Bước đầu khảo sát vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán xâm lấn mạch máu ngoài thành của ung thư biểu mô trực tràng

Mục tiêu: Đánh giá vai trò của cộng hưởng từ (MRI) trong chẩn đoán xâm lấn mạch máu ngoài thành

(EMVI) của ung thư biểu mô trực tràng đối chiếu với giải phẫu bệnh (GPB).

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 138 bệnh nhân ung thư biểu mô

trực tràng có chụp MRI trực tràng trước khi phẫu thuật triệt căn. Đọc mù kết quả EMVI trên MRI theo thang

điểm EMVI cải biên của Jhaveri, đối chiếu với kết quả trên GPB. Phân tích mối liên quan của EMVI trên MRI

(mEMVI) với một số đặc điểm MRI và GPB khác của ung thư biểu mô trực tràng.

Kết quả: Nghiên cứu thu được 33 trường hợp EMVI (+) trên GPB. Tại điểm cắt 3 trong thang điểm EMVI

cải biên của Jhaveri, MRI có độ nhạy và độ đặc hiệu tốt nhất để chẩn đoán EMVI (+) của ung thư biểu mô trực

tràng. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm, độ chính xác của MRI trong chẩn đoán

EMVI lần lượt là 60,6%, 85,7%, 57,1%, 87,4%, 80%. Độ biệt hóa mô học, tình trạng di căn hạch vùng trên GPB

và độ xa xâm lấn khỏi thành trực tràng trên MRI có liên quan ý nghĩa về mặt thống kê với mEMVI.

Kết luận: MRI là phương tiện tốt để chẩn đoán EMVI của ung thư biểu mô trực tràng với độ nhạy trung

bình, độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán âm cao.

pdf 8 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu khảo sát vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán xâm lấn mạch máu ngoài thành của ung thư biểu mô trực tràng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu khảo sát vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán xâm lấn mạch máu ngoài thành của ung thư biểu mô trực tràng

