Bước đầu điều trị bằng alteplase liều thấp cho bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp có ngừng tuần hoàn

Ngừng tuần hoàn là diễn biến nguy hiểm nhất của tắc động mạch phổi cấp, tỉ lệ tử vong ở nhóm này có thể đến

95%. Tái thông động mạch phổi là việc cần làm ngay song song hồi sinh tim phổi. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết

quả điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết liều 0,6 mg/kg cân nặng ở bệnh nhân ngừng tuần hoàn do tắc động mạch phổi

cấp. Đây là nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh ở ba bệnh viện khác nhau từ năm 2015 đến 2020. Có 6 bệnh nhân đủ

điều kiện chọn vào nghiên cứu, trong đó có 4/6 bệnh nhân (66,7%) được tiêu sợi huyết ngay lúc hồi sinh tim phổi,

trong đó 3/4 bệnh nhân (75%) tái lập được tuần hoàn tự nhiên ngay sau TSH. Tỉ lệ sống là 4/6 (66,7%). Không

có bệnh nhân nào có biến chứng chảy máu trong, sau dùng thuốc tiêu sợi huyết. Tất cả 4 bệnh nhân sống đều

không có di chứng thần kinh xấu. Nghiên cứu cho thấy tiêu sợi huyết liều 0,6 mg/kg cân nặng truyền trong 15 phút

ngay trong lúc hồi sinh tim phổi bước đầu có kết quả tốt trong xử trí ngừng tuần hoàn do tắc động mạch phổi cấp

pdf 7 trang phuongnguyen 740
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu điều trị bằng alteplase liều thấp cho bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp có ngừng tuần hoàn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu điều trị bằng alteplase liều thấp cho bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp có ngừng tuần hoàn

Bước đầu điều trị bằng alteplase liều thấp cho bệnh nhân tắc động mạch phổi cấp có ngừng tuần hoàn
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 1
BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ BẰNG ALTEPLASE LIỀU THẤP 
CHO BỆNH NHÂN TẮC ĐỘNG MẠCH PHỔI CẤP 
CÓ NGỪNG TUẦN HOÀN 
Hoàng Bùi Hải1,2, , Đỗ Giang Phúc², Lê Duy Lạc³, Bùi Nghĩa Thịnh³
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
³Bệnh viện Đa khoa Quận Thủ Đức
Ngừng tuần hoàn là diễn biến nguy hiểm nhất của tắc động mạch phổi cấp, tỉ lệ tử vong ở nhóm này có thể đến 
95%. Tái thông động mạch phổi là việc cần làm ngay song song hồi sinh tim phổi. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết 
quả điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết liều 0,6 mg/kg cân nặng ở bệnh nhân ngừng tuần hoàn do tắc động mạch phổi 
cấp. Đây là nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh ở ba bệnh viện khác nhau từ năm 2015 đến 2020. Có 6 bệnh nhân đủ 
điều kiện chọn vào nghiên cứu, trong đó có 4/6 bệnh nhân (66,7%) được tiêu sợi huyết ngay lúc hồi sinh tim phổi, 
trong đó 3/4 bệnh nhân (75%) tái lập được tuần hoàn tự nhiên ngay sau TSH. Tỉ lệ sống là 4/6 (66,7%). Không 
có bệnh nhân nào có biến chứng chảy máu trong, sau dùng thuốc tiêu sợi huyết. Tất cả 4 bệnh nhân sống đều 
không có di chứng thần kinh xấu. Nghiên cứu cho thấy tiêu sợi huyết liều 0,6 mg/kg cân nặng truyền trong 15 phút 
ngay trong lúc hồi sinh tim phổi bước đầu có kết quả tốt trong xử trí ngừng tuần hoàn do tắc động mạch phổi cấp. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Tắc động mạch phổi cấp, thuyên tắc phổi cấp, ngừng tuần hoàn, alteplase liều thấp, tiêu 
huyết khối
Tắc động mạch phổi (TĐMP) cấp là bệnh lí 
không hiếm gặp với tỉ lệ tử vong rất cao. Biến 
chứng nặng nề nhất của TĐMP cấp là gây suy 
sụp huyết động và ngừng tuần hoàn (NTH). 
