Các chiến lược kháng viêm mới trong điều trị COPD
Dấu hiệu phân biệt của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là phản ứng miễn dịch viêm ở phổi tăng
lên hoặc bất thường khi hít phải các phân tử nhỏ và khí, thường từ khói thuốc lá, đặc trưng bởi sự gia tăng
số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào đã hoạt hóa và các tế bào lympho-T hoạt hóa (Tc1
và các tế bào Th1). Do đó, ngăn chặn phản ứng viêm là một cách tiếp cận hợp lý để điều trị bệnh phổi tắc
nghẽn mãn tính (COPD). Mặc dù bản chất COPD là viêm, nhưng các phương pháp điều trị kháng viêm hiện
có mang lại ít lợi ích hoặc không có lợi cho bệnh nhân COPD và có thể có tác dụng bất lợi. Vì lý do này,
có một nhu cầu cấp bách nhằm khám phá các phương pháp điều trị kháng viêm hiệu quả và an toàn có thể
ngăn chặn sự tiến triển không ngừng của bệnh. Trong những năm gần đây, sự chú ý phần lớn tập trung vào
việc ức chế sự tập trung và hoạt hóa các tế bào viêm, và các chất đối vận với sản phẩm do các tế bào viêm
tạo ra. Trong tổng quan này, chúng tôi tóm tắt các sự phát triển tốt nhất các chiến lược dùng thuốc kháng
viêm rõ ràng và/hoặc có khả năng hữu ích trong điều trị COPD
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các chiến lược kháng viêm mới trong điều trị COPD

Dịch 52 Hô hấp số 19/2019 Các khái niệm liên quan đến cơ chế đã được đưa vào trong bệnh sinh của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) (1). Dấu hiệu phân biệt của COPD là phản ứng miễn dịch viêm ở phổi tăng lên hoặc bất thường khi hít phải các phân tử nhỏ và khí, thường từ khói thuốc lá, đặc trưng bởi sự gia tăng số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào đã hoạt hóa và các tế bào lympho-T hoạt hóa (Tc1 và các tế bào Th1). Do đó, ngăn chặn phản ứng viêm là một cách tiếp cận hợp lý để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) có thể cải thiện các triệu chứng như ho và tiết dịch nhầy, cải thiện tình trạng sức khỏe và giảm các cơn kịch phát. Về lâu dài, các phương pháp điều trị như vậy sẽ làm giảm sự tiến triển của bệnh. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có biện pháp điều trị kháng viêm nào hiệu quả cũng vì tình trạng viêm ở bệnh nhân COPD ít nhất đề kháng một phần với thuốc glucocorticoid, có khả năng do hút thuốc lá và stress oxy hóa làm suy giảm chức năng histone deacetylase 2 (HDAC2) (2). Trong mọi trường hợp, chỉ có một số lượng hạn chế các loại thuốc đã được chứng minh là ảnh hưởng đến số lượng tế bào viêm quan trọng, đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính và tế bào lympho T, trong phổi của bệnh nhân COPD. Rõ ràng là có một nhu cầu rất lớn về y học chưa được đáp ứng đối với các loại thuốc kháng viêm hiệu quả để điều trị bệnh nhân COPD. Vì lý do này, sự chú ý phần lớn tập trung vào việc ức chế sự tập trung và hoạt hóa các tế bào này, và các chất đối vận với các sản phẩm do các tế bào viêm tạo ra, mặc dù không có nhiều loại thuốc cùng lúc thực hiện hai hoạt động này. Ngoài ra, có CÁC CHIẾN LƯỢC KHÁNG VIÊM MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ COPD (Emerging anti-inflammatory strategies for COPD) Mario Cazzola, Clive P. Page, Luigino Calzetta, M. Gabriella Matera (nguồn: Tạp chí hô hấp Châu Âu European Respiratory Journal In ấn ISSN 0903-1936, On line ISSN 1399-3003 Người dịch: BS LÊ ĐìNH HỒNG Tóm tắt Dấu hiệu phân biệt của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là phản ứng miễn dịch viêm ở phổi tăng lên hoặc bất thường khi hít phải các phân tử nhỏ và khí, thường từ khói thuốc lá, đặc trưng bởi sự gia tăng số lượng bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào đã hoạt hóa và các tế bào lympho-T hoạt hóa (Tc1 và các tế bào Th1). Do đó, ngăn chặn phản ứng viêm là một cách tiếp cận hợp lý để điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD). Mặc dù bản chất COPD là viêm, nhưng các phương pháp điều trị