Bước đầu đánh giá kết quả áp dụng mô hình Tele - ICU trong hỗ trợ chẩn đoán và xử trí từ xa bệnh nhân hồi sức cấp cứu giữa bệnh viện tỉnh Thanh Hoá và bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả hoạt động của mô hình Tele - ICU trong hỗ trợ từ xa chẩn đoán và xử trí

bệnh nhân nặng giữa Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá. Nghiên cứu phân tích

4 ca lâm sàng đã được hội chẩn trong thời gian 1 tháng, đây là những bệnh nhân nặng phức tạp, nguyện vọng

ban đầu của gia đình bệnh nhân là chuyển bệnh nhân đi các bệnh viện trung ương. Các cuộc hội chẩn từ xa

thường xuyên giữa các thầy thuốc hồi sức cấp cứu thông qua hệ thống Tele - ICU đã giúp bệnh nhân được chẩn

đoán kịp thời, tư vấn điều trị phù hợp hơn, theo dõi sát hơn bởi các bác sỹ có kinh nghiệm từ Bệnh viện Đại học

Y Hà Nội góp phần đưa 4 bệnh nhân có diễn biến bệnh tích cực hơn mà không cần phải chuyển tuyến. Nghiên

cứu này cho thấy việc hội chẩn từ xa thông qua hệ thống Tele - ICU giữa các thầy thuốc chuyên ngành hồi sức

cấp cứu ở hai bệnh viện bước đầu mang lại kết quả tốt trong hỗ trợ chẩn đoán và xử trí tại chỗ bệnh nhân nặng

pdf 10 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu đánh giá kết quả áp dụng mô hình Tele - ICU trong hỗ trợ chẩn đoán và xử trí từ xa bệnh nhân hồi sức cấp cứu giữa bệnh viện tỉnh Thanh Hoá và bệnh viện Đại học Y Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu đánh giá kết quả áp dụng mô hình Tele - ICU trong hỗ trợ chẩn đoán và xử trí từ xa bệnh nhân hồi sức cấp cứu giữa bệnh viện tỉnh Thanh Hoá và bệnh viện Đại học Y Hà Nội

Bước đầu đánh giá kết quả áp dụng mô hình Tele - ICU trong hỗ trợ chẩn đoán và xử trí từ xa bệnh nhân hồi sức cấp cứu giữa bệnh viện tỉnh Thanh Hoá và bệnh viện Đại học Y Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
142 TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Hoàng Bùi Hải, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
Ứng dụng công nghệ thông tin trong y học 
đang là xu thế trên toàn thế giới. Trong các dịch 
vụ y tế từ xa thì hiệu quả nhất vẫn là các dịch 
vụ phục vụ người bệnh nặng, người bệnh trong 
tình trạng cấp cứu, do các đối tượng này cần 
được tư vấn, hội chẩn và xử trí nhanh chóng và 
nếu được can thiệp sớm có thể cứu sống được 
tính mạng người bệnh. Chính vì vậy thuật ngữ 
Tele - ICU (Telemedicine in Intensive Care Unit) 
đã ra đời nhằm đề cập đến những dịch vụ y tế 
từ xa trong lĩnh vực hồi sức cấp cứu.1
Vào năm 2000, Sentara Healthcare đã thực 
hiện chương trình telemedicine (bao gồm cả 
Tele - ICU). Sau 1 năm triển khai, Sentara đã 
báo cáo giảm được 27% tỷ lệ tử vong của bệnh 
viện so với năm trước. Theo ước tính hiện tại, 
khoảng 45 đến 50 chương trình Tele - ICU đang 
hỗ trợ chăm sóc cho hàng trăm Khoa hồi sức 
tích cực (HSTC) trên toàn nước Mỹ.2,3,5 
Trong điều trị bệnh nhân HSTC có những 
đặc thù riêng biệt như cần phải được theo dõi 
liên tục, rất nhiều kỹ thuật cao, xâm lấn không 
xâm lấn được thực hiện ở nhóm bệnh nhân 
này, đòi hỏi nhân viên y tế có kinh nghiệm và 
năng lực. Hơn nữa, tình trạng bệnh nhân nằm 
ở đơn vị HSTC diễn biến liên tục, có thể cần 
phải can thiệp cấp cứu bất cứ lúc nào. 