Bước đầu khảo sát vai trò của cộng hưởng từ trong chẩn đoán xâm lấn mạch máu ngoài thành của ung thư biểu mô trực tràng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 14
BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA CỘNG HƯỞNG TỪ 
TRONG CHẨN ĐOÁN XÂM LẤN MẠCH MÁU NGOÀI THÀNH 
CỦA UNG THƯ BIỂU MÔ TRỰC TRÀNG 
Lâm Thanh Ngọc1, Võ Tấn Đức1, Đỗ Hải Thanh Anh1, Nguyễn Thị Thùy Linh1, Nguyễn Thị Tố Quyên1, 
Hồ Quốc Cường1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá vai trò của cộng hưởng từ (MRI) trong chẩn đoán xâm lấn mạch máu ngoài thành 
(EMVI) của ung thư biểu mô trực tràng đối chiếu với giải phẫu bệnh (GPB). 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 138 bệnh nhân ung thư biểu mô 
trực tràng có chụp MRI trực tràng trước khi phẫu thuật triệt căn. Đọc mù kết quả EMVI trên MRI theo thang 
điểm EMVI cải biên của Jhaveri, đối chiếu với kết quả trên GPB. Phân tích mối liên quan của EMVI trên MRI 
(mEMVI) với một số đặc điểm MRI và GPB khác của ung thư biểu mô trực tràng. 
Kết quả: Nghiên cứu thu được 33 trường hợp EMVI (+) trên GPB. Tại điểm cắt 3 trong thang điểm EMVI 
cải biên của Jhaveri, MRI có độ nhạy và độ đặc hiệu tốt nhất để chẩn đoán EMVI (+) của ung thư biểu mô trực 
tràng. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm, độ chính xác của MRI trong chẩn đoán 
EMVI lần lượt là 60,6%, 85,7%, 57,1%, 87,4%, 80%. Độ biệt hóa mô học, tình trạng di căn hạch vùng trên GPB 
và độ xa xâm lấn khỏi thành trực tràng trên MRI có liên quan ý nghĩa về mặt thống kê với mEMVI. 
Kết luận: MRI là phương tiện tốt để chẩn đoán EMVI của ung thư biểu mô trực tràng với độ nhạy trung 
bình, độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán âm cao. 
Từ khóa: ung thư trực tràng, ung thư biểu mô trực tràng, xâm lấn mạch máu ngoài thành, cộng hưởng từ 
ABSTRACT 
FIRST STEP OF EVALUATING THE ROLE OF MRI 
IN DIAGNOSING EXTRAMURAL VASCULAR INVASION OF RECTUM CARCINOMA 
Lam Thanh Ngoc, Vo Tan Duc, Do Hai Thanh Anh, Nguyen Thi Thuy Linh, Nguyen Thi To Quyen, 
Ho Quoc Cuong 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 14-21 
Objective: To evaluate the role of MRI in diagnosing extramural vascular invasion (EMVI) of rectum 
carcinoma, compared with histopathology. 
Methods: Cross-sectional study of 138 rectum carcinoma patients who were taken rectal MRI before total 
mesorectal excision. Blinded reading of MRI-detected EMVI based on a modified EMVI scoring system of Jhaveri, 
compared with pathologic EMVI. Analyzing associations between EMVI on MRI (mEMVI) and other features of 
MRI and pathology of rectum carcinoma. 
Results: Study obtained 33 EMVI (+) cases on pathology. According the modified EMVI scoring system of 
Jhaveri, the cut off value score 3 on MRI was the most reasonable sensitivity and specificity to diagnose EMVI (+) 
of rectum carcinoma. Sensitivity, specificity, positive predictive value, negative predictive value and accuracy of 
MRI in diagnosis of external vascular invasion were 60.6%, 85.7%, 57.1%, 87.4%, 80%, respectively. The 
statistically significant associations were found between histological grade, pathologic nodal metastasis, MRI-
1Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BSCKI. Lâm Thanh Ngọc ĐT: 0937841031 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 15
defined extramural depth of tumor invasion with mEMVI. 
Conclusions: MRI was a good tool for diagnosing EMVI of rectum carcinoma with moderate sensitivity, 
high specificity and negative predictive value. 