Khi TĐMP có sốc thì tỉ lệ tử vong lên tới 30%. 
Một khi biến cố NTH xảy ra, tỉ lệ tử vong lên tới 
95%.1,2 Có tới 70% các bệnh nhân (BN) ngừng 
tuần hoàn ngoại viện là do căn nguyên nhồi 
máu cơ tim hoặc TĐMP cấp.³
Việc tái tưới máu mạch phổi là việc tối cấp 
cứu đặt ra trong các trường hợp TĐMP có 
sốc hoặc tụt áp.¹ Trong trường hợp BN ngừng 
tuần hoàn thì việc sử dụng thuốc tiêu sợi huyết 
là biện pháp tối ưu nhất vì BN diễn biến khó 
lường, rất khó để chuyển BN đi mổ hoặc đưa 
đi lấy huyết khối. Mặc dù vậy việc sử dụng 
thuốc tiêu sợi huyết khi BN đã hoặc đang NTH 
còn rất nhiều tranh cãi. Nghiên cứu TROICA, 
một nghiên cứu mù đôi ngẫu nhiên về việc sử 
dụng thuốc tiêu sợi huyết ở các BN ngừng tuần 
hoàn ngoại viện đã không cho thấy lợi ích so 
với nhóm sử dụng placebo.3,4 Tuy nhiên, trong 
thời gian gần đây, một số trường hợp lâm sàng 
sử dụng thuốc tiêu sợi huyết ở BN tắc động 
mạch phổi cấp có ngừng tuần hoàn cho kết quả 
điều trị tốt đã được báo cáo. Đặc biệt một số 
trường hợp thuốc tiêu sợi huyết đã được sử 
dụng ngay trong quá trình HSTP đã cho kết quả 
thành công trong việc tái lập tuần hoàn.5,6 Liều 
tiêu sợi huyết được sử dụng cũng chưa thống 
nhất do thiếu dữ liệu nghiên cứu. Phác đồ tiêu 
Tác giả liên hệ: Hoàng Bùi Hải,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 25/11/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 20202
sợi huyết liều thấp sử dụng alteplase 0,6 mg/
kg cân nặng đã được sử dụng rộng rãi ở Việt 
Nam với ưu điểm là an toàn, biến cố chảy máu 
thấp, phù hợp với đối tượng cân nặng thấp như 
người Việt Nam.⁷ Phác đồ này vẫn được Hội 
Tim mạch học Châu Âu cũng như Hội Tim mạch 
học Việt Nam khuyến cáo sử dụng.⁸ 
Tại Việt Nam, thuốc tiêu sợi huyết đã cho 
thấy hiệu quả và an toàn khi sử dụng điều trị 
cho BN tắc động mạch phổi cấp có sốc hoặc 
suy chức năng thất phải.⁷ Tuy nhiên lại chưa có 
trường hợp lâm sàng nào báo cáo về sử dụng 
thuốc tiêu sợi huyết ở các BN tắc động mạch 
phổi cấp khi có ngừng tuần hoàn. Vì vậy chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá 
kết quả điều trị thuốc tiêu sợi huyết liều 0,6 mg/
kg cân nặng truyền tĩnh mạch trong 15 phút ở 
bệnh nhân TĐMP cấp có ngừng tuần hoàn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Gồm những bệnh nhân NTH do tắc động 
mạch phổi cấp.
Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- Tuổi ≥ 18
- Bệnh nhân được chẩn đoán xác định 
TĐMP cấp bằng chụp phim cắt lớp vi tính ĐMP. 
Phim chụp ĐMP có thể được chụp sau khi 
HSTP thành công.