Sự chênh lệch về nhiều mặt giữa các bệnh 
BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ÁP DỤNG MÔ HÌNH TELE - 
ICU TRONG HỖ TRỢ CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ TỪ XA BỆNH 
NHÂN HỒI SỨC CẤP CỨU GIỮA BỆNH VIỆN TỈNH THANH HOÁ 
VÀ BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Hoàng Bùi Hải1,2, , Nguyễn Anh Dũng2, Đinh Thái Sơn¹, Vũ Việt Hà1,2, 
Nguyễn Lân Hiếu1,2, Đào Xuân Thành1,2, Nguyễn Văn Dũng³, Lê Duy Long³, 
Lê Xuân Quý1,3, Lê Văn Cường3, Lê Văn Sỹ3, Lưu Ngọc Hoạt1
¹Trường Đại học Y Hà Nội 
²Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
³Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá
Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả hoạt động của mô hình Tele - ICU trong hỗ trợ từ xa chẩn đoán và xử trí 
bệnh nhân nặng giữa Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá. Nghiên cứu phân tích 
4 ca lâm sàng đã được hội chẩn trong thời gian 1 tháng, đây là những bệnh nhân nặng phức tạp, nguyện vọng 
ban đầu của gia đình bệnh nhân là chuyển bệnh nhân đi các bệnh viện trung ương. Các cuộc hội chẩn từ xa 
thường xuyên giữa các thầy thuốc hồi sức cấp cứu thông qua hệ thống Tele - ICU đã giúp bệnh nhân được chẩn 
đoán kịp thời, tư vấn điều trị phù hợp hơn, theo dõi sát hơn bởi các bác sỹ có kinh nghiệm từ Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội góp phần đưa 4 bệnh nhân có diễn biến bệnh tích cực hơn mà không cần phải chuyển tuyến. Nghiên 
cứu này cho thấy việc hội chẩn từ xa thông qua hệ thống Tele - ICU giữa các thầy thuốc chuyên ngành hồi sức 
cấp cứu ở hai bệnh viện bước đầu mang lại kết quả tốt trong hỗ trợ chẩn đoán và xử trí tại chỗ bệnh nhân nặng. 
Từ khoá: Cấp cứu, Hồi sức tích cực, Tele - ICU, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Thanh Hoá 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
143TCNCYH 134 (10) - 2020
viện tuyến địa phương và trung ương làm cho 
các bệnh nhân nặng có xu hướng được chuyển 
tuyến cao hơn. Trong khi đó bệnh nhân nặng 
thường có thể dùng nhiều thuốc vận mạch, thở 
máynên khả năng vận chuyển lên tuyến trên 
là rủi ro cao. Một điểm nữa là các đơn vị HSTC 
ở tuyến trên cũng quá tải bệnh nhân. 
Tại Việt Nam, tại một số bệnh viện có tổ chức 
những buổi hội chẩn trực tuyến, tuy nhiên chưa 
có tính chất hệ thống, cụ thể trực tiếp ca bệnh 
và hiệu quả mang lại cũng chưa được đánh giá. 
Với đặc thù của chuyên ngành hồi sức cấp cứu, 
mô hình Tele - ICU tại khoa Cấp cứu và Hồi 
sức tích cực, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã 
được triển khai. Sau thời gian 3 tháng triển khai 
mô hình, ngoài việc thử nghiệm kết nối trong 
khoa, chúng tôi kết nối thường xuyên với khoa 
Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh 
Hóa và một số bệnh viện khác. Đây là kỹ thuật 
lần đầu tiên được áp dụng ở bệnh viện, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: Đánh giá hiệu 
quả ban đầu áp dụng của mô hình Tele - ICU 
trong hỗ trợ từ xa chẩn đoán và điều trị bệnh 
nhân hồi sức tích cực giữa Bệnh viện Đa khoa 
tỉnh Thanh Hóa và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 
từ tháng 6/2020 đến tháng 8/2020.
II. PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đây là nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh được 
áp dụng hệ thống Tele - ICU trong hỗ trợ chẩn 
đoán, điều trị, theo dõi từ xa từ tháng 6/2020 
đến tháng 8/2020.
2. Phương pháp
Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện 
Đa khoa tỉnh Thanh Hoá và Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội. 
Khoa cấp cứu và Hồi sức tích cực, Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội: Được thành lập từ năm 
2014, với hai đơn nguyên Cấp cứu và Hồi sức 
tích cực. Mỗi ngày đơn vị Cấp cứu tiếp nhận 
khoảng 80 bệnh nhân nặng, với tỷ lệ nhập viện 
50%: đơn vị HSTC có 10 giường. Hiện nay, đội 
ngũ bác sỹ ở khoa bao gồm 2 Phó giáo sư - 
Tiến sỹ, 1 Tiến sỹ, 11 Thạc sỹ - Bác sỹ nội trú 
có kinh nghiệm lâm sàng trong chuyên ngành 
hồi sức cấp cứu. Trong đó có 3 bác sỹ là giảng 
viên của Bộ môn Hồi sức cấp cứu, Trường Đại 
học Y Hà Nội. Đội ngũ điều dưỡng, hộ lý có 35 
người. Khoa có kinh nghiệm trong đào tạo, trao 
đổi kinh nghiệm với các chuyên gia đến từ Mỹ, 
Pháp, Canada, Nhật Bản...; luôn cập nhật các 
kiến thức, các kỹ thuật mới trên thế giới, xây 
dựng phác đồ chẩn đoán điều trị, phác đồ điều 
chỉnh thuốc cho các bệnh nhân tại HSTC. Hàng 
ngày, khoa đón tiếp khoảng 80 trường hợp 
bệnh nhân cấp cứu. Hiện nay, khoa đã thực 
hiện được nhiều kỹ thuật cao trong HSTC như: 
Tim phổi nhân tạo ngoài cơ thể (ECMO), thở 
máy ở bệnh nhân suy hô hấp tiến triển, lọc máu 
liên tục, lọc máu ngắt quãng, thăm dò huyết 
động xâm lấn.
Khoa hồi sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa 
tỉnh Thanh Hóa: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh 
Hoá với quy mô 1200 giường, khoa Hồi sức 
tích cực nội khoa của bệnh viện có 25 giường, 
10 bác sĩ, trong đó có 4 bác sĩ sau đại học, 25 
điều dưỡng. Nhìn chung khoa còn thiếu đội ngũ 
bác sĩ, điều dưỡng chuyên hồi sức cấp cứu, 
chưa có điều kiện cập nhật các kiến thức mới 
trong điều trị các bệnh nhân nặng, đa bệnh lý. 
Trang bị cho khoa Hồi sức tích cực còn hạn 
chế. Mỗi năm có hàng nghìn bệnh nhân nặng 
được chuyển tuyến đến các bệnh viện trung 
ương. 
Hệ thống trang thiết bị Tele - ICU
Hệ thống Tele - ICU được đưa vào sử dụng 
tại khoa cấp cứu và Hồi sức tích cực từ tháng 
3/2020. Hệ thống này có 2 thành phần chính, 
gồm trung tâm điều hành Tele - ICU và đơn vị 
Tele - ICU. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
144 TCNCYH 134 (10) - 2020
Trung tâm điều hành Tele - ICU được lắp đặt hệ thống phần mềm để kết nối với monitor và máy 
thở tại đơn vị Tele - ICU bệnh viện tỉnh Thanh Hóa. Thông qua đó, có thể phân tích dữ liệu bệnh 
nhân và theo dõi liên tục các chỉ số sinh tồn, chỉ số huyết động xâm lấn và các thông số máy thở 
của bệnh nhân nặng nằm tại đơn vị Tele - ICU của bệnh viện tỉnh Thanh Hóa. Trung tâm điều hành 
Tele - ICU và đơn vị Tele - ICU được kết nối trực tuyến về âm thanh và hình ảnh với nhau một cách 
liên tục 24/24.
Đơn vị Tele - ICU đặt tại khoa Hồi sức tích cực tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Đơn vị 
Tele - ICU được trang bị một giường hồi sức tích cực. Máy thở và monitor được kết nối trực tiếp 
đến trung tâm điều hành Tele - ICU, thông qua đó có thể theo dõi liên tục các chỉ số của bệnh nhân 
tại đơn vị điều hành Tele - ICU. Hình ảnh của bệnh nhân, quy trình thực hiện thủ thuật cũng được 
truyền trược tiếp về đơn vị điều hành Tele - ICU. Bác sỹ ở phòng điều hành Tele - ICU có thể trực 
tiếp thăm khám các dấu hiệu lâm sàng của bệnh nhân và trực tiếp hướng dẫn nhân viên tại đơn vị 
Tele - ICU thực hiện thủ thuật
 Phần mềm được trang bị: Tele - Conferrence bằng Zoom chuyên nghiệp có bản quyền không 
giới hạn, có ghi lại các cuộc thảo luận vào icloud hoặc máy tính, phần mềm truyền tín hiệu Webview, 
truyền thời gian thực thông số sinh tồn từ monitor như nhịp tim, huyết áp, SpO2, nhịp thởvà các 
thông số cài đặt của máy thở, thiết bị thăm dò xâm lấn khác. 
