nhiều trường hợp ung thư đã được báo cáo (36). Tuy nhiên, một nghiên cứu quan sát đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của một chất đối vận TNF-α trong việc ngăn ngừa nhập viện do COPD trong một nhóm bệnh nhân được chẩn đoán bị cả hai bệnh viêm khớp dạng thấp và COPD được xác định từ cơ sở dữ liệu yêu cầu chi trả bảo hiểm y tế, đã chứng minh rằng các chất ức chế TNF-α có liên quan đến việc giảm tỷ lệ nhập viện do COPD ở bệnh nhân bị COPD dùng các thuốc này để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp (38). Tuy nhiên, tác động này là riêng biệt giảm 50% tỷ lệ nhập viện do COPD do dùng etanercept, một protein hợp nhất nhị trùng của người hoàn toàn bao gồm một thụ thể TNF- α type II và phần Fc của globulin miễn dịch G1. Chất ức chế TNF- α khác đang còn nghiên cứu, tên gọi infliximab, đã không làm giảm nguy cơ nhập viện do COPD. Bảng 2. Thuốc ức chế các chất trung gian gây viêm (tiếp theo) Thuốc ức chế Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Statins Statins có khả năng giảm sản xuất một loạt các cytokine tiền viêm, can thiệp vào sự kết dính bạch cầu vào nội mô, giảm sản xuất một số MMP và giảm tạo ra các chất oxy hóa Bằng chứng được công bố cho đến nay xuất phát từ các nghiên cứu hồi cứu. Chúng tôi vẫn không biết liệu statin có tác động có lợi bằng cách giảm chủ yếu các biến chứng tim mạch hoặc vì chúng thể hiện một tác động nhắm mục tiêu trực tiếp đến viêm phổi Tất cả các hoạt chất Viết tắt: TNF: tumour necrosis factor; NF: nuclear factor; MAPK: mitogen-activated protein kinase; PI3K: phosphoinositide 3-kinase; LT: leukotriene; PPAR: peroxisome proliferator-activated receptor; IL: interleukin; IKK2: inhibitors of kB kinase 2; LPS: lipopolysaccharide; COPD: chronic obstructive pulmonary disease; MMP: matrix metalloproteinase; LO: lipoxygenase; TACE: TNF-a converting enzyme; mAb: monoclonal antibody; FLAP: 5-LO activating protein. Dịch 74 Hô hấp số 17/2018 Trong một mô hình động vật của viêm đường hô hấp, PKF 242–484 và PKF 241–466, hai chất ức chế TACE, ngăn chặn TNF-α phóng thích vào đường hô hấp và dòng tế bào viêm đi vào (3). Cho đến nay không có chất ức chế TACE nào được đưa vào thị trường. Điều này đã được quy cho một phần do thiếutính chọn lọc chung của các chất ức chế TACE (3). Điều trị bệnh nhân bằng các thuốc ức chế sản xuất TNF-α, hoặc với các antisense oligonucleotide hướng đến chống lại các phân tử mRNA mã hóa TNF-α có thể là các chiến lược thay thế được nghiên cứu (3). Thuốc ức chế Chemokine: Chemokines gây viêm được tạo ra trong quá trình nhiễm trùng hoặc tổn thương mô bởi nhiều loại tế bào khác nhau, bao gồm các tế bào tại chỗ và các bạch cầu thâm nhập, để phản ứng lại với các sản phẩm và độc tố của vi khuẩn hoặc các cytokine gây viêm như IL-1, TNF-α và interferon. Chúng điều chỉnh gia tăng sự di chuyển và hoạt hóa tế bào viêm trong phổi. Chemokines được chia thành bốn nhóm chính dựa trên số lượng và khoảng cách của cysteines được bảo tồn tại điểm cuối acid amin: họ CXC, CC, C và CX3C. Chúng phát tín hiệu thông qua các thụ thể kết hợp G-protein. ABX-CXCL8, một loại mAb kháng CXCL8, đã được kiểm tra trong thử nghiệm giai đoạn II của COPD, cho thấy sự cải thiện trong chỉ số khó thở chuyển tiếp, nhưng không cải thiện chức năng phổi hoặc tình trạng sức khỏe của bệnh nhân được điều trị (39). ABX-CXCL8 chỉ nhận ra chemokine tự do (40), nhưng không nhận ra dạng hoạt hóa của chemokine gắn với proteo-glycans trên bề mặt nội mô (41). Đây có thể là một lời giải thích có thể cho sự thất bại trên lâm sàng của kháng thể này. Ngoài ra trong một nỗ lực để khắc phục vấn đề này, người ta đã đề xuất để nhắm mục tiêu điều trị đến hệ thống chemokine bằng cách ngăn chặn tương tác phối tử - thụ thể với các kháng thể hoặc các chất ức chế phân tử nhỏ để ngăn chặn việc thu nhận và hoạt hóa bạch cầu do chemokines gây ra (hình 2) (42). Tuy nhiên, một thách thức chung tiềm năng trong việc nhắm đến mục tiêu chemokines trong COPD là sự dư thừa trong mạng lưới chemokine như vậy sự ức chế một thụ thể đơn độc hoặc chemokine có thể không đủ để ngăn chặn phản ứng viêm (43). Khi một số chemokine có thể hoạt hóa một thụ thể đơn lẻ, vai trò của chúng được thảo luận tốt nhất thông qua các thụ thể của chúng, được phân chia vào các thụ thể cho các chemokines CXC (CXCRs) và các thụ thể chemokines CC (CCRs) (bảng 2) (44). CXCL8 hoạt hóa bạch cầu đa nhân trung tính thông qua một thụ thể đặc hiệu (CXCR1) kết hợp với hoạt hóa và thoát hạt ở bạch cầu và thông qua một thụ thể ái lực cao (CXCR2), quan trọng trong hóa hướng động. Trong các mô hình động vật COPD, phong tỏa thụ thể CXCR1 và CXCR2 do các chất ức chế đặc hiệu làm giảm đáng kể viêm đường hô hấp do bạch cầu đa nhân trung tính (45). Các chất đối vận thụ thể CXCR2 có thể hữu ích hơn vì CXCR2 cũng hiện diện trên các bạch cầu đơn nhân. Một số thuốc đối vận thụ thể CXCR2 đang được phát triển để điều trị COPD (bảng 2). SCH527126 ức chế tiết đàm cảm ứng với ozone dẫn xuất ưa bạch cầu đa nhân trung tính ở những người tình nguyện khỏe mạnh (46), và SB-656933 ngăn chặn chất chủ vận gây điều chỉnh tăng CD11b trên bạch cầu đa nhân trung tính ở máu ngoại vi của các đối tượng khỏe mạnh, một hiệu ứngtương quan với sự ức chế bạch cầu đa nhân trung tính cảm ứng với ozone(47). Những phát hiện này là dấu hiệu cho thấy tiềm năng của các thuốc đối vận thụ thể CXCR2 trong điều trị bệnh nhân COPD. Tuy nhiên, hiệu ứng trên nhiều tác động của CXCL8 và chemokine có liên quan tác động đến thụ thể CXCR2 phải được theo dõi cẩn thận vì bạch cầu đa nhân trung tính là yếu tố cần thiết để bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh, và ức chế miễn dịch không mong muốn chắc chắn là tác dụng bất lợi đáng lo ngạinhất của việc sử dụng các hợp chất này cho con người(48). Dịch 75 Hô hấp số 17/2018 Hình 2. Sơ đồ biểu diễn các chemokine và các thụ thể chemokine là các mục tiêu tiềm năng cho các loại thuốc mới dành cho những bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD). Ngoài ra CXCR3, một thụ thể chemokine khác hiện diện nhiều hơn trong đường hô hấp ngoại vi của người hút thuốc và bệnh nhân COPD (49), là một mục tiêu tiềm năng cho các thuốc đối vận các phân tử nhỏ hoặc các kháng thể. Sự phong tỏa thụ thể CXCR3 phòng ngừa các tế bào viêm xâm nhập các vị trí viêm và do đó làm giảm bớt bệnh. Một số chất đối vận các phân tử nhỏ của CXCR3 đã được báo cáo (bảng 2). CX3CL1, tồn tại dưới hai dạng: một protein liên kết màng tế bào và một chemokine hòa tan, có thể làm trung gian kết dính bạch cầu và có chức năng như một chất hấp thụ hóa học hiệu quả (50). Nó chỉ liên kết và là phối tử duy nhất của thụ thể chemokine CX3C 1 (CX3CR1). Trong mô hình chuột bị khí phế thũng do khói thuốc lá, có một dòng tế bào + CX3CR1 đi vào phổi (51). Hơn nữa, sự hiện diện CX3CL1 được điều chỉnh tăng lên trong mô phổi của những người hút thuốc bị COPD (52). Điều này làm cho cặp thụ thể-phối tử này trở thành một mục tiêu điều trị hấp dẫn (53). Các kháng thể hoặc các phân tử nhỏ có thể được sử dụng để ngăn chặn tương tác CX3CL1- CX3CR1 (bảng 2). Chúng có thể làm giảm hoặc ngăn chặn sự xâm nhập/tích tụ bạch cầu, tái cấu trúc/phá hủy cấu trúc và suy giảm chức năng trong sự phát triển và tiến triển của COPD (54). Tuy nhiên, việc phát triển điều trị các chất đối vận thụ thể CX3CR1 phải được nghiên cứu thận trọng vì CX3CL1 có một số vai trò sinh lý quan trọng, bao gồm cảm ứng hoạt động chống ung thư và bảo vệ chống lại các rối loạn