- Bệnh nhân được xác định là ngừng tuần 
hoàn: mất ý thức đột ngột, ngừng thở, mất 
mạch cảnh hay mạch bẹn.
- Bệnh nhân được sử dụng thuốc tiêu sợi 
huyết alteplase theo phác đồ 0,6 mg/kg cân 
nặng truyền tĩnh mạch liên tục trong 15 phút.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Ngừng tuần hoàn được cho là do nguyên 
nhân khác.
- Gia đình hoặc bệnh nhân không đồng ý 
tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả loạt 
ca bệnh.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2015 đến 
năm 2020
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại ba bệnh viện bao gồm Bệnh viện Bạch 
Mai, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện 
Đa khoa quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí 
Minh.
Phương pháp chọn mẫu: Toàn bộ BN đạt 
tiêu chuẩn chọn và tiêu chuẩn loại trừ được 
đưa vào nghiên cứu, thu thập theo trình tự thời 
gian.
Tiêu chí chính: tỉ lệ sống còn, tỉ lệ tái lập 
được tuần hoàn.
Tiêu chí phụ: thời gian thở máy, thời gian sử 
dụng vận mạch, biến cố chảy máu.
Mức độ tàn tật sẽ được đánh giá sau 3 tháng 
nhập viện, sử dụng thang điểm Rankin sửa đổi
Bảng 1. Thang điểm Rankin sửa đổi đánh giá mức độ tàn tật
Điểm Định nghĩa
0 Không có triệu chứng
1 Không có sự tổn thương đáng kể. Có thể làm tất cả các hoạt động thông thường mặc 
dù có một số triệu chứng
2 Mất chức năng nhẹ. Có thể chăm sóc bản thân mà không cần hỗ trợ nhưng không thể 
làm tất cả các hoạt động trước đây
3 Mất chức năng trung bình. Cần có sự trợ giúp nhưng có thể đi lại không cần giúp đỡ.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 3
4 Mất chức năng trung bình nặng. Không thể đáp ứng các nhu cầu của bản thân mà 
không có trợ giúp và không thể tự đi lại.
5 Mất chức năng nặng. Cần có sự chăm sóc và chú ý thường xuyên, nằm liệt giường và 
mất chủ động
6 Chết
Quy trình nghiên cứu:
Kỹ thuật tiêu sợi huyết được tiến hành ngay 
trong khi HSTP hoặc sau khi đã tái lập được 
tuần hoàn. Phác đồ tiêu sợi huyết được thống 
nhất thực hiện theo khuyến cáo của Hội Tim 
mạch học Việt Nam và Hướng dẫn quy trình kỹ 
thuật chuyên ngành Hồi sức Cấp cứu và Chống 
độc năm 2014 của Bộ y tế: truyền tĩnh mạch 
liên tục alteplase liều 0,6 mg/ kg cân nặng trong 
15 phút.⁸
Thời điểm và thời gian NTH, đặc điểm từng 
ca bệnh, diễn biến trước trong và sau khi tiêu 
sợi huyết sẽ được ghi nhận để phân tích.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lí bằng phần mềm thống kê 
stata 14. Các biến định lượng được mô tả dưới 
dạng trung vị, biến định tính được mô tả dưới 
dạng tỉ lệ phần trăm. Nghiên cứu phân tích và 
đánh giá chi tiết trên từng ca bệnh.
4. Đạo đức nghiên cứu
Quá trình cấp cứu BN tuân thủ theo quy trình 
kĩ thuật của Bộ Y Tế, cập nhật Hội Hồi sức Cấp 
cứu và Chống độc Việt Nam. Duy trì được tính 
mạng BN luôn được ưu tiên trước. Việc chỉ định 
tiêu sợi huyết ở từng BN sẽ được cân nhắc kĩ 
càng, xin ý kiến của chuyên gia và được sự 
đồng ý lãnh đạo khoa phòng bệnh viện. Truyền 
thuốc tiêu sợi chỉ được tiến hành khi người nhà 
BN được giải thích kĩ và kí cam đoan đồng ý 
vào hồ sơ bệnh án. Việc thu thập số liệu được 
tiến hành sau khi đã cấp cứu và điều trị cho BN, 
không can thiệp vào quá trình điều trị gây ảnh 
hưởng lợi ích cho BN. Mọi thông tin thu thập 
được sẽ được bảo mật và chỉ phục vụ mục đích 
nghiên cứu. 