Ảnh 1. Trang thiết bị trung tâm điều hành Tele - ICU
Triển khai
Quy trình thực hiện
Bệnh nhân nặng tại bệnh viện tỉnh Thanh Hóa, cần phải hỗ trợ chuyên môn về mặt chẩn đoán, 
điều trị và can thiệp sẽ được đưa vào phòng của đơn vị Tele - ICU đặt tại khoa hồi sức tích cực của 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
145TCNCYH 134 (10) - 2020
bệnh viện. Bệnh nhân được lưu, theo dõi tại 
đơn vị này cho đến lúc kết thúc giai đoạn hồi 
sức tích cực, hoặc không cần hỗ trợ nữa. 
Chủ trì hội chẩn tại Trung tâm Điều hành 
Tele - ICU là Lãnh đạo khoa và/hoặc các Bác 
sĩ trực cọc 1 trong khoa Cấp Cứu Hồi sức tích 
cực, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Thành phần tham dự mỗi cuộc thảo luận: 
 - Các bác sĩ khoa Cấp Cứu - Hồi sức tích 
cực, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
 - Trưởng và/hoặc Phó trưởng khoa Hồi 
sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Thanh Hóa.
 - Bác sĩ tại bệnh viện tỉnh Thanh Hóa.
 - Điều dưỡng tại bệnh viện tỉnh Thanh Hóa.
Nội dung hội chẩn trực tuyến với bác sỹ 
khoa Cấp cứu và Hồi sức tích cực, Bệnh viện 
Đại học Y Hà Nội:
Bác sỹ điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh 
Thanh Hóa báo cáo tóm tắt bệnh sử của bệnh 
nhân, tình trạng bệnh nhân hiện tại, những vấn 
đề khó khăn trong chẩn đoán và điều trị. Bác 
sỹ tại trung tâm điều hành Tele - ICU hội chẩn 
trực tuyến, thăm khám trực tuyến từ xa bệnh 
nhân, phân tích các chỉ số huyết động, chỉ số 
máy thở, phân tích phim chụp của bệnh nhân, 
hướng dẫn bác sỹ tại đơn vị Tele - ICU thực 
hiện thủ thuật xâm lấn, không xâm lấn. Thông 
qua hội chẩn trực tuyến, đưa ra chẩn đoán, 
hướng điều trị bệnh nhân. 
Bệnh nhân tại đơn vị Tele - ICU được kết nối 
với monitor, máy thở và hình ảnh bệnh nhân 
cùng các thông số trên truyền trực tiếp đến 
trung tâm điều hành. Bác sỹ tại trung tâm điều 
hành phối hợp với bác sỹ ở đơn vị Tele - ICU 
theo dõi liên tục diễn biến của bệnh nhân. Trong 
thời gian bệnh nhân nằm tại đơn vị Tele - ICU, 
bệnh nhân có thể được hội chẩn liên tục với 
trung tâm điều hành khi tình trạng bệnh nhân có 
diễn biến, hoặc khi cần can thiệp kỹ thuật cao 
cho bệnh nhân. 
Vào 9h30 sáng và 15h30 chiều các ngày 
trong tuần từ thứ 2 - thứ 7, thông qua hội chẩn 
trực tuyến, diễn biến về tình trạng bệnh nhân sẽ 
được tổng hợp và báo cáo ngắn gọn. 
Sau lần hội chẩn đầu tiên bác sĩ trưởng kíp 
bên đầu cầu Hà Nội mời gia đình bệnh nhân vào 
bệnh phòng và giải thích thêm trước sự chứng 
kiến của các đồng nghiệp đầu cầu Thanh Hoá. 
Viện này có thể được lặp lại vào những ngày 
sau. 
Lưu dữ liệu
Thư ký ghi chép tóm tắt nội dung buổi hội 
chẩn trực tuyến, lưu sổ hội chẩn.
Nội dung và hình ảnh hội chẩn được ghi 
lại dựa vào tính năng Record trên phần mềm 
Zoom sau đó lữu trữ bản mềm trên máy tính.