kháng viêm hiện có mang lại ít lợi ích hoặc không có lợi cho bệnh nhân COPD và có thể có tác dụng bất lợi. Vì lý do này, có một nhu cầu cấp bách nhằm khám phá các phương pháp điều trị kháng viêm hiệu quả và an toàn có thể ngăn chặn sự tiến triển không ngừng của bệnh. Trong những năm gần đây, sự chú ý phần lớn tập trung vào việc ức chế sự tập trung và hoạt hóa các tế bào viêm, và các chất đối vận với sản phẩm do các tế bào viêm tạo ra. Trong tổng quan này, chúng tôi tóm tắt các sự phát triển tốt nhất các chiến lược dùng thuốc kháng viêm rõ ràng và/hoặc có khả năng hữu ích trong điều trị COPD. Từ khóa: Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, phương pháp điều trị hướng đến mục tiêu, các can thiệp điều trị, điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Dịch 53 Hô hấp số 19/2019 những loại thuốc có thể có tác dụng kháng viêm gián tiếp. CÁC THUỐC ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP TRỰC TIẾP ĐẾN CÁC THÀNH PHẦN TẾ BÀO CỦA TìNH TRẠNG VIÊM Hiện nay, một số loại thuốc mới ức chế trực tiếp các thành phần tế bào của tình trạng viêm, mặc dù có những quan ngại về việc sử dụng các loại thuốc này vì phản ứng tăng bạch cầu đa nhân trung tính bị suy giảm có thể làm tăng tính nhạy cảm với nhiễm trùng ở bệnh nhân COPD, những người thường gặp nguy cơ này (3). Các liệu pháp đã được nghiên cứu bao gồm các chất ức chế phosphodiesterase 4 (PDE4), chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a và các loại thuốc cản trở các phân tử bám dính (bảng 1). Các thuốc ức chế PDE4: Các đồng enzyme PDE4 là một mục tiêu điều trị chính vì nó là đồng enzyme chiếm ưu thế trong phần lớn các tế bào viêm liên quan đến sinh bệnh học của COPD. Sự ức chế của nó trong các tế bào viêm ảnh hưởng đến một số đáp ứng cụ thể, chẳng hạn như sản xuất và/hoặc phóng thích các chất trung gian tiền viêm, bao gồm các cytokine và các nhóm ôxy hoạt hóa tính (4), với các tác động được ghi nhận đầy đủ trong các mô hình động vật của COPD (5). Bảng 1. Các thuốc ảnh hưởng trực tiếp đến các thành phần tế bào của tình trạng viêm Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Các thuốc ức chế PDE4 Các chất được nghiên cứu tích cực Giảm các tế bào viêm ở mô đường hô hấp đặc trưng của COPD Ít xảy ra cơn kịch phát hơn Ổn định FEV 1 theo thời gian Kết quả mâu thuẫn với các hợp chất khác nhau Tác dụng phụ đường tiêu hóa Một số tác động kháng viêm được báo cáo trong phòng thí nghiệm (in-vitro) có thể không được thể hiện ở nồng độ trong huyết tương đã đạt được ở người Trì hoãn quá trình chết theo chương trình của bạch cầu đa nhân trung tính Chất ức chế PDE4 dùng đường uống Roflumilast ELB353 Revamilast MEM1414 Oglemilast OX914 BLX-028914 ASP3258 TAS-203 Zl-n-91 NIS-62949 NCS 613 Tetomilast Chất ức chế PDE4 dùng đường hít GSK256066 SCH900182 Compound 1 Tofimilast AWD12-281 UK500001 Các thuốc ức chế PDE3/4 RPL554 Các thuốc ức chế PDE4/ TPI 1100 Dịch 54 Hô hấp số 19/2019 PDE4 cũng có trong cơ trơn đường thở, nhưng cho đến nay các chất ức chế PDE4 chọn lọc không cho thấy hoạt động giãn phế quản cấp tính ở người (6,7). Hầu hết các nghiên cứu (dài hạn) trong COPD cho đến nay đã được thực hiện với các thuốc ức chế PDE4 thế hệ thứ hai, cilomilast và roflumilast (8). Việc triển khai cilomilast đã bị chấm dứt vì các thử nghiệm pha III đa trung tâm lớn không đáp ứng được các kết cục hiệu quả được xác định trước của chúng và thường liên quan đến các tác dụng phụ đường tiêu hóa. Ngược lại, roflumilast đã được đăng ký ở một số nước châu Âu và được chấp thuận ở Mỹ. Một số thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (RCTs) từ 6 đến 12 tháng đã chỉ ra rằng roflumilast mang lại hiệu quả lâm sàng bền vững, chủ yếu là giảm các cơn kịch phát, trong một nhóm nhỏ bệnh nhân COPD có các đặc tính bao gồm viêm phế quản mạn tính có/không có dùng glucocorticoid hít đồng thời (9). Quan trọng hơn, nó làm giảm tỷ lệ các cơn kịch phát COPD và cải thiện chức năng phổi (FEV 1 trước và sau thuốc giãn phế quản) mặc dù điều trị đồng thời với các chất chủ vận β2-tác dụng kéo dài (10). Phân tích dữ liệu gộp cho thấy tác dụng phụ liên quan đến roflumilast (buồn nôn, đau đầu, tiêu chảy và giảm cân) thường không nặng và tự khỏi, mặc dù kết quả là tăng số bệnh nhân rút khỏi các nghiên cứu (8). Một số thuốc ức chế PDE4 khác vẫn đang trong giai đoạn phát triển (bảng 1), mặc dù cho đến nay, hiệu quả điều trị của các chất ức chế PDE4 dùng đường uống bị hạn chế bởi các tác dụng phụ của chúng, đặc biệt là ói và buồn nôn (bảng 1) (6,8). Đã có gợi ý rằng những tác dụng phụ là do ức chế của một phân nhóm riêng biệt của PDE4, PDE4D (11), trong khi PDE4B quan trọng hơn PDE4D trong các tế bào viêm (12). Về mặt lý thuyết, các chất ức chế chọn lọc PDE4B có thể có tỷ lệ điều trị lớn hơn (8). Tuy nhiên, quan điểm này không được chia sẻ phổ biến và khám phá gần đây về các chất ức chế PDE4 thâm nhập não chọn lọc không gây nôn (13) tăng cân sau đó đối với việc tránh nhắm đến mục tiêu của PDE4D, đặc biệt vì phân nhóm enzyme này hiện diện trong các tế bào liên quan tới COPD (8). Như một sự lựa chọn thay thế, các chất ức chế PDE4 đường uống có khả dụng sinh học thấp có thể được đưa vào bằng đường hít để tối đa hóa hiệu quả của chúng trong điều trị bệnh viêm trong khi giảm thiểu tác dụng phụ của chúng. Một số thuốc ức chế PDE4 đường hít, ví dụ GSK256066, Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Các chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a Hoạt hóa các thụ thể adenosine A 2a gián tiếp tác động kháng viêm đáng kể, cả trong in- vitro và in-vivo Tác dụng phụ trên tim mạch CGS21680 ATL146e UK371,104 GW328267X Regadenoson 2-(cyclohexylethylthio)-AMP Các loại thuốc cản trở các phân tử bám dính Các phân tử này ức chế sự tích tụ bạch cầu đa nhân trung tính trong các mô hình viêm phổi trên động vật Các thử nghiệm lâm sàng sớm khi sử dụng các chất đối vận selectin và integrin đã có ít thành công Các chất ức chế có cấu trúc Carbohydrate Các chất đối vận sLex Bimosiamose Heparins và heparinoids PGX-100 PGX-200 Các chất ức chế mAb EL246 Viết tắt: PDE4: phosphodiesterase 4; COPD: (chronic obstructive pulmonary disease) bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính; FEV 1 : (forced expiratory volume in 1s) thể tích thở ra gắng sức trong 1 giây; mAb: (monoclonal antibodies) các kháng thể đơn dòng. Dịch 55 Hô hấp số 19/2019 đang được phát triển, nhưng thất bại trong các thử nghiệm lâm sàng đã được báo cáo cho ba chất ức chế PDE4 hít khác, tofimilast (14), AWD12-281 (15) và UK500001 (16). Một cách tiếp cận khác là sự phát triển của các chất ức chế PDE3/4 hỗn hợp với mục tiêu có thuốc giãn phế quản và tác động kháng viêm trong một phân tử đơn lẻ (hình 1). Sự phát triển của thuốc ức chế PDE3/4 hỗn hợp có thời gian tác dụng kéo dài cùng với tác động kháng viêm có thể có tiện ích lớn hơn trong COPD bởi vì sự kết hợp của cả hai thuốc giãn phế quản (PDE3 qua trung gian) và tác động kháng viêm (gián tiếp qua PDE3 và PDE4) có thể dẫn đến tăng hiệu quả tổng thể so với các thuốc ức chế PDE4 chọn lọc. RPL 554 là chất ức chế PDE3/4 hỗn hợp tiên tiến nhất đang được phát triển (17). Hình 1. Sự ức chế kết hợp các chất ức chế phosphodiesterase (PDE) 3 và PDE4 có tác động kháng viêm và giãn phế quản hiệp đồng cộng và hiệu ứng đồng vận so với sự ức chế của PDE3 hoặc PDE4 riêng lẻ. (Các) cơ chế hiệu ứng đồng vận cơ bản rõ ràng của sự ức chế kép PDE3/4 hiện chưa rõ. Tuy nhiên, người ta đã gợi ý rằng PDE3 (chủ yếu tác dụng tại chỗ thành phần tế bào hạt) và PDE4 (chủ yếu tác dụng đến nguyên sinh chất) có thể điều chỉnh các nhóm khác nhau của cAMP. ASM: cơ trơn đường hô hấp; PMN: bạch cầu đa nhân trung tính; iNANC: ức chế không adrenergic và không cholinergic. Ngoài ra, các chất ức chế PDE4/7 hỗn hợp đang được phát