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu thu thập được 6 BN ngừng tuần 
hoàn do TĐMP được tiến hành tiêu sợi huyết. 
Trong đó có 3 BN thu thập được tại Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội, 2 BN thu thập được tại Bệnh 
viện quận Thủ Đức, 1 BN thu thập được tại 
Bệnh viện Bạch Mai. Các BN sẽ được đánh số 
theo thứ tự lần lượt từ 1 đến 6.
1. Đặc điểm chung
Bảng 2. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu
BN Giới Tuổi
Cân nặng 
(kg)
Chiều cao 
(cm)
Tiền sử
Số ngày 
nằm viện
Số 1 Nữ 70 55 160 Tâm thần phân liệt 7
Số 2 Nam 59 45 165 Khỏe mạnh 1
Số 3 Nam 34 62 173 Khỏe mạnh 5
Số 4 Nữ 57 55 156 Sau mổ kết hợp xương cánh tay ngày thứ 9 4
Số 5 Nam 63 82 178 Ung thư thần kinh – nội tiết 7
Số 6 Nữ 75 65 162 Tăng huyết áp, đái tháo đường 2
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 20204
Có 5/6 BN (chiếm 83,3%) có độ tuổi trên 50. Có 2/6 BN (chiếm 33,3%) không phát hiện bệnh lí 
từ trước.
2. Đặc điểm về quá trình hồi sinh tim phổi và sử dụng thuốc tiêu sợi huyết
Bảng 3. Đặc điểm về quá trình HSTP và sử dụng thuốc tiêu sợi huyết
Mã 
hóa 
tên 
bệnh 
nhân
Thời điểm 
NTH
Lí do nghĩ đến NTH 
liên quan đến TĐMP 
cấp
Thời 
gian 
HSTP 
(phút)
Thời 
điểm 
dùng 
thuốc 
tiêu sợi 
huyết
Thời gian từ 
khi tái lập tuần 
hoàn đến khi 
dùng thuốc 
tiêu sợi huyết 
(giờ)
Lí do trì 
hoãn 
tiêu sợi 
huyết
Số 1 Ngoại viện Lâm sàng + Siêu âm tim 30 Trong HSTP 0
Số 2 Nội viện TĐMP đã chẩn đoán 90 Trong HSTP 0
Số 3 Nội viện
Khó thở, tụt huyết áp đột 
ngột sau khi di chuyển/
Huyết khối tĩnh mạch 
sâu chân phải
5 Trong HSTP 0
Số 4 Nội viện
Đã chụp cắt lớp vi tính 
ĐMP tìm nguyên nhân 
sau NTH 
10 Sau HSTP 3
Chụp 
MRI sọ 
não loại 
trừ chảy 
máu
Số 5 Nội viện
Khó thở, tụt huyết áp đột 
ngột sau khi di chuyển/ 
Huyết khối tĩnh mạch 
sâu chân phải
2 Trong HSTP 0
Số 6 Nội viện
Điện tim có S1Q3T3, T 
âm V1-V3 và Siêu âm 
tim có giãn thất phải, 
Tăng áp lực ĐMP 
10 Sau HSTP 12
Chuyển 
tuyến
Hầu hết các BN đều phát hiện NTH trong bệnh viện và được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết trong 
quá trình HSTP.
