Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của nền đệm lót khác nhau tới khả năng sinh trưởng của gà móng nuôi tại Thái Nghuyên

TÓM TẮT

Thí nghiệm này nhằm đánh giá ảnh hưởng của nền đệm lót đến khả năng thích nghi và sản xuất

của gà Móng tại Thái Nguyên. Thí nghiệm được tiến hành tại Trại chăn nuôi gia cầm khoa Chăn

nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên năm 2017, gồm tổng số 180 con (1 – 112

ngày tuổi), chia thành 2 lô (mỗi lô được chia thành 3 nhóm, 30 con/nhóm). Lô đối chứng (ĐC) sử

dụng nền đệm lót thông thường là trấu được khử trùng. Lô thí nghiệm sử dụng nền đệm lót gồm

9,5 kg trấu + 0,1 kg lá lốt tươi + 0,2 kg lá xoan tươi + 0,2 kg lá sả tươi, tất cả hỗn hợp được trộn

đều và dùng làm đệm lót cho gà từ khi bắt đầu úm, sau đó cứ 30 ngày lượng lá sả, lá lốt, lá xoan

như trên được băm nhỏ và rắc đều trên diện tích 10 m2 đệm lót chuồng nuôi. Thức ăn hỗn hợp cho

gà thí nghiệm được sử dụng là thức ăn của Công ty Japfa Comfeed Việt Nam cho gà lông màu.

Kết quả nghiên cứu cho thấy lô thí nghiệm dùng đệm lót có bổ sung lá sả, lá lốt, lá xoan có ảnh

hưởng tốt đến tăng khối lượng (KL), tiêu thụ thức ăn (TA), tiêu tốn TA và chi phí TA cho 1 kg

tăng KL của gà. Lô thí nghiệm có KL, tăng KL lớn hơn nhưng không sai khác rõ rệt (P>0,05)

nhưng tiêu tốn, chi phí TA cho 1 kg tăng KL thấp hơn lô đối chứng (P <>

Từ khóa: Đệm lót sinh học, lá sả, lá lốt, lá xoan, trấu, gà Móng

pdf 5 trang phuongnguyen 1200
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của nền đệm lót khác nhau tới khả năng sinh trưởng của gà móng nuôi tại Thái Nghuyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của nền đệm lót khác nhau tới khả năng sinh trưởng của gà móng nuôi tại Thái Nghuyên

Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của nền đệm lót khác nhau tới khả năng sinh trưởng của gà móng nuôi tại Thái Nghuyên
Từ Trung Kiên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 193 - 197 
193 
BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỀN ĐỆM LÓT KHÁC NHAU 
TỚI KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG CỦA GÀ MÓNG NUÔI TẠI THÁI NGHUYÊN 
Từ Trung Kiên , Trần Thị Hoan, Cù Thị Thúy Nga, 
Trần Văn Thăng, Nguyễn Gia Huân, Hoàng Anh Thắng 
Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Thí nghiệm này nhằm đánh giá ảnh hưởng của nền đệm lót đến khả năng thích nghi và sản xuất 
của gà Móng tại Thái Nguyên. Thí nghiệm được tiến hành tại Trại chăn nuôi gia cầm khoa Chăn 
nuôi Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên năm 2017, gồm tổng số 180 con (1 – 112 
ngày tuổi), chia thành 2 lô (mỗi lô được chia thành 3 nhóm, 30 con/nhóm). Lô đối chứng (ĐC) sử 
dụng nền đệm lót thông thường là trấu được khử trùng. Lô thí nghiệm sử dụng nền đệm lót gồm 
9,5 kg trấu + 0,1 kg lá lốt tươi + 0,2 kg lá xoan tươi + 0,2 kg lá sả tươi, tất cả hỗn hợp được trộn 
đều và dùng làm đệm lót cho gà từ khi bắt đầu úm, sau đó cứ 30 ngày lượng lá sả, lá lốt, lá xoan 
như trên được băm nhỏ và rắc đều trên diện tích 10 m2 đệm lót chuồng nuôi. Thức ăn hỗn hợp cho 
gà thí nghiệm được sử dụng là thức ăn của Công ty Japfa Comfeed Việt Nam cho gà lông màu. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy lô thí nghiệm dùng đệm lót có bổ sung lá sả, lá lốt, lá xoan có ảnh 
hưởng tốt đến tăng khối lượng (KL), tiêu thụ thức ăn (TA), tiêu tốn TA và chi phí TA cho 1 kg 
tăng KL của gà. Lô thí nghiệm có KL, tăng KL lớn hơn nhưng không sai khác rõ rệt (P>0,05) 
nhưng tiêu tốn, chi phí TA cho 1 kg tăng KL thấp hơn lô đối chứng (P < 0,05). 
Từ khóa: Đệm lót sinh học, lá sả, lá lốt, lá xoan, trấu, gà Móng 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Trong thực tế chăn nuôi, nền chuồng là nơi 
thường xuyên ẩm ướt và chứa đựng nhiều 
mầm bệnh gây hại cho gà nói riêng và gia súc 
gia cầm nói chung. Việc thường xuyên dùng 
hóa chất để tiêu diệt mầm bệnh sẽ dẫn đến 
nguy cơ tồn dư ở động vật. Để đáp ứng được 
nhu cầu phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu 
ngày càng cao của người dân về các sản phẩm 
sạch, an toàn sinh học và thân thiện với môi 
trường. Trong quá trình tìm hiểu một số cây 
dược liệu như lá lốt thường được người dân 
dùng để phòng mạt gà; lá xoan có tác dụng 
phòng các bệnh do tiêu chảy, tẩy các loại giun 
chỉ, giun đũa và giun kim; lá sả có tác dụng 
chữa ăn chậm tiêu, đầy bụng, tiêu chảy, giải 
độc và đặc biệt là xua muỗi, ruồi (là vật mang 
ký sinh trùng đường máu và giun sán cho gà). 
Vì vậy, tìm ra những cây dược liệu để bổ 
sung vào đệm lót nhằm giảm thiểu mầm bệnh 
gây hại cho gà là hết sức cần thiết. Xuất phát 
từ tình hình thực tế trên, để nâng cao tỷ lệ 
nuôi sống và phòng một số bệnh cho gà, 
*
 Email: tutrungkien@tuaf.edu.vn 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu bổ sung một 
số loại cây dược liệu nói trên vào đệm lót cho 
chăn nuôi gà tại Thái Nguyên. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thí nghiệm được thực hiện trong năm 2017. 
Lá sả được tận thu sau khi đã lấy đi phần củ, lá 
lốt, lá xoan ta được tận thu từ trại quanh trường. 
Gà Móng nuôi thịt được nuôi thí nghiệm từ 1 – 
112 ngày tuổi tại trại gà khoa Chăn nuôi Thú y, 
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. 
Tổng số gà thí nghiệm là 180 con, được chia 
làm 2 lô: Lô đối chứng (ĐC), lô thí nghiệm, 
mỗi lô lại được chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm 
30 con; bảo đảm các yếu tố đồng đều giữa các 
lô theo quy định về thí nghiệm chăn nuôi. 
Thức ăn hỗn hợp cho gà thí nghiệm được sử 
dụng của công ty Japfa Comfeed Việt Nam. 
Lô thí nghiệm sử dụng bổ sung chất đệm lót 