Keywords: rectal cancer, rectum carcinoma, extramural vascular invasion, magnetic resonance imaging 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư đại trực tràng là ung thư phổ biến, 
đứng thứ 2 ở nữ và thứ 4 ở nam tại Việt Nam, 
trong đó ung thư trực tràng chiếm khoảng 1/3(1). 
Số ca mắc mới tăng qua từng năm và ngày càng 
trẻ hóa. Do đó, cần thiết lựa chọn phác đồ điều 
trị phù hợp để giảm tỉ lệ tái phát, di căn xa, giảm 
độc tính của hóa xạ trị hỗ trợ và tỉ lệ tử vong. Để 
có chiến lược điều trị và theo dõi hợp lý, đòi hỏi 
phải chẩn đoán đúng giai đoạn và các yếu tố tiên 
lượng độc lập trước khi điều trị. Một số yếu tố 
tiên lượng độc lập thường được chú ý trong 
chẩn đoán bao gồm tình trạng xâm lấn mạch 
máu(2,3,4), xâm lấn bạch mạch, thần kinh, sự hiện 
diện tế bào u ở cân mạc treo trực tràng (MRF), 
nồng độ CEA trong máu, độ biệt hóa mô học. 
Cộng hưởng từ (MRI) là phương tiện chính để 
chẩn đoán giai đoạn T, N và một số yếu tố tiên 
lượng độc lập khác, trong đó có đặc điểm xâm 
lấn mạch máu ngoài thành (EMVI) của u. 
EMVI là yếu tố nguy cơ cao được hướng dẫn 
điều trị tân hỗ trợ theo ESMO và NCCN, nhưng 
giá trị chẩn đoán yếu tố này của MRI như thế 
nào chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu này để đánh giá giá trị 
của MRI trong chẩn đoán EMVI của ung thư 
biểu mô tuyến trực tràng, đồng thời khảo sát sự 
liên quan giữa đặc điểm mEMVI với một số đặc 
điểm MRI và GP khác của bệnh, đối chiếu với 
kết quả pEMVI. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân ung thư biểu mô trực 
tràng, được phẫu thuật triệt căn và có chụp cộng 
hưởng trực tràng trước khi phẫu thuật từ tháng 
01/2017 đến hết tháng 12/2019 tại bệnh viện Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, kết quả giải phẫu 
bệnh (GPB) là ung thư biểu mô tuyến, xếp giai 
đoạn T3 hoặc T4a, có kết luận đặc điểm EMVI. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Ung thư trực tràng tái phát hoặc ung thư 
khác vùng chậu đã điều trị, ung thư trực tràng 
đã điều trị tân hỗ trợ, có từ 2 u trở lên trên đoạn 
trực tràng, bệnh nhân nữ có lạc nội mạc sâu dính 
u trực tràng và GPB là ung thư biểu mô tuyến 
dạng nhầy. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành theo thiết kế mô 
tả cắt ngang. 
Phương pháp thực hiện 
Bệnh nhân được khảo sát vùng chậu bằng 
máy MRI Siemens 1.5T hoặc 3T trước phẫu thuật 
cắt u với protocol dựa vào hình T2W (Bảng 1). 
Kết quả MRI được đọc phân giai đoạn T và 
các yếu tố liên quan theo AJJC 8th, EMVI được 
đánh giá theo thang điểm EMVI cải biên của 
Jhaveri KS(5) (Bảng 2). 
Bảng 1: Protocol MRI trực tràng trong nghiên cứu 
T2TSE Mặt phẳng đứng dọc 
Mặt phẳng đứng ngang xóa mỡ hoặc 
mặt phẳng đứng ngang độ phân giải cao 
Mặt phẳng ngang hoặc mặt phẳng 
ngang độ phân giải cao 
Trục Trục cơ thể Song song trục u Vuông góc trục u 
TR 3200 3800/3400 3300/3400 
TE 100 100/100 100/100 
FOV 24 24/24 24/24 
Ma trận 320 x 224 320 x 224/384 x 224 320 x 224/382/224 
NSA 1 1/2 2/4 
Độ dày lát cắt 4mm 4mm/3mm 4mm/3mm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 16
Bảng 2: Thang điểm EMVI cải biên trên MRI của Jhaveri KS 
Điểm Đặc điểm trên cộng hưởng từ 
0 Không thấy mạch máu tiếp xúc với u 
1 Mạch máu tiếp xúc hay nằm cạnh u nhưng không dãn, lòng không có tín hiệu giống tín hiệu u 
2 Mạch máu tiếp xúc hay nằm cạnh u dãn nhẹ, lòng không có tín hiệu giống tín hiệu u 
3 Mạch máu tiếp xúc hay nằm cạnh u dãn, lòng có tín hiệu giống tín hiệu u (Hình 1) 