Vai trò của hệ thống Tele - ICU
Hệ thống Tele - ICU giúp kết nối các bệnh 
nhân nặng giữa đơn vị điều trị hồi sức cấp cứu 
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa và trung 
tâm điều hành hỗ trợ chẩn đoán và điều trị từ 
xa tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thông qua 
hệ thống tele ICU các bác sĩ tại Bệnh viện Đại 
học Y Hà Nội giúp các bác sĩ Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Thanh Hóa xác định chẩn đoán và 
hướng điều trị phù hợp nhất cho bệnh nhân. 
Cũng thông qua hệ thống Tele - ICU các bác 
sĩ tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội giúp các bác 
sĩ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa nâng 
cao, cập nhật kiến thức mới, các phác đồ điều 
trị trong đơn vị hồi sức cấp cứu cũng như triển 
khai các kỹ thuật mới giúp cho quá trình điều 
trị cho bệnh nhân. Hệ thống Tele - ICU cho 
phép đánh giá các thông số chức năng sống 
của bệnh nhân liên tục theo thời gian để từ 
đó có những can thiệp kịp thời khi tình trạng 
bệnh nhân xấu đi. Tuy nhiên hệ thống Tele - 
ICU cũng có những hạn chế nhất định như chất 
lượng đường truyền đôi khi không ổn định, chất 
lượng âm thanh nhiều khi không tốt. Đặc biệt 
hệ thống này không giúp thăm khám trực tiếp 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
146 TCNCYH 134 (10) - 2020
các bệnh nhân nặng rất cần kinh nghiệm của các thầy thuốc vì vậy đôi khi rất khó để đưa ra các 
chẩn đoán chính xác và phù hợp nhất cho bệnh nhân. Về việc chuyển giao kỹ thuật cho các bác sĩ 
tuyến vệ tinh thì hệ thống này có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Về ưu điểm, với các kỹ thuật 
đơn giản chúng ta hoàn toàn có thể chuyển giao cho bệnh viện tuyến vệ tinh thông qua hệ thống 
Tele - ICU như kỹ thuật nằm sấp trong điều trị ARDS, kỹ thuật đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại 
vi dưới hướng dẫn của siêu âm, kỹ thuật hạ thân nhiệt ngoại vi trong điều trị ngừng tuần hoàn. Tuy 
nhiên có các kỹ thuật phức tạp như kỹ thuật ECMO rất khó để có thể chuyển giao qua hệ thống này.
- Bệnh nhân cần hỗ trợ Tele-ICU 
- Đưa vào đơn vị Tele-ICU của bệnh viện tỉnh Thanh Hóa 
- Hội chẩn trực tuyến 
- Hình ảnh và thông số bệnh nhân truyền trực tiếp về trung tâm điều 
hành 
- Nội dung cuộc hội chẩn được lưu lại thông qua tính năng Record trên 
Zoom 
Đưa ra hướng chẩn đoán 
và tiến hành điều trị cho bệnh nhân 
- Hội chẩn trực tuyến với trung tâm điều 
hành 24/7 khi phát sinh tình huống 
- Hướng dẫn thực hiện thủ thuật xâm lấn, kỹ 
thuật cao 
- Theo dõi lâm sàng bệnh nhân qua hình 
ảnh 
- Theo dõi thông số huyết đông, thông số 
máy thở của bệnh nhân 
- Truyền trực tiếp về trung tâm ICU liên tục 
24/24 
Báo cáo tóm tắt kết quả điều trị, những việc làm được, chưa làm 
được và hướng xử lý tiếp theo vào mỗi 9h30 sáng và 15h30 chiều 
hàng ngày từ T2 đến T7 
Chuyển bệnh nhân ra khỏi đơn vị Tele ICU khi tình trạng ổn đinh 
hoặc không còn chỉ đinh nằm tại đơn vị Tele ICU 
- Đánh giá kết quả hội chẩn. 
- Đánh giá khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực hiện. 
Sơ đồ 1. Quy trình thực hiện Tele - ICU
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
147TCNCYH 134 (10) - 2020
III. KẾT QUẢ 
Trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2020, chúng tôi đã thực hiện kỹ thuật cho 4 bệnh 
nhân nặng tại khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Thời gian bệnh nhân được 
hỗ trợ Tele - ICU từ 5 đến 14 ngày. 