triển. Sự kết hợp ức chế PDE7 với sự ức chế PDE4 có thể, về mặt lý thuyết, có tính hiệp đồng trong việc giảm sự hoạt hóa tế bào viêm và chemokine và cytokine phóng thích trong phổi (8). TPI 1100 bao gồm hai oligonucleotides theo chiếu ngược (antisense) nhắm mục tiêu mRNA đối với các đồng phân PDE4B/4D và PDE 7A (18). Nó rất hiệu quả trong việc giảm dòng bạch cầu đa nhân trung tính đi vào và các cytokine quan trọng trong một mô hình gây COPD cho chuột hít khói thuốc đã được xác lập (18). Các chất chủ vận thụ thể Adenosine A2a: Có bằng chứng cho thấy sự tham gia của thụ thể adenosine trong quá trình viêm. Cho đến nay, bốn loại phân nhóm (A 1 , A 2a , A 2b và A 3 ) của thụ thể adenosine đã được nhân bản. Các tác dụng kháng viêm của adenosine thường được quy cho sự chiếm dụng các thụ thể A 2a kết hợp với protein Gs tăng AMP vòng (cyclic adenosine monophosphate/cAMP) (19). Một cơ chế phân tử chính là ngăn chặn con đường yếu tố hạt nhân (NF)-kB được kích hoạt bởi các cytokine như yếu tố hoại tử khối u (TNF)-a và interleukin (IL)-1b. Sự kích thích các thụ thể A 2a giới hạn sản xuất cytokine tiền viêm đại thực bào, làm giảm độ bám dính phân tử hiện diện trên các tế bào nội mô và ngăn chặn sự phát sinh các ion âm superoxide và bạch cầu đa nhân trung tính tổng hợp leukotriene (20-22). Một số chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a đã được báo cáo là có hiệu quả trong các mô hình COPD (bảng 1), nhưng các vấn đề tiềm tàng có thể là do tác dụng phụ tim mạch, chủ yếu là hạ huyết áp và nhịp tim nhanh phản xạ (20,22). Regadenoson (CVT-3146), một chất chủ vận thụ thể adenosine A 2a chọn lọc, an toàn ở bệnh nhân ngoại trú có COPD ổn định trên lâm sàng ở mức trung bình đến nặng, nhưng không thể thay đổi nhiều thông số chức năng phổi, bao gồm FEV 1 và dung tích sống gắng sức (FVC) lặp lại khi so với giả dược (23). Tuy nhiên, UK432,097, có lợi trong phổi của lợn thực nghiệm gây mê mà không có bất kỳ tác dụng phụ tim mạch rõ ràng nào, và giống như GW328267X, một chất chủ vận thụ thể A 2a mạnh, hiện đang trong giai đoạn II thử nghiệm đối với COPD. Các báo cáo về tác động của các hợp chất này trong COPD được mong đợi với sự quan tâm. Gần đây, người ta đã đề xuất để phát triển các chất chủ vận thụ thể A 2a như tiền chất bằng cách Dịch 56 Hô hấp số 19/2019 tổng hợp các dạng phosphoryl hóa, không hoạt hóa của các chất chủ vận thụ thể A 2a (24,25). Cách tiếp cận này có thể giúp đạt được các tác động kháng viêm mong muốn và giảm tác dụng phụ không mong muốn, chẳng hạn như hạ huyết áp. Các loại thuốc cản trở các phân tử bám dính: Các quá trình viêm trong COPD được đặc trưng bởi sự di chuyển liên tục của các tế bào viêm, chủ yếu là các tế bào đa nhân trung tính, từ khoang mạch máu đến phổi, một phần được điều chỉnh bởi các phân tử bám dính selectin (26). Selectins dàn xếp thoáng qua các tương tác bám dính thích hợp với tình trạng viêm thông qua sự nhận ra của các quyết định kháng nguyên (epitope) carbohydrate, sialyl Lewisx (sLex), biểu hiện trên các phối tử protein-lipid đa dạng về cấu trúc của các bạch cầu lưu hành. Tốc độ luân chuyển nhanh của các liên kết phối tử- selectin, do tốc độ mở và đóng nhanh của chúng cùng với các mức độ kéo căng cao đáng kể của chúng, cho phép chúng làm trung gian kết nối tế bào và cuộn lại trong dòng chảy cắt hạn (27). Ba lựa chọn đã được xác định: L-, P- và E-selectin. Các phần tử hướng đến mục tiêu này đã được công nhận có thể làm giảm tình trạng viêm trong COPD (28). Chắc chắn cách tiếp cận phổ biến nhất ức chế chức năng selectin là ức chế trực tiếp một hoặc nhiều selectins. Carbohydrates, các phối tử hòa tan tái tổ hợp, các kháng thể và các chất ức chế phân tử nhỏ đều đã đưa vào phát triển trên lâm sàng như là các thuốc trị liệu có tiềm năng hướng đến mục tiêu selectins (bảng 1). Bimosiamose (TBC1269, 1) là một chất đối vận pan-selectin tổng hợp hướng