4 Mạch máu tiếp xúc hay nằm cạnh u dãn rõ, ngoằn ngoèo, thành không đều, lòng có tín hiệu giống tín hiệu u (Hình 2) 
Hình 1: Xâm lấn mạch máu ngoài thành điểm 3 
Hình 2: Xâm lấn mạch máu ngoài thành điểm 4 
Đối với GPB, sẽ ghi nhận độ biệt hóa mô học, 
sự hiện diện của EMVI và di căn hạch vùng theo 
kết quả có sẵn. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên 
đoán dương, giá trị tiên đoán âm, độ chính xác 
của MRI trong chẩn đoán EMVI được tính dựa 
trên tiêu chuẩn là kết quả EMVI trên GPB. 
Thấy mạch máu tiếp xúc với u dãn, lòng có 
tín hiệu giống tín hiệu u (mũi tên) trên hình 
trọng T2 mặt phẳng đứng dọc (bên trái) và mặt 
phẳng trục (bên phải). 
Thấy mạch máu tiếp xúc với u dãn rõ, thành 
không đều, lòng có tín hiệu giống tín hiệu u 
(mũi tên) trên hình trọng T2 mặt phẳng đứng 
ngang (bên trái) và mặt phẳng ngang (bên phải). 
Liên quan giữa EMVI trên MRI với một số 
đặc điểm MRI và GPB khác của ung thư trực 
tràng được kiểm định bằng các phép kiểm Chi 
bình phương hoặc Fisher và đối chiếu với EMVI 
trên GPB. 
Kiểm định có ý nghĩa thống kê khi p <0,05. 
Nếu kiểm định có khác biệt ý nghĩa về mặt 
thống kê, hệ số Cramer’s V được sử dụng để 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 17
diễn giải độ mạnh mối liên quan giữa các biến. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 682/HĐĐĐ-ĐHYD, 
ngày 21/11/2019. 
KẾT QUẢ 
Nghiên cứu thu được 138 trường hợp thỏa 
tiêu chuẩn chọn mẫu, gồm 33 trường hợp có 
EMVI trên GPB (pEMVI(+)), chiếm tỉ lệ 23,9%. 
Mẫu nghiên cứu có 62 nữ và 76 nam, tỉ lệ 
nam:nữ là 1,2:1. Tuổi trung bình mắc bệnh là 
61,4 ± 11,7 tuổi. 
Bảng 3: Phân bố các nhóm điểm xâm lấn mạch máu 
ngoài thành trên cộng hưởng từ theo các nhóm xâm 
lấn mạch máu ngoài thành trên giải phẫu bệnh 
Điểm mEMVI pEMVI (+) pEMVI (-) p 
0 
1 
2 
3 
4 
0 (0%) 
1 (3%) 
12 (36,4%) 
13 (39,4%) 
7 (21,2%) 
8 (7,6%) 
46 (43,8%) 
36 (34,3%) 
10 (9,5%) 
5 (4,8%) 
<0,001* 
(*): phép kiểm Fisher 
0
.0
0
0
.2
5
0
.5
0
0
.7
5
1
.0
0
S
e
n
s
it
iv
it
y
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
1 - Specificity
Area under ROC curve = 0.8218
Hình 3: Đường cong ROC của thang điểm chẩn đoán 
xâm lấn mạch máu ngoài thành trên cộng hưởng từ 
Bảng 4: Độ dày và độ đặc hiệu ở các điểm cắt khác 
nhau của thang điểm EMVI 
Điểm cắt Độ nhạy Độ đặc hiệu 
(≥ 0) 
(≥ 1) 
(≥ 2) 
(≥ 3) 
(≥ 4) 
(>4) 
100% 
100% 
97% 
60,6% 
21,2% 
0% 
0% 
7,6% 
51,4% 
85,7% 
95,2% 
100% 
Tại điểm cắt điểm 3 trở lên, MRI có độ 
nhạy và độ đặc hiệu tốt nhất để chẩn đoán 
EMVI(+) của ung thư biểu mô trực tràng. Diện 
tích dưới đường cong ROC là 0,82 cho thấy 
cộng hưởng từ là phương tiện tốt để chẩn 
đoán đặc điểm này. Từ phân tích đường cong 
ROC, chúng tôi lựa chọn điểm 3 và 4 của thang 
điểm EMVI cải biên của Jhaveri KS để chẩn 
đoán có EMVI trên MRI (mEMVI(+)), còn điểm 
0, 1, 2 là không có EMVI trên MRI (mEMVI(-)). 
Như vậy, số trường hợp mEMVI(+) là 35, 
mEMVI(-) là 103 (Bảng 3, 4 và Hình 3). 
Bảng 5: Tần số chẩn đoán EMVI trên MRI và GPB 
 pEMVI (+) pEMVI (-) Tổng 
mEMVI (+) 
mEMVI (-) 
20 
13 
15 
90 
35 
103 
Tổng 33 105 138 
Chúng tôi tính được độ nhạy, độ đặc hiệu, 
giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm, độ 
chính xác của MRI trong chẩn đoán xâm lấn 
mạch máu ngoài thành lần lượt là 60,6%, 85,7%, 
57,1%, 87,4%, 80% (Bảng 5). 
Tỉ lệ trường hợp có nồng độ CEA máu bất 
thường của nhóm mEMVI(+) cao hơn nhóm 
mEMVI(-), nhưng không có khác biệt ý nghĩa về 
mặt thống kê, điều này cũng sự tương đồng với 
các nhóm pEMVI. Đặc điểm mEMVI tương 
đồng với đặc điểm pEMVI trong mối liên quan 