Bảng 1. Kết quả hỗ trợ chẩn đoán, điều trị từ xa qua hệ thống Tele - ICU 
Ca lâm 
sàng 
số
Bệnh 
nhân
Chẩn đoán, 
điều trị 
trước hội 
chẩn
Chẩn đoán, 
điều trị 
sau hội chẩn
Kết quả 
bệnh nhân 
sau hội chẩn
Đánh giá 
kết quả 
hội chẩn
Ca số 1
Bệnh nhân 
nam 75 
tuổi vào 
viện vì co 
giật, sốt
Chảy máu 
sau nút mạch 
u gan - Hôn 
mê gan
Trạng thái 
động kinh - suy 
gan cấp/ Sau 
nút mạch u 
gan - Viêm gan 
B chưa loại trừ 
viêm não màng 
não - TD nhiễm 
khuẩn huyết
Huyết động 
ổn định đã 
cắt được vận 
mạch 
Đã kiểm soát 
được tình 
trạng nhiễm 
khuẩn 
Chức năng 
gan cải thiện
Vấn đề còn 
tồn tại: Bệnh 
nhân ý thức 
còn chậm, 
Glasgow 10 
điểm, liệt ½ 
người trái.
 - Chẩn đoán được 
bệnh nhân có trạng thái 
động kinh
 - Hướng dẫn quy trình 
chẩn đoán và xử trí 
trạng thái động kinh
 - Hưỡng dẫn thực hiện 
quy trình về chụp MRI 
não ở bệnh nhân đang 
thở máy
 - Hướng dẫn thực hiện 
thủ thuật chọc dịch não 
tủy
 - Đơn vị Tele - ICU 
chưa có đủ thuốc để 
điều trị trạng thái động 
kinh 
 - Hướng dẫn kinh 
nghiệm điều trị thuốc 
kháng virus ở bệnh 
nhân nặng
Ca số 2
Bệnh nhân 
nam 65 
tuổi chẩn 
vào viện vì 
sốt và sốc.
sốc nhiễm 
khuẩn - 
goutte mạn. 
Viêm mô tế 
bào cẳng chân 
trái sốc nhiễm 
khuẩn
 - Goutte mạn. 
Bệnh nhân hết 
sốc. Tình trạng 
viêm mô tế bào 
cải thiện. Tình 
trạng goutte 
cải thiện.
 - Cần sử dụng thang 
điểm qSOFA để đánh 
giá chẩn đoán nhanh 
cho bệnh nhân nghi 
ngờ sốc nhiễm khuẩn. 
 - Hướng dẫn áp dụng 
nhanh gói 1 giờ trong 
điều trị sốc nhiễm 
khuẩn
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
148 TCNCYH 134 (10) - 2020
Ca lâm 
sàng 
số
Bệnh 
nhân
Chẩn đoán, 
điều trị 
trước hội 
chẩn
Chẩn đoán, 
điều trị 
sau hội chẩn
Kết quả 
bệnh nhân 
sau hội chẩn
Đánh giá 
kết quả 
hội chẩn
 - Chúng tôi chia sẻ 
phác đồ mới và hướng 
dẫn dùng kháng sinh 
trong nhiễm khuẩn do 
tụ cầu vàng 
Ca số 3
Bệnh nhân 
nam vào 
viện vì hôn 
mê 
Tăng Natri 
máu, sau mổ 
chấn thương 
sọ não
Tăng Natri 
máu, hạ kali 
máu/sau mổ 
chấn thương 
sọ não theo dõi 
phù não
Natri máu về 
bình thường.
Trình bày phác đồ điều 
trị tăng Na máu 
Phác đồ điều trị phù 
não
Phác đồ điều trị hạ Kali 
máu
Ca số 4
Bệnh nhân 
nữ vào 
viện vì hôn 
mê
Hôn mê chưa 
rõ nguyên 
nhân trên 
bệnh nhân 
sau mổ viêm 
ruột thừa
Hôn mê sau 
ngừng tuần 
hoàn trên bệnh 
nhân sau mổ 
viêm ruột thừa
Tình trạng 
bệnh nhân 
chưa cải thiện 
sau hội chẩn
Cần chụp cộng hưởng 
từ sọ não để tìm 
nguyên nhân hôn mê
Nếu cộng hưởng từ 
bình thường cần chọc 
dịch não tủy
V. BÀN LUẬN
Tele - ICU mang đến những cơ hội tuyệt 
vời cho những nước đang phát triển, nơi mà 
sự tiếp cận với chăm sóc sức khỏe đang ngày 
càng được quan tâm hơn.6 - 8 Y tế từ xa làm tăng 
khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế của người 
dân, giúp người dân đến được với các dịch vụ 
y tế tiềm năng, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức 
khỏe.4 Bốn ca lâm sàng mà chúng tôi trình bày 
ở trên có điểm chung đều là những bệnh nhân 
phức tạp, khó khăn trong việc chẩn đoán và 
điều trị. Tuy nhiên, thông qua hội chẩn dựa trên 
Tele - ICU, bệnh nhân được tìm ra chẩn đoán 
mới, tư vấn điều trị và theo dõi sát sao bởi các 
bác sỹ có kinh nghiệm lâm sàng mà không cần 
phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên. Kết quả 
điều trị cuối cùng trên 4 bệnh nhân đều có diễn 
biến tốt lên. Đặc biệt với ca lâm sàng số 1 và số 
2, bệnh nhân có tình trạng sốc nên việc chuyển 
tuyến bệnh nhân là điều khó khả thi. 