đến mục tiêu E-, P- và L-selectin. In vitro, bimosiamose ngăn chặn sự bám dính của bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái toan và các lympho bào dưới điều kiện dòng chảy tĩnh và động (29). In vivo, nó cho thấy hiệu quả kháng viêm trong nhiều mô hình động vật khác nhau, bao gồm các mô hình viêm phổi (30). Trong một thử nghiệm thí điểm, bimosiamose dạng hít đã cho thấy an toàn và dung nạp tốt ở những bệnh nhân COPD nhẹ và trung bình ổn định và cho thấy có tác động kháng viêm ảnh hưởng đến các thông số về đàm, giảm nồng độ IL-8 và lympho bào (31). Một thử nghiệm khác gần đây đã ghi nhận rằng việc hít bimosiamose trong 28 ngày trên các thuốc giãn phế quản tiêu ... nội bào (135). Người ta đã đề xuất rằng nồng độ hiện hiện cao của MDR1, gen đa kháng thuốc mã hóa P-gp, có thể được coi là một cơ chế để kháng glucocorticoid trong các bệnh lý viêm (136). Có một số chiến lược điều trị đối với việc ức chế P-gp để ngăn chặn glucocorticoid đi ra khỏi tế bào, một vài chiến lược trong số đó dựa trên các quan sát rằng verapamil và quinidine là các thuốc chẹn dòng đi ra; một số loại thuốc mới đang được phát triển cho mục đích này (136). Ngoài ra, tăng yếu tố ức chế sự di chuyển của đại thực bào (MIF), một cytokine tiền viêm có tác dụng kháng glucocorticoid mạnh, đã được áp dụng trong trường hợp đề kháng glucocorticoid, vì vậy các chiến lược ức chế MIF, bao gồm các thuốc ức chế phân tử nhỏ và kháng thể đơn dòng, hiện đang được khám phá (137). Thuốc giãn phế quản Thở gấp khởi phát phản ứng viêm bao gồm sự gia tăng của các cytokine trong huyết tương được tạo ra trong cơ hoành do tăng kích hoạt khối cơ, thu hút và hoạt hóa các quần thể tế bào lympho (138). Những cytokine này có thể gián tiếp gây tổn thương cơ hoành và cũng đe dọa gây tổn thương sự co bóp của cơ hoành, góp phần gây nên suy nhược cơ. Ngoài ra, chúng có thể có tác dụng toàn thân, huy động glucose từ gan và axit béo tự do từ mô mỡ đến các cơ hô hấp đang hoạt động gắng sức (138). Thuốc giãn phế quản đã được đề xuất có khả năng làm giảm viêm bằng cách giảm tình trạng tăng động ứ khí phế nang quá mức và ảnh hưởng đến hơi thở có trở kháng (138). Thật không may, các nghiên cứu về tác dụng của thuốc chủ vận β2 đối với sự co bóp của cơ hoành đã tạo ra kết quả gây tranh cãi (139,140). Hơn nữa, mặc dù tiotropium, một chất kháng muscarinic có tác dụng kéo dài, có thể làm giảm đáng kể tình trạng ứ khí phế nang quá mức, hậu quả là giảm thở gấp (141), các thử nghiệm lâm sàng với tác nhân này đã không chứng minh một cách thuyết phục về tác dụng kháng viêm (142). Ngoài ra, các nghiên cứu kiểm tra các tác dụng tăng co bóp cơ của các methylxanthine cũng có một số mâu thuẫn. Aminophylline làm tăng sự co bóp cơ hoành, đảo ngược sự mệt mỏi của cơ hoành (143) và hơn nữa, theophylline liều thấp có tác dụng Dịch 69 Hô hấp số 19/2019 kháng viêm trong COPD (144). Tuy nhiên, các tác dụng này đã không được tất cả các nhà nghiên cứu quan sát, và có nghi ngờ rằng chúng là do giảm thở gấp (144). Những phát hiện này đặt câu hỏi về tầm quan trọng của thuốc giãn phế quản trong việc giảm viêm do thở gấp gây ra. Chiến lược chống oxy hóa Các stress do thuốc lá/khói thuốc lá/stress oxy hóa do đốt cháy nhiên liệu cho sinh khối và stress do aldehyd/carbonyl có liên quan mật thiết đến tình trạng viêm trong COPD. Do đó, các tác nhân có thể ức chế sự tạo ra các nhóm oxy phản ứng hoặc có thể trung hòa các nhóm đó hoặc cả hai đều có khả năng ảnh hưởng gián tiếp đến viêm (145). Trong số các chất chống oxy hóa khác nhau đã được thử cho đến nay, chất chống oxy hóa thiol, các chất tan đàm, và polyphenol trong chế độ ăn uống đã được báo cáo để tăng tình trạng thiol nội bào cùng với việc kích thích sinh tổng hợp glutathione. Sự gia tăng tình trạng thiol như vậy lần lượt dẫn đến việc giải độc tính của các gốc tự do và các chất oxy hóa cũng như ức chế các phản ứng