từ cây dược liệu trộn vào trấu theo liều lượng 
như sau: 0,1 kg lá lốt tươi + 0,2 kg lá xoan 
tươi + 0,2 kg lá sả tươi + 9,5 kg trấu. Toàn bộ 
cây dược liệu được băm nhỏ bằng kích thước 
của trấu và trộn đều vào trong đệm lót. Ở 
những tuần tiếp theo, lượng chế phẩm là lá 
Từ Trung Kiên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 193 - 197 
194 
lốt, lá xoan, sả sẽ được bổ sung định kỳ 30 
ngày/lần trong suốt thời gian thí nghiệm với 
lượng 0,1 kg lá lốt tươi + 0,2 kg lá xoan tươi 
+ 0,2 kg lá sả tươi băm nhỏ và rắc đều trên 
diện tích 10 m2 đệm lót chuồng nuôi. 
Các chỉ tiêu theo dõi gồm có: Khối lượng 
(KL), tăng KL, tiêu thụ TA/1 gà, tiêu tốn và 
chi phí TA cho 1 kg tăng KL. 
Các chỉ tiêu được theo dõi theo các phương pháp 
thông dụng trong nghiên cứu về chăn nuôi. 
Số liệu được được xử lý theo phương pháp 
nghiên cứu trong chăn nuôi của Nguyễn Văn 
Thiện và cs (2002) [6], xử lý thống kê 
ANOVA – GLM bằng phần mềm Minitab 
phiên bản 14. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Tỷ lệ nuôi sống 
Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn đến 112 ngày của lô 
đối chứng là 95,00% và lô thí nghiệm là 
98,33%. Theo Đào Văn Khanh (2002) [3] thì 
tỷ lệ nuôi sống của gà thịt Lương Phượng từ 
93,33% đến 95,00%; còn theo Trần Thị Hoan 
(2012) [2] từ 93,33% đến 98,33%; từ 95,56% 
đến 97,78% (Hồ Thị Bích Ngọc, 2012 [5]) và 
từ 96,7 đến 97,8% (Từ Quang Hiển và cs, 
2015 [1]). Theo Từ Trung Kiên và cs (2016) 
[4] thì gà Đông Tảo có tỷ lệ nuôi sống từ 
94,44 đến 96,67%. Gà Móng của chúng tôi 
được nuôi bằng hai nền đệm lót khác nhau có 
tỷ lệ nuôi sống cao hơn hoặc tương đương với 
tỷ lệ nuôi sống trong các nghiên cứu khác 
nhau trên gà Lương Phượng đã được công bố. 
Điều đó chứng tỏ nền đệm lót khác nhau 
không ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ nuôi sống của 
gà và giữa chúng cũng không có ảnh hưởng 
khác nhau đến chỉ tiêu này. Đồng thời, ở lô 
thí nghiệm dùng hỗn hợp đệm lót có sử dụng 
lá sả, lá lốt, lá xoan đã giúp gà đề kháng tốt 
hơn nên tỷ lệ sống cao hơn. Trong quá trình 
chúng tôi nuôi cũng nhận thấy, sử dụng đệm 
lót có bổ sung lá sả, lá lốt, lá xoan thì gà 
thường có phân khô hơn, mức độ nhiễm cầu 
trùng nhẹ hơn. 
Khối lượng và tăng khối lượng 
Gà được cân từng con theo nhóm (3 nhóm) 
khi kết thúc mỗi tuần tuổi, sau đó tính trung 
bình của nhóm. Giá trị trung bình của lô được 
tính từ giá trị trung bình của 3 nhóm. Khối 
lượng trung bình của các lô lúc 1; 21; 42; 63; 
84 và 112 ngày tuổi được trình bày tại bảng 1. 
Khi bắt đầu một ngày tuổi, khối lượng gà thí 
nghiệm ở cả hai lô sử dụng đệm lót khác nhau 
đều tương đương nhau lần lượt ở lô đối chứng 
là 31,52 g/con và lô thí nghiệm là 31,98 
g/con. Tuy nhiên, ở 112 ngày tuổi, khối lượng 
trung bình của gà lô thí nghiệm là 1937,48 g, 
lớn hơn lô đối chứng là 44,11 g/con (tương 
đương 2,33%) và không có sự sai khác rõ rệt 
so với lô đối chứng (P > 0,05). So sánh với 
giống gà nội Đông Tảo ở 112 ngày tuổi có 
khối lượng là 1740 g ở con trống và 1626 g ở 
con mái (Từ Trung Kiên và cs, 2016 [4]) thì 
giống gà này có khối lượng là lớn hơn. 
Tăng khối lượng của gà (g/con/ngày) ở các 
giai đoạn tuổi đã được tính toán trên cơ sở 
khối lượng trung bình của gà ở các kỳ cân. 
Kết quả được trình bày ở bảng 2. 
Bảng 1. Khối lượng trung bình của gà ở một số giai đoạn tuổi (g/con) 
Ngày tuổi Thí nghiệm mxX Đối chứng mxX 
1 
21 
42 
63 
84 
31,98
a
±0,47 
 230,82
a
±4,49 
624,60
a
±9,49 
1041,41
a
±16,06 
1502,85
a
±21,90 
31,52
a
±0,42 
 234,96
a
±3,55 
579,00
a
±12,51 
994,37
a
±16,43 
1435,75
a
±20,79 
112 
So với ĐC, % 
 1937,48
a
±16,32 
102,33 
1893,37
a
±28,98 
100 
Theo hàng ngang, các số có chữ cái khác nhau thì sai khác nhau có ý nghĩa thống kê, P<0,05 
Từ Trung Kiên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 193 - 197 
195 
 Bảng 2. Tăng khối lượng tuyệt đối của gà ở các giai đoạn tuổi (g/con/ngày) 