thoái hóa thần kinh(54). Tác động của CC-chemokine tại receptor CCR2 cũng đã được chứng minh là có liên quan đến COPD (54). Các nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy rằng CCR2 đóng một vai trò quan trọng trong lưu lượng bạch cầu đơn nhân và đại thực bào hướng đến các vị trí viêm. Một số thuốc đối vận thụ thể CCR2 được lựa chọn và kháng thể đơn dòng mAb kháng CCR2 (MLN-1202) đang được nghiên cứu (bảng 2); Tất cả đang chứng minh có các hoạt động tiền lâm sàng hứa hẹn (54,55). Tuy nhiên, sự tương đồng về hậu quả thấp của CCR2 và phối tử giữa loài người và các loài thấp hơn có nghĩa rằng một trong những câu hỏi chính là liệu việc ngăn chặn CCR2 có thể tạo hiệu quả lâm sàng đầy đủ ở bệnh nhân COPD hay không (56). Các chất ức chế NF-kB: Một lượng lớn bằng chứng đã chứng minh một cách thuyết phục vai trò rõ ràng của các yếu tố phiên mã NF-kB và các men kinase báo hiệu của chúng trong cả thể ổn định và kịch phát của COPD (hình 3) (57). Chất ức chế nhóm protein NF- kB (IkB) điều chỉnh sự phiên mã phụ thuộc NF- kB bằng cách ức chế sự gắn kết DNA và định vị các yếu tố này với tế bào chất. Các protein IkB được phosphoryl hóa bởi phức hợp IkB kinase bao gồm ít nhất ba protein, các chất ức chế kB kinase (IKK)α IKKβ và IKKγ. IKKα và IKKβ là hai tiểu đơn vị xúc tác, trong khi IKKγ là một tiểu đơn vị điều tiết (Chất điều chỉnh cơ bản NF- kB; NEMO). Thử nghiệm nhắm mục tiêu gen cho thấy rằng nhiều kích thích tiền viêm cần tiểu đơn vị IKKβ để hoạt hóa NF-kB (58), trong khi IKKα chỉ đóng vai trò đáp ứng với những kích thích nhất định và trong một số ít các loại tế bào. Có thể có một số cách tiếp cận để ức chế NFkB. Chúng bao gồm sự chuyển gen của IkB, IKK, kinase cảm ứng NF-kB và ligase ubiquitin- IkB, điều hòa tác động của NF-kB và các thuốc ức chế sự thoái hóa của IkB (59). Một số thuốc loại này đang được phát triển (bảng 2) (60). BMS-345541 là Dịch 76 Hô hấp số 17/2018 một chất ức chế chọn lọc cao của IKK với các đặc tính dược động học tốt (khả dụng sinh học đường uống 100%, thời gian bán hủy đường truyền tĩnh mạch 2,2 h). Nó ức chế sự hiện diện của IL-6, IL-8 và eotaxin cảm ứng TNF-α phụ thuộc liều trong các tế bào cơ trơn đường dẫn khí(61).Trong các tế bào cơ trơn đường thở của con người, cùng thời gian ủ với BMS-345541 ức chế rõ ràng sự chuyển vị NF-kB thành hạt nhân gây ra bởi TNF-α và IL- 13 (62). PS-1145 có thểgây ức chế phụ thuộc liều sự phosphorl hóa IkBα và hoạt hóa NF-kB, do đó làm giảm sự biểu hiện của các yếu tố viêm bao gồm các phân tử bám dính, cytokine và chemokines trên các tế bào cơ trơn đường dẫn khí(63). Các phát triển khác bao gồm NF-kB “đoạn mồi” (decoy) oligonucleotides (64) và antisense và các tác nhân can thiệp RNA nhỏ (siRNA) (57). Các đoạn mồi oligonucleotide, trong đó các oligonucleotide chuỗi xoắn kép DNA được sử dụng để hoạt động như các đoạn mồi cho các yếu tố phiên mã, gắn kết cạnh tranh các hợp chất nhị trùng NF-kB tự do do đó ngăn cản sự tương tác của chúng với các vị trí tác động cis trong vùng promoter. Các tác nhân antisense sử dụng oligonucleotide phosphothionate ổn định để liên kết với bổ thể mRNA, do đó ngăn chặn sự dịch mã.Các tác nhân siRNA là axit nucleic dựa trên đó nhắm mục tiêu mRNA củaNFkB thông qua quá trình can thiệp RNA và giảm sự phong phú của nó. Tuy nhiên, một mối quan ngại về sự ức chế lâu dài của NF-kB là các chất ức chế hiệu quả có thể gây ức chế miễn dịch và làm giảm sự bảo vệ của cơ thể. Tuy nhiên, có những con đường thay thế hoạt hóa NF-kB, thông qua kinaza khác với IKK, có thể quan trọng hơn trong việc điều hòa bệnh viêm (28). (Còn tiếp trên TCHH số 19) Tài liệu tham khảo (xem bản gốc)
File đính kèm:
cac_chien_luoc_khang_viem_moi_trong_dieu_tri_copd_emerging_a.pdf