viêm đang diễn ra. Các chất gây cảm ứng sinh tổng hợp glutathione (chất kích hoạt Nrf2), các vitamin chống oxy hóa, các chất hóa học/sinh học nhận diện các gốc tự do, superoxide effutase và glutathione peroxidase, các chất ức chế/ngăn chặn quá trình peroxid hóa lipid và carbonyl hóa protein cũng đã cho thấy có các lợi ích bằng cách ức chế các phản ứng viêm do khói thuốc lá và các thay đổi trong tế bào do các stress carbonyl hóa/ oxy hóa gây ra (bảng 3) (145). Vì nhiều loại chất oxy hóa, các gốc tự do và aldehyd có liên quan đến sinh bệnh học của COPD, tác dụng kết hợp các chất chống oxy hóa khác nhau cùng với thiols, các chất hóa học/sinh học nhận diện các gốc tự do, các chất ức chế/ngăn chặn quá trình peroxid hóa lipid và carbonyl hóa protein hay các chất giống enzyme protein là một đề xuất thú vị nghiên cứu có giá trị ở bệnh nhân COPD. Các chất chống oxy hóa (ví dụ thiol và các phân tử khác) có thể được kết hợp với thuốc kháng viêm/chất ức chế PDE4/chất kích hoạt Sirtuin1, thuốc giãn phế quản, steroid, kháng sinh và các statin (145). Các chất ức chế protease Bạch cầu đa nhân trung tính, các đại thực bào và các tế bào lympho T gây độc tế bào phóng thích một loạt các enzyme ly giải protein, bao gồm serine (elastase, proteinase 3), cysteine (cathepsin S) và metallo-protease (MMP-12). Những proteinase này tách các thành phần của cơ chất ngoại bào, sợi elastin và collagen, tạo ra các đoạn elastin hoặc peptide có nguồn gốc collagen như proline-glycine-proline, đã được chứng minh là các chất hóa hướng động cho các tế bào bạch cầu đơn nhân, tế bào tiền thân cho đại thực bào hoặc bạch cầu đa nhân trung tính (146). Các bước của quá trình ly giải protein trình bày nhiều mục tiêu tiềm năng để can thiệp điều trị (147). Các hợp chất mới đã được phát triển để đối kháng từng bước của quá trình này (bảng 3). Collagen và elastin xử lý từng tính năng MMP như các protease hoạt động. Các chất ức chế MMP không đặc hiệu như ilomastat (GM-6001), marimastat, RS-113,456 hoặc CP-471,474 có thể ngăn chặn tín hiệu tiền viêm do suy giảm collagen hoặc elastin gây ra (bảng 3). Hơn nữa, các chất đối kháng cụ thể của sự phân hủy collagen hoặc elastin đã cho thấy sự hứa hẹn trong công việc tiền lâm sàng. Một số chất ức chế elastase của bạch cầu đa nhân trung tính tổng hợp (NE) đã được phát triển như là tác nhân trị liệu tiềm năng (bảng 3) (148). Chúng bao gồm các chất ức chế không thể đảo ngược và các chất ức chế đảo ngược. Một trong những vấn đề với các chất ức chế đảo ngược trọng lượng phân tử thấp là chúng có thể phóng thích NE, cho phép nó phá hủy mô. Mặc dù các chất ức chế không thể đảo ngược đã được chứng minh là hoạt động hiệu quả in vivo trên chuột đồng để giảm nhiều tác dụng của NE được nội khí quản, độc tính của chúng ngăn cản việc sử dụng trên lâm sàng. Sivelestat, được lưu hành trên thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc để điều trị chấn thương phổi cấp tính liên quan đến hội chứng đáp ứng viêm toàn thân, và ONO-6818 đã được phát triển Dịch 70 Hô hấp số 19/2019 và đã cho thấy kết quả hỗn hợp trong các nghiên cứu ở người, trong khi các thuốc ức chế NE khác đã được dừng lại trong các thử nghiệm tiền lâm sàng hoặc pha I vì nhiều lý do (149). Điều thú vị là 3 tháng điều trị với AZD9668 không cải thiện chức năng phổi, các triệu chứng cơ năng và thực thể về hô hấp hoặc chỉ số đánh giá chất lượng cuộc sống khi thêm vào liệu pháp điều trị duy trì budesonide/ formoterol ở bệnh nhân COPD (150). Việc thiếu tác dụng của các thuốc ức chế NE trong COPD có thể là do vai trò của bạch cầu đa nhân trung tính trong sinh bệnh học của COPD ít quan trọng hơn so với suy nghĩ trước đây (150). Ngoài ra, việc bổ sung một chất ức chế NE có thể không mang lại lợi ích gì thêm ngoài việc đã đạt được với liệu pháp điều trị duy trì thông thường. PHẦN KẾT LUẬN Vào năm 2004, các hướng dẫn của Hiệp hội Lồng ngực