với độ biệt hóa mô học, cả 2 có mối liên quan 
yếu với độ biệt hóa mô học, trong đó tỉ lệ 
EMVI(+) của nhóm biệt hóa kém cao hơn có ý 
nghĩa thống kê so với nhóm biệt hóa vừa. Trong 
mối liên quan giữa EMVI với giai đoạn T, không 
có sự tương đồng giữa MRI và GPB, mặc dù tỉ lệ 
giai đoạn T4 ở nhóm mEMVI(+) cao hơn nhóm 
mEMVI(-), nhưng không có sự khác biệt ý nghĩa 
giữa các nhóm mEMVI. Đối với EMVI trên MRI 
lẫn GPB, tỉ lệ có di căn hạch vùng ở nhóm 
EMVI(+) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 
nhóm EMVI(-). Tình trạng di căn hạch vùng liên 
quan với EMVI ở mức độ yếu. Tỉ lệ có xâm lấn 
MRF giữa nhóm mEMVI(+) và mEMVI(-) có 
khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê, độ mạnh liên 
quan giữa xâm lấn MRF và mEMVI là trung 
bình, đặc điểm này không tương đồng với mối 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 18
liên quan giữa pEMVI và xâm lấn MRF. mEMVI 
có mối liên quan trung bình với 2 nhóm chiều 
dài u, nhưng kết quả cho thấy không có sự liên 
quan giữa pEMVI với 2 nhóm chiều dài u. Độ xa 
xấm lấn khỏi thành trực tràng của u có liên quan 
ý nghĩa về mặt thống kê với EMVI trên MRI lẫn 
GPB, trong đó liên quan mạnh với mEMVI và 
liên quan yếu hơn với pEMVI. 
Bảng 6: Sự liên quan của mEMVI với một số đặc điểm MRI và GPB khác của ung thư biểu mô trực tràng, đối 
chiếu với pEMVI 
 mEMVI (+) mEMVI (-) p (V) pEMVI (+) pEMVI (-) p (V) 
CEA (n = 124) 
≤ 5ng/ml 
> 5ng/ml 
16 (53,3%) 
14 (46,7%) 
60 (63,8%) 
34 (36,2%) 
0,3* 
16 (51,6%) 
15 (48,4%) 
60 (64,5%) 
33 (35,5%) 
0,2* 
Độ biệt hóa mô học 
Vừa 
Kém 
32 (23,9%) 
3 (75%) 
102 (76,1%) 
1 (25%) 
0,021ǂ 
(0,2) 
30 (22,4%) 
3 (75%) 
104 (77,6%) 
1 (25%) 
0,04
≠
(0,2) 
Giai đoạn T 
T3 
T4 
17 (48,6%) 
18 (51,4%) 
68 (66%) 
35 (34%) 
0,067* 
12 (36,4%) 
21 (63,6%) 
73 (69,5%) 
32 (30,5%) 
0,001* 
(0,29) 
Di căn hạch vùng trên GPB 
Có 
Không 
21 (60%) 
14 (40%) 
41 (39,8%) 
62 (60,1%) 
0,038* 
(0,18) 
20 (60,6%) 
13 (39,4%) 
42 (40%) 
63 (60%) 
0,038* 
(0,18) 
Xâm lấn MRF trên GPB (n = 81) 
Có 
Không 
13 (59,1%) 
9 (40,9%) 
13 (22%) 
46 (78%) 
0,001* 
(0,35) 
7 (36,8%) 
12 (63,2%) 
19 (30,7%) 
43 (69,3%) 
0,061* 
Chiều dài u 
≤5mm 
>5mm 
14 (40%) 
21 (60%) 
86 (83,5%) 
17 (16,5%) 
<0,001* 
(0,42) 
21 (63,6%) 
12 (36,4%) 
79 (75,2%) 
26 (24,8%) 
0,193* 
Độ xa u xâm lấn khỏi thành trực tràng 
≤ 5mm (a+b) 
> 5mm (c+d) 
8 (22,9%) 
27 (77,1%) 
83 (80,6%) 
20 (19,4%) 
<0,001ǂ 
(0,53) 
14 (42,4%) 
19 (57,6%) 
77 (73,3%) 
28 (26,7%) 
0,002
≠
(0,28) 
(*): phép kiểm χ2 (≠): phép kiểm Fisher (V): hệ số Cramer’s V 
BÀN LUẬN 
Mẫu nghiên cứu thu được 138 trường hợp, tỉ 
lệ nam gấp 1,2 lần nữ, tương đồng với tỉ lệ nam 
nữ trong nghiên cứu của một số tác giả như Ahn 
JH(6), Liu L(7), Sohn B(8). Tuổi trung bình mắc ung 
thư trực tràng là 61,4 tuổi, tương đồng với 
nghiên cứu của Liu (tuổi trung bình là 57), Bae 
JS(9) (tuổi trung bình là 61), Sohn B (tuổi trung 
bình là 62). 
Chúng tôi tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa tỉ lệ pEMVI(+) ở các điểm khác 
nhau của thang điểm Jhaveri, từ điểm 0 đến 4 tỉ 
lệ pEMVI(+) tăng dần, cụ thể ở nhóm điểm 3 và 
4 tỉ lệ pEMVI(+) cao hơn tỉ lệ pEMVI(-), không 
thấy trường hợp nào pEMVI(+) ở nhóm điểm 0. 
Khi phân tích đường cong ROC thang điểm của 
Jhaveri trong chẩn đoán EMVI, chúng tôi tính 
được diện tích dưới đường cong ROC là 0,82. 
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của các 
tác giả Yu J(10) (AUC=0,818) và tác giả Ahn 
(AUC=0,828 của người đọc 1) trên các bệnh nhân 