Đối với ca lâm sàng thứ nhất, bệnh nhân 
nam 75 tuổi xuất hiện co giật sau nút mạch 
u gan. Bác sỹ ở tuyến dưới không tìm được 
nguyên nhân co giật và không thể kiểm soát 
được cơn giật. Tuy nhiên thông qua hội chẩn và 
chúng tôi thăm khám bệnh nhân qua hình ảnh 
trực tuyến, các bác sỹ ở trung tâm điều hành 
Tele - ICU đã nghĩ tới bệnh nhân có trạng thái 
động kinh và tình trạng co giật của bệnh nhân 
được xử trí song song trong quá trình hội chẩn, 
kết quả bệnh nhân đã cắt được cơn co giật. 
Trong những ngày đầu tiên, tình trạng cơn co 
giật của bệnh nhân vẫn còn tiếp diễn, nhờ có 
theo dõi liên tục bác sỹ ở trung tâm điều hành 
Tele - ICU có thể theo dõi, phát hiện cơn co giật 
và xử trí kịp thời cho bệnh nhân.
Ở trường hợp lâm sàng thứ hai nhờ kinh 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
149TCNCYH 134 (10) - 2020
nghiệm chẩn đoán và điều trị viêm mô tế bào tại 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội chúng tôi đã nhanh 
chóng chia sẻ phác đồ với các đồng nghiệp tại 
bệnh viện tỉnh Thanh Hóa qua hệ thống tele 
ICU kết quả bệnh nhân đã được chẩn đoán và 
điều trị kịp thời tình trạng viêm mô tế bào do đó 
tình trạng bệnh đã cải thiện và bệnh đã được 
kiểm soát tránh các biến chứng nặng nề của 
viêm mô tế bào như suy đa tạng, ARDS.
Cũng qua 4 ca lâm sàng trên chúng tôi có 
thể đánh giá được hiệu quả ban đầu của việc 
thực hiện Tele - ICU như sau:
Đối với người bệnh, Tele - ICU giúp người 
bệnh tiếp cận với các chuyên gia y tế tuyến trên 
đánh giá tư vấn sức khỏe mà không cần phải 
chuyển tuyến nên tiết kiệm được cả thời gian 
và chi phí điều trị.9 Trong nghiên cứu của chúng 
tôi tất cả các bệnh nhân đều được thăm khám 
và tư vấn bởi các bác sĩ nhiều kinh nghiệm 
trong lĩnh vực hồi sức cấp cứu. Đồng thời 
không có bệnh nhân nào phải chuyển tuyến 
nên tiết kiệm chi phí điều trị. Trong trường hợp 
khó cần bác sỹ tuyến trên về phẫu thuật hoặc 
can thiệp tại chỗ thì thông tin của người bệnh 
cũng đã có sẵn và đã được hội chẩn nên không 
phải làm lại. Nếu phải gửi người bệnh lên bệnh 
viện tuyến trên để xử trí tiếp thì các kết quả 
xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức 
năng đã được làm tại tuyến dưới có thể được 
sử dụng tại tuyến trên mà không phải làm lại, 
tránh mất thời gian và tiền của cho người bệnh. 
Người bệnh được nhận tư vấn, hội chẩn tại chỗ 
thông qua Tele - ICU mà không phải lên tuyến 
trên thì số lượng người nhà đi theo thăm nom, 
phục vụ sẽ giảm, điều này giúp giảm chi phí và 
thời gian của gia đình bệnh nhân. 