3. Đặc điểm về bệnh lí tắc động mạch phổi cấp
Các BN đều có tình trạng suy thất phải cấp thể hiện ở giãn thất phải trên siêu âm tim và tăng các 
dấu ấn sinh học của tim. Có 4/6 BN (chiếm 66,7%) có điểm độ nặng trên phim chụp cắt lớp vi tính 
ĐMP trên 50% dù 5/6 BN (chiếm 83,3%) được chụp phim sau HSTP.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 5
Bảng 4. Đặc điểm và mức độ nặng của TĐMP phổi ở từng bệnh nhân
Mã 
hoá 
tên 
bệnh 
nhân 
Đặc điểm kết quả chụp 
cắt lớp vi tính ĐMP
Đặc điểm kết quả siêu 
âm tim
N
T-
pr
oB
N
P
(p
g/
m
L)
Tr
op
on
in
 T
(n
g/
L)
D
D
im
er
 (n
g/
m
L)
H
uy
ết
 k
hố
I t
ĩn
h 
m
ạc
h 
sâ
u
Thời 
điểm 
chụp
Điểm SI(*) 
(%)
Tỉ lệ thất 
phải/ thất 
trái
Áp lực 
ĐMP
Số 1 Sau HSTP 62,5 1,3 50 265 17 5000 Không
Số 2 Trước HSTP 75 1 50 3600 28 9630 Có
Số 3 Sau HSTP 40 0,9 66 161,7 85 10497 Có
Số 4 Sau HSTP 75 1,1 60 5724 161,8 5819 Có
Số 5 Sau HSTP 50 1,2 50 639,1 8 20018 Có
Số 6 Sau HSTP 45 0,9
Không 
đánh giá(**) 577,3 471,3 4114 Có
Chú thích: 
(*) Điểm SI (sever index) tính theo công thức công thức Quanadli:
Điểm độ nặng (%) = {∑(n.d)/40 } x 100
Trong đó n: số nhánh phân thùy phổi (thấp nhất: 1; nhiều nhất: 20), d: độ tắc nghẽn (không tắc: 
0; tắc bán phần:1; tắc hoàn toàn: 2)
(**) Không đánh giá được do hình ảnh siêu âm tim tại giường rất mờ, BN đang thở máy.
4. Kết cục điều trị và nguyên nhân dừng điều trị
Bảng 5. Kết cục điều trị và nguyên nhân dừng điều trị
Mã hoá 
tên BN
Chỉ số vận 
mạch(*)
Thời gian 
duy trì 
vận mạch 
(ngày)
Biến cố 
chảy máu
Kết cục 
điều trị
Điểm 
Rankin sửa 
đổi sau 90 
ngày
Nguyên 
nhân dừng 
điều trị
Số 1 30 1 Không Sống 1 -
Số 2 Không đánh giá(**) - Không Tử vong -
Không tái 
lập được 
tuần hoàn
Số 3 140 3 Không Sống 0 -
Số 4 45 1 Không Sống 0 -
Số 5 60 1 Không Sống 0 -
Số 6 80 2 Không Tử vong - Mất não sau NTH
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 20206
Chú thích:
(*) Chỉ số vận mạch (vasoactive-inotrop 
score, VIS) được tính theo công thức:
VIS = Dopamine dose (mcg/kg/min) + 
Dobutamine dose (mcg/kg/min) + 100 x 
Epinephrine dose (mcg/kg/min) + 10 x Milrinone 
dose (mcg/kg/min) + 10,000 x Vasopressin 
dose (units/kg/min) + 100 x Norepinephrine 
dose (mcg/kg/min).
(**) Không tính điểm do BN tiêm adrenalin 
trong quá trình HSTP, không dùng liều duy trì.
Tỉ lệ sống còn trong nghiên cứu là 4/6 
(66,7%) bệnh nhân. 3/4 BN được dùng thuốc 
tiêu sợi huyết trong HSTP đã tái lập được tuần 
hoàn và có kết cục sống. Hầu hết các BN không 
để lại di chứng (điểm Rankin sửa đổi đạt 0 – 1).