không có điều trị tân hỗ trợ, do đó MRI là một 
phương tiện tốt để chẩn đoán EMVI. Tại điểm 
cắt điểm 2, chúng tôi tính được độ nhạy và độ 
đặc hiệu của MRI lần lượt là 97% và 51,4%, giá 
trị tiên đoán âm chỉ khoảng 35%. Nghiên cứu 
của Jhaveri KS khảo sát trên 39 trường hợp, độ 
nhạy và độ đặc hiệu ở điểm cắt 2 trong nghiên 
cứu này lần lượt là 79% và 74%. Độ nhạy của 
chúng tôi (97%) cao hơn nhưng độ đặc hiệu 
(51,4%) thấp hơn của tác giả Jhaveri KS, sự khác 
biệt này có thể do khác nhau về cỡ mẫu, tỉ lệ 
pEMVI(+) của chúng tôi thấp hơn của Jhaveri 
KS. Tại điểm cắt điểm 3, nghiên cứu của chúng 
tôi có độ đặc hiệu tăng, độ nhạy giảm nhưng vẫn 
đạt trên 50%, cũng có nghĩa là dấu hiệu lòng 
mạch có tín hiệu giống tín hiệu u có độ tin cậy 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 19
cao để chẩn đoán EMVI(+). Đây cũng là điểm cắt 
được nhiều nghiên cứu khác sử dụng để chẩn 
đoán EMVI(+). Ở điểm cắt điểm 4, độ nhạy, độ 
đặc hiệu của nghiên cứu Jhaveri lần lượt là 33%, 
100%, của nghiên cứu chúng tôi là 21,2% và 
95,2%. Ở điểm cắt này kết quả của chúng tôi khá 
tương đồng với kết quả của Jhaveri KS, có thể do 
điểm 4 hình ảnh đã rõ ràng có xâm lấn mạch 
máu với sự hiện diện tín hiệu giống tín hiệu u 
trong lòng mạch làm mạch máu dãn, thành 
mạch không đều. Điểm cắt điểm 2 theo thang 
điểm cải biên của Jhaveri KS cho thấy giá trị 
không cao khi chẩn đoán EMVI, nên chúng tôi 
vẫn sử dụng điểm 3 và 4 như các nghiên cứu 
khác trên thế giới để chẩn đoán có đặc điểm này. 
Dựa trên bảng 2 x 2, chúng tôi tính được giá trị 
của MRI trong chẩn đoán EMVI của ung thư 
biểu mô trực tràng có độ nhạy 60,6%, độ đặc 
hiệu 85,7%, giá trị tiên đoán dương 57,1%, giá trị 
tiên đoán âm 87,4%, độ chính xác 80%. Kết quả 
này tương đồng với nghiên cứu của Smith NJ(11) 
và Liu, nhưng khác với của tác giả Sohn B, Yu J. 
Những khác biệt giữa kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi với các nghiên cứu khác có thể do độ 
mạnh từ trường máy MRI và quy trình kỹ thuật 
chụp MRI trực tràng được sử dụng khác nhau, 
hầu hết các tác giả sử dụng máy MRI 3T và hình 
T2W độ phân giải cao và có sự thống nhất kỹ 
thuật giữa các ca nghiên cứu. Trong khi đó, kỹ 
thuật hình ảnh trong nghiên cứu của chúng tôi 
không đồng nhất, có trường hợp dùng hình 
T2W độ phân giải xen lẫn các trường hợp dùng 
hình T2W thường. Bên cạnh đó, một số nghiên 
cứu sử dụng cả hình T1W sau tiêm thuốc tương 
phản để hỗ trợ chẩn đoán EMVI. Ngoài ra, có tác 
giả chẩn đoán EMVI trên GPB gom xâm lấn 
mạch máu và xâm lấn bạch mạch với nhau do 
kết quả đọc GPB sẵn có ở cơ sở nghiên cứu của 
họ không tách rời hai loại này, như nghiên cứu 
của Sohn B. 
Nồng độ CEA máu không có mối liên quan 
với EMVI trên MRI lẫn GPB, tương đồng với kết 
quả của Yu J, do đó, không thể dựa vào nồng độ 
CEA máu để tiên đoán tình trạng EMVI. Chúng 
tôi tìm thấy nhóm ung thư có độ biệt hóa mô học 
kém có xu hướng hiện diện EMVI trên MRI lẫn 
GPB nhiều hơn 2 lần so với nhóm ung thư có độ 
biệt hóa vừa, sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê. Tuy nhiên kết quả này khac với tác giả Yu J. 
Sự khác nhau này có thể do mẫu chúng tôi thiếu 
nhóm biệt hóa rõ và hầu hết là biệt hóa vừa, sự 
chênh lệch như vậy có thể làm kết quả phản ánh 
chưa đúng về mối liên quan này. Khi đánh giá 
mEMVI, chúng tôi thấy rằng không có khác biệt 
ý nghĩa về tỉ lệ các giai đoạn T giữa nhóm 
mEMVI(+) và mEMVI(-), tương đồng với nghiên 
cứu của Zhang XY(12) nhưng khác với nghiên cứu 
của Smith NJ, có thể do tác giả này phân tích 
trên tất cả giai đoạn T của ung thư trực tràng, 
còn chúng tôi chỉ phân tích trên giai đoạn T3 và 
T4. Không có sự tương đồng giữa MRI và GPB 
trong mối liên quan với giai đoạn T trong nghiên 
cứu của chúng tôi, sự khác biệt này có thể là 
ngẫu nhiên và cần cỡ mẫu lớn hơn để có cái nhìn 
chính xác hơn về mối liên quan này. 
Chúng tôi phân tích sự liên quan giữa di căn 
hạch vùng trên GPB với đặc điểm EMVI trên 
MRI và GPB. Kết quả có sự khác biệt về tình 
trạng di căn hạch vùng giữa nhóm EMVI(+) và 
EMVI(-) trên MRI và GPB, khi EMVI(+) thì tỉ lệ 
di căn hạch vùng cũng tăng theo, dù mức độ liên 
quan trong kết quả là yếu. Kết quả của chúng tôi 
tương đồng với kết quả của Zhang XY, Yu J. 
Theo thống kê của chúng tôi, có sự khác biệt ý 
nghĩa về tỉ lệ xâm lấn MRF trên GPB giữa nhóm 
mEMVI(+) và nhóm mEMVI(-), mức độ liên 
quan trung bình, nhưng không có khác biệt ý 
nghĩa giữa nhóm pEMVI(+) và nhóm pEMVI(-). 
Các nghiên cứu mà chúng tôi tham khảo được, 
không có nghiên cứu nào đánh giá liên quan 
giữa xâm lấn MRF trên GPB với EMVI trước 
điều trị tân hỗ trợ. Chúng tôi nhận định u xâm 
lấn khỏi thành trực tràng càng xa thì xác suất có 
EMVI và xâm lấn MRF càng tăng, do đó có thể lý 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 20
giải được tỉ lệ xâm lấn MRF của nhóm 
mEMVI(+) nhiều hơn nhóm không mEMVI(-). 
Khi u càng dài thì xác suất EMVI(+) càng cao, 
do đó chúng tôi có xu hướng ghi nhận EMVI(+) 
nhiều hơn ở nhóm u có chiều dài ≥5 cm, tỉ lệ 
mEMVI(+) cao hơn so với pEMVI(+) ở nhóm u 
dài ≥5 cm. Nghiên cứu của Sun Y(13) có kết quả là 
không có khác biệt ý nghĩa về tỉ lệ mEMVI(+) 
giữa hai nhóm chiều dài. Sự khác biệt giữa kết 
quả của chúng tôi và tác giả Sun có thể do tác giả 
sử dụng hình ảnh MRI độ phân giải cao, tỉ lệ 
phát hiện mEMVI(+) cao hơn chúng tôi (44% so 
với 25,4%) và tác giả chỉ khảo sát giai đoạn T3. 
Đối với độ xa xâm lấn khỏi thành trực tràng của 
u, chúng tôi thấy có sự liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa độ xa xâm lấn khỏi thành trực 
tràng với mEMVI lẫn pEMVI. Kết quả này tương 
đồng với người đọc 1 trong nghiên cứu của 
Jhaveri và Sun đối với mEMVI. Chúng tôi không 
tìm thấy nghiên cứu có phân tích tương tự trên 
pEMVI. Độ mạnh liên quan giữa độ xa xâm lấn 
khỏi thành trực tràng và EMVI dao động từ yếu 
đến mạnh (V=0,29 - 0,58), trong đó, mối liên 
quan với mEMVI khá chặt chẽ và mạnh hơn mối 
liên quan với pEMVI. Chúng tôi nhận định u 
xâm lấn càng xa khỏi thành trực tràng thì tỉ lệ 
xuất hiện EMVI càng cao, điều này có sự tương 
đồng giữa MRI và GPB. 
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi vẫn còn 
những hạn chế với thiết kế mô tả cắt ngang. Thứ 
nhất, hiện tại EMVI chưa được đánh giá thường 
quy trên GPB, nghiên cứu sử dụng các kết quả 
sẵn có, nên số ca pEMVI(+) ít. Thứ hai là không 
có đánh dấu trên bệnh phẩm vị trí nghi ngờ thấy 
được mEMVI(+) để kiểm tra tương ứng trên 
GPB. Thứ ba là hình T2W sử dụng giữa các ca 
nghiên cứu chưa đồng bộ, đa số không có hình 
T2W độ phân giải cao, vì vậy, các tổn thương 
xâm lấn nhỏ có thể bị bỏ sót. Thứ tư là nghiên 
cứu không đánh giá trên hình T1W xóa mỡ sau 
tiêm thuốc tương phản và hình trọng khuếch tán 
nên chưa thể có cái nhìn toàn diện hơn về giá trị 
của MRI trong chẩn đoán EMVI. Thứ năm là 
nghiên cứu của chúng tôi dựa vào kết quả định 
tính, chưa có yếu tố định lượng như đường kính 
mạch máu để đánh giá khách quan hơn giá trị 
của MRI. Nhưng nhìn chung, cũng như các 
nghiên cứu khác trên thế giới, nghiên cứu của 