Hoa Kỳ/Hiệp hội hô hấp châu Âu ( 151) đã xác định nhu cầu cấp thiết để phát triển các tác nhân ngăn chặn tình trạng viêm liên quan đến COPD và ngăn ngừa tiến triển bệnh. Trong những năm qua, một số mục tiêu tiềm năng mới đã được xác định và các tác nhân mới cho các mục tiêu mới này, cũng như cho các mục tiêu nhận biết được đã được phát triển. Những can thiệp này đã có hiệu quả trong các mô hình động vật, nhưng việc chuyển sang người không đơn giản và có sự khác biệt lớn giữa dữ liệu từ động vật và thử nghiệm trên người (152). Một lời giải thích khả dĩ cho hiệu quả hạn chế rõ rệt của điều trị kháng viêm trong COPD là vào thời điểm COPD trở nên rõ ràng trên lâm sàng, bệnh đã tiến triển vừa phải, với tổn thương nhu mô không thể đảo ngược, do đó hạn chế lợi ích của việc điều trị kháng viêm đơn thuần, đặc biệt là đối với chức năng phổi (113). Do đó, lý do cho sự khác biệt giữa dữ liệu từ động vật và thử nghiệm ở người có thể liên quan, phần lớn, do không thể tạo ra COPD nghiêm trọng ở động vật thí nghiệm. Hơn nữa, sự phát triển đầy đủ của các thuốc kháng viêm mới có thể có vấn đề vì các đánh giá lâm sàng hiện đang được sử dụng của bệnh nhân mắc COPD không phải là dấu hiệu của quá trình viêm (153). Vì những lý do này, không có gì đáng ngạc nhiên khi chỉ có một loại thuốc, roflumilast, một chất ức chế PDE4 hoạt hóa dùng đường uống, đã được đưa ra thị trường để điều trị COPD, trong khi tất cả các phương pháp kháng viêm dược lý mới khác được thử nghiệm trên người đã cho thấy không hiệu quả hoặc nhiều tác dụng phụ chính. Rõ ràng là, mặc dù có những tiến bộ được trong lĩnh vực này, vẫn còn những khoảng trống đáng kể trong sự hiểu biết của chúng ta. Những gì chúng ta đã thực sự hiểu rằng là sự phát triển của các phương pháp điều trị mới cho COPD, ngoài thuốc giãn phế quản, vẫn còn là một thách thức. Hình 4. Protein kinase hoạt hóa phân bào p38 (MAPK) hiện diện trong phần lớn các tế bào viêm và điều chỉnh việc sản xuất các chất trung gian gây viêm chính. Ức chế p38 MAPK dự kiến sẽ ức chế không chỉ sản xuất các cytokine tiền viêm mà cả tác động của chúng, do đó làm gián đoạn vòng xoắn bệnh lý thường xảy ra trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). MK2, một cơ chất cuối dòng của p38 MAPK, đại diện cho một mục tiêu tuyệt vời khác để điều trị kháng viêm. TNF: yếu tố hoại tử khối u; IL: interleukin; MMP: cơ chất metallicoproteinase; MCP: protein hóa hướng động đơn bào; VEGF: yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu. Hình 5. Sơ đồ biểu diễn vai trò của tín hiệu phosphoinositide 3-kinase (PI3K)δ và PI3Kγ trong các tế bào được chọn quan trọng trong bệnh hô hấp. TCR: thụ thể tế bào T; ROS: các nhóm oxy phản ứng; GC: glucocorticoid. Dịch 71 Hô hấp số 19/2019 Hình 6. Ở bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), stress oxy hóa mạn tính kích hoạt các đại thực bào và làm suy yếu hoạt động HDAC2. Mất chức năng HDAC2 dẫn đến tăng cường sự hiện diện gen viêm và kháng glucocorticoid. Hơn nữa, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hoạt động của các chất vận chuyển qua màng như P-glycoprotein (P-gp) có thể ảnh hưởng đến nồng độ glucocorticoids nội bào. P-gp đẩy glucocorticoids ra khỏi tế bào, do đó làm giảm nồng độ của chúng trong tế bào. Một số loại thuốc có thể đảo ngược cơ chế phân tử của đề kháng glucocorticoid bằng cách khôi phục hoạt động HDAC2 hoặc ức chế P-gp. NF-kB: yếu tố hạt nhân-kB. Bảng 2. Các thuốc có thể có tác động kháng viêm gián tiếp (tiếp theo) Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Các loại thuốc có thể đảo ngược sự đề kháng glucocorticoid Một số loại thuốc có thể đảo ngược của sự đề kháng glucocorticoid bằng cách ngăn chặn cơ chế phân tử Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng Hoạt hóa HDAC2 Theophylline Curcumin Resveratrol Chất ức chế P-glycoprotein Chất ức chế MIF Các thuốc giãn phế quản Các