IV. BÀN LUẬN
Do bệnh cảnh lâm sàng đặc thù rất nặng, 
thời gian rất ngặt nghèo, nên nghiên cứu chỉ 
thu thập được 6 BN trong vòng 5 năm. Tuy 
nhiên với kết quả thu được cũng đã góp phần 
củng cố thêm bằng chứng về kết quả của thuốc 
tiêu sợi huyết trong điều trị tắc động mạch phổi 
cấp có ngừng tuần hoàn. 
Tỉ lệ sống còn trong nghiên cứu của chúng 
tôi đạt 4/6 (66,7%), tuy nhiên hầu hết các BN 
trong nghiên cứu đều là NTH nội viện, việc phát 
hiện sớm, cấp cứu kịp thời sẽ cho hiệu quả cao 
hơn. Trong nghiên cứu của Javaudin và cộng 
sự, tỉ lệ sống còn ngày thứ 30 chỉ là 16% với 
các BN được dùng tiêu sợi huyết, tuy nhiên đối 
tượng nghiên cứu là các BN ngừng tuần hoàn 
ngoại viện. Nếu không được dùng thuốc tiêu 
sợi huyết mà chỉ điều trị thông thường, con số 
này chỉ là 6%.⁴ Việc các bệnh nhân NTH nghi 
ngờ do TĐMP cấp được dùng tiêu sợi huyết 
ngay trong lúc hồi sinh tim phổi mà chưa có kết 
quả chụp cắt lớp vi tính ĐMP có thể giúp cho 
kết quả tái lập tuần hoàn tự nhiên sớm, bền 
vững hơn. 
Năm 2015, tác giả O’connor và cộng sự đã 
mô tả 1 trường hợp TĐMP được HSTP thành 
công khi sử dụng thuốc tiêu sợi huyết liều bolus 
50 mg alteplase trong 10 phút và lặp lại sau 
15 phút khi chưa tái lập được tuần hoàn.5 Một 
trường hợp tương tự cũng được báo cáo vào 
năm 2018 và cho kết quả thành công khi dùng 
thuốc tiêu sợi huyết trong HSTP.6 Việc thực 
hiện 2 liều tiêu sợi huyết khi HSTP như vậy 
chỉ được thực hiện khi đánh giá lợi ích lớn hơn 
nguy cơ chảy máu và không thể thực hiện được 
biện pháp khác. Nguy cơ chảy máu là rất lớn, 
đặc biệt là chảy máu não sẽ dẫn tới kết cục tồi 
về thần kinh cho dù tái lập được tuần hoàn.3 
Trong nghiên cứu, chúng tôi vẫn trung thành 
với phác đồ dùng liều thấp alteplase 0,6 mg/kg 
vì phác đồ này vẫn nằm trong khuyến cáo điều 
trị của hội tim mạch học Việt Nam và phác đồ 
của Bộ y tế. Thực tế việc 3/4 BN tái lập được 
tuần hoàn khi được dùng thuốc TSH trong 
HSTP và không có BN nào có biến cố chảy máu 
và không để lại di chứng nặng nề về thần kinh 
(4/6 BN sống đều có điểm rankin 0 – 1) là rất 
đáng mong đợi. Ngay cả trong điều kiện triển 
khai được tim phổi nhân tạo (ECMO) tại giường 
thì việc dùng thuốc tiêu sợi huyết cho các BN 
tắc động mạch phổi cấp đang NTH vẫn là cứu 
cánh cho các BN này với chi phí và hiệu quả tốt.
Phác đồ TSH liều thấp đã chứng minh có 
hiệu quả trong điều trị bệnh nhân TĐMP cấp có 
sốc/ tụt áp hoặc khi có rối loạn chức năng thất 
phải.1,7 Vì vậy, việc đánh giá, phân tầng đúng 
nhóm nguy cơ và sử dụng sớm thuốc TSH ở 
BN có chỉ định là rất quan trọng. Một khi đã tái 
tưới máu được mạch phổi, cắt đứt vòng xoắn 
bệnh lí, có thể tránh được biến cố NTH xảy ra.