chúng tôi vẫn cho thấy MRI là một phương tiện 
tốt để chẩn đoán EMVI của ung thư biểu mô 
trực tràng. 
KẾT LUẬN 
Cộng hưởng từ là một phương tiện hình ảnh 
tốt trong chẩn đoán EMVI của ung thư biểu mô 
trực tràng với độ nhạy trung bình, độ đặc hiệu 
và giá trị tiên đoán âm cao. Độ biệt hóa mô học, 
di căn hạch vùng trên GPB, độ xa xâm lấn khỏi 
thành trực tràng của u có liên quan ý nghĩa về 
mặt thống kê với EMVI trên MRI. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bray F, Ferlay J, Soerjomataram I, Siegel RL, et al (2018). Global 
cancer statistics 2018: GLOBOCAN estimates of incidence and 
mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. Cancer J 
Clin, 68(6):394-424. 
2. Bugg WG, Andreou AK, Biswas D, Toms AP, et al (2014). The 
prognostic significance of MRI-detected extramural venous 
invasion in rectal carcinoma. Clin Radiol, 69(6):619-23. 
3. Chand M, Evans J, Swift RI, Tekkis PP, et al (2015). The 
prognostic significance of postchemoradiotherapy high-
resolution MRI and histopathology detected extramural venous 
invasion in rectal cancer. Ann Surg, 261(3):473-9. 
4. Hunter CJ, Garant A, Vuong T, Artho G, et al (2012). Adverse 
features on rectal MRI identify a high-risk group that may 
benefit from more intensive preoperative staging and treatment. 
Ann Surg Oncol, 19(4):1199-205. 
5. Jhaveri KS, Hosseini-Nik H, Thipphavong S, Assarzadegan N, 
et al (2016). MRI Detection of Extramural Venous Invasion in 
Rectal Cancer: Correlation with Histopathology Using Elastin 
Stain. American Journal of Roentgenology, 206(4):747-55. 
6. Ahn JH, Kim SH, Son JH (2019). "Added value of diffusion-
weighted imaging for evaluation of extramural venous invasion 
in patients with primary rectal cancer". British Journal of 
Radiology, 92(1096):20180821. 
7. Liu L, Liu M, Yang Z, He W, et al (2016). "Correlation of MRI-
detected extramural vascular invasion with regional lymph 
node metastasis in rectal cancer". Clinical Imaging, 40(3):456-60. 
8. Sohn B, Lim JS, Kim H, Myoung S, et al (2015). "MRI-detected 
extramural vascular invasion is an independent prognostic 
factor for synchronous metastasis in patients with rectal cancer", 
European Radiology, 25(5):1347-55. 
9. Bae JS, Kim SH, Hur BY, Chang W, et al (2019), "Prognostic 
value of MRI in assessing extramural venous invasion in rectal 
cancer: multi-readers' diagnostic performance". European 
Radiology, 29(8):4379-4388. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Chẩn Đoán Hình Ảnh - Sinh Học Phân Tử 21
10. Yu J, Huang DY, Xu HX, Li Y, et al (2016). Correlation Between 
Magnetic Resonance Imaging-Based Evaluation of Extramural 
Vascular Invasion and Prognostic Parameters of T3 Stage Rectal 
Cancer. J Comput Assist Tomogr, 40(4):537-42. 
11. Smith NJ, Shihab O, Arnaout A, Swift RI, et al (2008). "MRI for 
detection of extramural vascular invasion in rectal cancer". 
American Journal of Roentgenology, 191(5):1517-1522. 
12. Zhang XY, Wang S, Li XT, Wang YP, et al (2018). "MRI of 
Extramural Venous Invasion in Locally Advanced Rectal 
Cancer: Relationship to Tumor Recurrence and Overall 
Survival". Radiology, 289(3):677-685. 
13. Sun Y, Li J, Shen L, Wang X, et al (2018). Predictive value of 
MRI-detected extramural vascular invasion in stage T3 rectal 
cancer patients before neoadjuvant chemoradiation. Diagn Interv 
Radiol, 24(3):128-134. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_khao_sat_vai_tro_cua_cong_huong_tu_trong_chan_doan.pdf