thuốc giãn phế quản có khả năng giảm viêm bằng cách giảm tình trạng tăng động ứ khí phế nang quá mức và ảnh hưởng đến hơi thở có trở kháng. Liều thấp theophylline có tác dụng kháng viêm Các nghiên cứu tác dụng của các chất chủ vận β2 trên sự co bóp của cơ hoành còn gây tranh cãi Tiotropium làm giảm tình trạng ứ khí phế nang quá mức nhưng không chứng minh thuyết phục tác dụng kháng viêm Không có tài liệu ghi nhận tác dụng kháng viêm của theophylline do làm giảm thở gấp Các thuốc chủ vận β2 Các thuốc kháng muscarinic Tác dụng kéo dài Methylxanthines Các chiến lược chống oxy hóa Các hợp chất Thiol Loãng đàm mạnh Tác dụng nhẹ trên tần xuất đợt cấp Các chất hoạt hóa Nrf2 Các hợp chất Thiol Thiếu sinh khả dụng Gây co thắt phế quản Các chất hoạt hóa Nrf2 Suy giảm nghiêm trọng trong các iai đoạn nặng COPD theo GOLD Các hợp chất Thiol N-acetyl-L-cysteine (NAC) N-acystelyn (NAL) N-isobutyrylcysteine (NIC) Glutathione esters Dịch 72 Hô hấp số 19/2019 Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Ghi nhận sự bảo vệ trên các mô hình động vật thực nghiệm Giảm các loại gen/ enzyme pha II khác nhau Các chất giống SOD Ghi nhận sự bảo vệ trên các mô hình động vật thực nghiệm Ức chế tái cấu trúc các cơ chất ngoại bào Các chất ức chế/ngăn chặn quá trình peroxid hóa lipid và carbonyl hóa protein Ức chế chuỗi phản ứng peroxid hóa lipid Quá trình cacbonyl hóa / oxy hóa Nrf2 / Keap1 Cần các chất gây cảm ứng dự phòng mạnh Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng Các chất giống SOD Có thể làm suy yếu thực bào Thay đổi hằng định nội môi oxy hóa khử nội sinh Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng Các chất ức chế/ngăn chặn quá trình peroxid hóa lipid và carbonyl hóa protein Sinh khả dụng kém Hiện diện ít tại vị trí của môi trường vi mô Yêu cầu thêm các nghiên cứu lâm sàng S-carboxymethylcysteine (carbocysteine) Erdosteine Fudosteine Thioredoxin Procysteine Ergothioneine Các chất cảm ứng sinh tổng hợp glutathione (Các chất hoạt hóa Nrf2) Các vitamin chống oxy hóa (vitamin A, E, C) β-carotene CoQ10 Các Polyphenol Curcumin Resveratrol Quercetin Green tea catechins Các Nitrone nhận diện các gốc tự do NXY-059 STANZ Các Porphyrin Các chất giống SOD và glutathione peroxidase M40419, M 40403, M40419 Ebselen Các chất ức chế/ngăn chặn quá trình peroxid hóa lipid và carbonyl hóa protein Edaravone Lazaroids Các chất ức chế protease Hầu hết các chất ức chế MMP ngăn ngừa khí phế thũng và sự dày lên của đường dẫn khí nhỏ trên các mô hình COPD tiền lâm sàng Các thuốc ức chế NE không chỉ có thể bảo vệ tổn thương mô phổi qua trung gian NE mà còn kiểm soát phản ứng viêm quá mức Sự phát triển trên lâm sàng đã bị dừng lại đối với nhiều chất ức chế MMP và NE vì những lý do nghiêm trọng Thuốc ức chế NE có thể đảo ngược có thể phóng thích NE Các tác dụng phụ chính (độc tính liên quan) Các chất ức chế MMP Ức chế mô metalloproteases Kháng sinh Các chất ức chế phân tử nhỏ Ilomastat (GM-6001) CP-471,474 Marimastat RS-113,456 Các thuốc ức chế NE Các thuốc ức chế nội sinh Epi-NE-4 Các thuốc ức chế NE phân tử nhỏ tổng hợp Các thuốc ức chế đảo ngược được Dịch 73 Hô hấp số 19/2019 Thuốc Ưu điểm Nhược điểm Các thuốc đang nghiên cứu Sivelestat (ONO-5046) Midesteine (MR-889) ONO-6818 ICI 200,880 AZD-9668 Các thuốc ức chế không đảo ngược được Peptide boronic acids Peptide aldehydes Các ketone thay thế tripeptide β-lactams SOD: superoxide dismutase; MMP: cơ chất metalloproteinase; COPD: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; NE: elastase bạch cầu đa nhân trung tính; GOLD: Sáng kiến toàn cầu cho bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính - Global Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease; MIF: yếu tố ức chế di chuyển bạch cầu. TƯỜNG TRìNH VỀ LỢI ÍCH Không khai báo (Tài liệu tham khảo bản gốc)
File đính kèm:
cac_chien_luoc_khang_viem_moi_trong_dieu_tri_copd.pdf