V. KẾT LUẬN
Truyền thuốc tiêu sợi alteplase chế độ liều 
0,6mg/kg cân nặng trong vòng 15 phút bước 
đầu cho kết quả tốt trong điều trị tái thông động 
mạch phổi cho bệnh nhân ngừng tuần hoàn do 
tắc động mạch phổi cấp ngay cả khi đang được 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 7
hồi sinh tim phổi. Nên có thêm nghiên cứu về 
vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Konstantinides S.V., Meyer G., Becattini 
C., et al. ESC guideline for the diagnosis and 
management of acute pulmonary embolism 
developed in collaboration with the European 
Respiratory Society. European Heart Journal. 
2019; 41, 543 – 603.
2. Laher A.E., Richards G. Cardiac arrest 
due to pulmonary embolism. Indian Heart 
Journal. 2018; 70, 731 – 735.
3. Bottiger B.W., Arntz H., Chamberlain D.A., 
et al. Thrombolysis during resusciation for out-
of-hospital cardiac arrest. N Engl J Med. 2008; 
359, 2651 – 2662.
4. Javaudin F., Lascarrou J., Bastard Q.L., 
et al. Thrombolysis during resuscitation for out-
of-hospital cardiac arrest caused by pulmonary 
embolism increases 30-day survival: Finding 
from the french national cardiac arrest registry. 
Chest. 2019; 156 ( 6), 1167 – 1175.
5. O’conner G., Fitzpatrick G., El-Gammal A., 
et al. Double bolus thrombolysis for suspected 
massive pulmonary embolism during cardiac 
arrest. Case Rep Emergency Med. 2015; 
367295, 1 – 5.
6. Mahboob H., Denney B.W. Double bolus 
Alteplase therapy during cardiopulmonary 
resuscitation for cardiac arrest due to massive 
pulmonary embolism guided by focused 
bedside echocardiography. Case Rep Critical 
care. 2018; 7986087, 1 – 7.
7. Hoàng Bùi Hải, Đỗ Giang Phúc. Bước 
đầu áp dụng alteplase liều thấp trong điều trị 
tắc động mạch phổi cấp tại Việt Nam Tạp chí y 
học Việt Nam. 2016; 444 (1), 100 – 105.
8. Nguyễn Văn Trí, Đinh Thị Thu Hương, 
Nguyễn Thanh Hiền. Khuyến cáo về chẩn đoán, 
điều trị và dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh 
mạch. Hội Tim mạch học Việt Nam. 2016.
Summary
RESULT OF LOW DOSE ALTEPLASE TREATMENT FOR ACUTE 
PULMONARY EMBOLISM WITH CARDIAC ARREST
Cardiac arrest is the most dangerous event in patients with acute pulmonary embolism (APE); 
the mortality in this group may be estimated at 95%. The reperfusion of pulmonary artery is an 
immediate requirement beside of cardiopulmonary resuscitation (CPR). This study aimed to evaluate 
the results of treatment by fibrinolysing with alteplase regimen of 0.6 mg / kg body weight in patients 
with cardiac arrest due to APE. This was a case series study collectimg all patients data with 
adequate selection criterias in three different hospitals from 2015 to 2020. There were six patients 
eligible for inclusion in the study, of which 4/6 patients (66.7%) were fibrinolytic while receiving 
CPR; three-fourths of these patients (75%) subsequently returned to spontaneous circulation. The 
survival rate was 4/6 (66.7%). No patient had bleeding complication during and after administering 
the fibrinolytic. All four patients survived without bad neurological sequalae. The study showed that 
fibrinolytic with dose regimen of 0.6 mg / kg body weight IV in 15 minutes while performing CPR 
has initially showed good results in the management of cardiac arrest due to pulmonary embolism. 
Key words: Acute pulmonary embolism, cardiac arrest, low dose of alteplase, fibrinolytic

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_dieu_tri_bang_alteplase_lieu_thap_cho_benh_nhan_tac.pdf