Giai đoạn Thí nghiệm Đối chứng 
1 – 21 
22 – 42 
43 – 63 
64 - 84 
84-112 
9,47
a 
18,75
a 
19,85
a 
21,97
a 
15,52
a 
9,69
a
16,38
a 
19,78
a 
21,02
a 
16,34
a 
1 – 112 
So với ĐC, % 
17,01
a 
102,34 
16,62
a 
100 
Bảng 3. Tiêu thụ thức ăn trung bình của gà (g/con/ngày) 
Giai đoạn Thí nghiệm Đối chứng 
1 – 21 
22 – 42 
43 – 63 
64 - 84 
84-112 
14,73 
32,98 
52,88 
77,25 
97,94 
16,03 
34,12 
56,35 
80,85 
98,76 
1 – 112 
So với ĐC, % 
57,83 
96,68 
59,82 
100,00 
Bảng 4. Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng (kg/kg) 
Thời điểm Thí nghiệm Đối chứng 
7 
21 
42 
63 
84 
1,12 
1,56 
1,72 
2,11 
2,56 
1,02 
1,67 
1,95
2,37 
2,85
112 
So với ĐC, % 
3,46
b 
94,54 
3,66
a 
100,00 
Theo hàng ngang, các số có chữ cái khác nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê, P < 0,05 
Trong cùng một giai đoạn thì tăng khối lượng 
trung bình (g/con/ngày) của lô thí nghiệm đều 
lớn hơn đối chứng, trừ trong giai đoạn 1 - 21 
ngày và 84 đến 112 ngày. Tính chung từ 1 
đến 112 ngày, tăng khối lượng trung bình của 
lô thí nghiệm lớn hơn đối chứng là 0,39 
g/con/ngày (tương đương 2,34%). Tuy nhiên, 
gà của lô thí nghiệm tăng khối lượng lớn hơn 
lô đối chứng nhưng sự khác biệt giữa hai lô 
không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). 
Kết quả về khối lượng và tăng khối lượng của 
gà đã chứng minh rằng: Đệm lót sinh học sử 
dụng lá sả, lá lốt, lá xoan không ảnh hưởng 
xấu tới khả năng sinh trưởng của gà Móng 
nuôi thịt mà còn làm cho chúng sinh trưởng 
lớn hơn, nhưng không có sự sai khác có ý 
nghĩa thống kê. 
Tiêu thụ thức ăn của 1 gà và tiêu tốn thức 
ăn cho 1 kg tăng khối lượng 
Tiêu thụ thức ăn trung bình của 1 gà của lô 
được tính từ giá trị trung bình của các nhóm 
(n = 3). Kết quả được trình bày tại bảng 3. 
Trong tất cả các giai đoạn thì tiêu thụ thức ăn 
trung bình/1 gà của các lô thí nghiệm đều 
thấp hơn lô đối chứng. Tính chung từ 1 đến 
112 ngày tuổi, tiêu thụ thức ăn trung bình/1 
gà của lô thí nghiệm thấp hơn đối chứng là 1,99 
g/con/ngày (tương đương với 3,32%). Tiêu thụ 
thức ăn/1 gà/toàn kỳ của lô thí nghiệm thấp hơn 
lô đối chứng với sự sai khác giữa hai lô không 
có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). 
Tiêu tốn thức ăn trung bình cho 1 kg tăng 
khối lượng đã được tính toán trên cơ sở tiêu 
thụ thức ăn và tăng khối lượng của các giai 
đoạn và toàn kỳ. Kết quả được trình bày tại 
bảng 4. 
Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng của 
lô thí nghiệm đều ít hơn so với lô đối chứng 
trong tất cả các giai đoạn, trừ trong tuần tuổi 
đầu tiên. Tuy nhiên, tính chung toàn kỳ, tiêu 
tốn thức ăn của lô thí nghiệm thấp hơn lô đối 
chứng là 5,46% với sự sai khác nhau có ý 
nghĩa thống kê (P < 0,05). Điều này cho thấy, 
Từ Trung Kiên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 193 - 197 
196 
bổ sung lá sả, lá lốt và lá xoan vào đệm lót đã 
làm giảm các bệnh cho đàn gà nên nâng cao 
hiệu suất sử dụng thức ăn của gà. Theo chúng 
tôi thì bản năng tự nhiên của đàn gà khi có 
vấn đề về sức khỏe chúng sẽ tự thu nhận các 
loại lá được bổ sung vào đệm lót nên làm cho 
đàn gà khỏe mạnh, tiêu tốn ít thức ăn hơn. 
Hơn nữa, mỗi lần bổ sung lá tươi vào đàn gà 
cũng mổ ăn nên trong một số ngày đầu chúng 
sẽ ăn ít đi nên cũng là yếu tố làm cho tiêu thụ 
thức ăn ít đi nhưng đàn gà vẫn sinh trưởng 
bình thường. 
Hiệu quả kinh tế 
Hiệu quả kinh tế của việc bổ sung lá sả, lá lốt, 
lá xoan vào đệm lót của gà thịt dựa trên cơ sở 
so sánh chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối 
lượng của các lô thí nghiệm so với lô đối 
chứng. Kết quả được trình bày tại bảng 5. 
Số liệu bảng 5 cho thấy chi phí thức ăn cho 1 
gà của lô thí nghiệm đều thấp hơn so với đối 
chứng, vì gà của lô thí nghiệm có tỷ lệ nuôi 
sống cao hơn, thu nhận ít thức ăn hơn so với đối 
chứng, lý do đã nêu ra ở trên. Kết quả là chi phí 
thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng của lô thí 
nghiệm chỉ bằng 89,36% so với đối chứng. 
Bảng 5. Chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng 
Chỉ tiêu Thí nghiệm Đối chứng 
Chi phí thức ăn/1 gà, (đồng) 
Tăng khối lượng toàn kỳ, (kg) 
Chi phí /kg tăng khối lượng (đồng) 
So với đối chứng, (%) 
62617 
1,905 
49.978 
89,36 
64742 
1,862 
55.930 
100,0 
KẾT LUẬN 
Bước đầu bổ sung lá sả, lá lốt, lá xoan vào đệm lót để nuôi gà thịt cho thấy, hỗn hợp đệm lót này 
có ảnh hưởng tốt đến sinh trưởng, tiêu thụ thức ăn, tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng khối 
lượng của gà Móng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Từ Quang Hiển, Trần Thị Hoan, Từ Quang Trung, Đỗ Thị Hương (2015), “Cách thức phối hợp bột lá 
sắn vào khẩu phần của gà thịt giống Lương Phượng”, Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, 1, tr. 
141-145. 
2. Trần Thị Hoan (2012), Nghiên cứu trồng sắn thu lá và sử dụng bột lá sắn trong chăn nuôi gà thịt và gà 
đẻ bố mẹ Lương Phượng, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên. 
3. Đào Văn Khanh (2002), Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt gà của 3 giống 
gà lông màu Kabir, Lương Phượng, Tam Hoàng nuôi bán chăn thả ở 4 mùa vụ khác nhau tại Thái Nguyên , 
Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên. 
4. Từ Trung Kiên, Trần Thị Hoan, Phạm Văn Hiểu, Nguyễn Thị Mai Hoa (2016), “Đặc điểm ngoại hình và 
khả năng sản xuất của gà Đông Tảo lai tại Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái 
Nguyên, 149(04), tr. 125-129. 
5. Hồ Thị Bích Ngọc (2012), Nghiên cứu trồng, chế biến, bảo quản và sử dụng cỏ Stylosanthes guianensis 
CIAT 184 cho gà thịt và gà đẻ bố mẹ Lương Phượng, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên. 
6. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002), Giáo trình Phương pháp nghiên 
cứu trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 
Từ Trung Kiên và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 180(04): 193 - 197 
197 
ABSTRACT 
EFFECTS OF DIFFERENT CUSHIONS ON THE PRODUCTIVITY 
OF MONG BROILER CHICKENS IN THAINGUYEN 
Tu Trung Kien
*
, Tran Thị Hoan, Cu Thị Thuy Nga, 
Tran Van Thang, Nguyen Gia Huan, Hoang Anh Thang
TNU – University of Agriculture and Forestry 
This study to compare the effects of different paving material on the adaptability and productivity 
of Mong broiler chickens in Thainguyen. The experiment was conducted in Thainguyen University 
of Agriculture and Forestry in 2017 with total of 180 chickens (1 to 112 days old), divided into 
two groups, each group was divided into 3 sub-groups, 30 chickens/sub-group. The control group 
using rice husk was treated by chemical. The experiment group have 9.5 kg of rice husk + 0.1 kg 
of fresh piper lolot + 0.2 kg of fresh M. azedarach leaves + 0.2 kg of fresh lemongrass, all mixed 
thoroughly and used as paving material for chickens from the beginning, 30 days later, the leaves 
of them were cut and sprinkled all over the area of 10 m
2
 of bedding cages. These diets of 
chickens were used as feed of Japfa Comfeed Vietnam. The results showed that the experiment 
group using leaf in the rice husk had a good effect on weight gain, feed intake, feed conversion 
ratio and feed cost per one kg body weight gain. The experiment group have weight and body 
weight gain higher than control group with no significant difference (P> 0.05), but FCR was lower 
than control group with significant difference (P < 0.05). 
Key words: Paving material, lemongrass, piper lolot, M. azedarach leaves, rice husk, Mong chicken. 
Ngày nhận bài: 30/3/2018; Ngày phản biện: 12/4/2018; Ngày duyệt đăng: 27/4/2018 
*
 Email: tutrungkien@tuaf.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_nghien_cuu_anh_huong_cua_nen_dem_lot_khac_nhau_toi.pdf