Đối với bệnh viện tuyến cơ sở, nơi tiếp nhận 
hội chẩn thông qua Tele - ICU. Các bác sỹ tại 
bệnh viện tuyến dưới có cơ hội được học tập, 
nâng cao năng lực trực tiếp qua mỗi lần nhận 
tư vấn từ các bác sỹ tuyến trên. Thông qua các 
kết nối với tuyến trên này các bác sỹ tuyến dưới 
có thể tự tin hơn và từng bước có thể trở thành 
chuyên gia tư vấn tuyến trên cho các cơ sở y 
tế tại địa phương và trong khu vực.10 Với bệnh 
viện tuyến dưới, việc trở thành bệnh viện vệ 
tinh trong hệ thống y tế từ xa với cơ sở y tế 
tuyến trên sẽ nâng cao được vị thế của bệnh 
viện tuyến dưới, thu hút được người bệnh do 
họ có cơ hội được tư vấn, khám bệnh và tham 
gia dịch vụ được cung cấp bởi chuyên gia y 
tế tuyến trên mà không cần phải chuyển bệnh 
nhân. Số người bệnh đến bệnh viện vệ tinh 
tuyến dưới tăng cũng sẽ làm tăng nguồn thu 
từ các dịch vụ y tế và ngoài y tế cho đơn vị, tạo 
cho BV tuyến dưới một vị thế để có thể dễ dàng 
trở thành bệnh viện tuyến trên trong khu vực, 
do đã có kết nối trong hệ thống y tế từ xa với y 
tế tuyến cao hơn.
Đối với bệnh viện tuyến trên, các chuyên gia 
y tế bệnh viện tuyến trên có cơ hội hỗ trợ cho 
người bệnh tại y tế tuyến dưới thông qua các 
công cụ và thiết bị CNTT, thiết bị chẩn đoán 
mà không bắt buộc phải xuống bệnh viện tuyến 
dưới. Bệnh viện tuyến trên dễ dàng triển khai 
nhiệm vụ hỗ trợ y tế tuyến dưới mà không cần 
phải cử người xuống tuyến dưới thường xuyên. 
Bệnh viện tuyến trên cũng tránh được sự quá 
tải không cần thiết khi bệnh nhân chuyển tuyến 
không đúng chỉ định. Hệ thống chăm sóc sức 
khỏe, hình thành một mô hình y tế mới hỗ trợ 
giữa các tuyến thông qua các ứng dụng của 
CNTT, có thể khuyến khích các bác sỹ về công 
tác tại tuyến dưới khi các bệnh viện này có kết 
nối Tele - ICU với tuyến trên, do các bác sỹ này 
vẫn có cơ hội học hỏi, nâng cao chuyên môn 
từ các chuyên gia y tế tuyến trên thông qua hệ 
thống Tele - ICU. 
Đối với hệ thống Bảo hiểm y tế, hạn chế 
được sự vượt tuyến của người bệnh có thẻ Bảo 
hiểm y tế (BHYT) khi người bệnh tham gia vào 
hệ thống telemedicine này, khuyến khích người 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
150 TCNCYH 134 (10) - 2020
dân mua BHYT khi họ thấy được tính ưu việt 
của hệ thống Tele - ICU là giúp họ được thụ 
hưởng dịch vụ khám chữa bệnh bằng BHYT 
một cách đầy đủ hơn.
Bên cạnh đó, bước đầu thực hiện mô hình 
Tele - ICU, chúng tôi cũng gặp phải những khó 
khăn nhất định như các bác sỹ mặc dù rất nhiều 
áp lực công việc nhưng đã phải cố gắng học 
cách sử dụng thiết bị công nghệ cao, đường 
truyền internet cần được cải thiện hơn để nâng 
cao chất lượng tín hiệu và tránh trục trặc trong 
quá trình kết nối. Bác sỹ hội chẩn chỉ khám 
bệnh nhân qua hình ảnh và chỉ nghe thông tin 
mô tả, thăm khám từ các bác sỹ tuyến dưới nên 
khó đánh giá một cách toàn diện và chi tiết tình 
trạng thực tại của bệnh nhân. Tại các tuyến y 
tế cơ sở còn gặp nhiều khó khăn cả về nhân 
lực, trang thiết bị phục vụ cho công tác chẩn 
đoán cũng như điều trị người bệnh vì vậy để 
vượt qua các khó khăn trên yêu cầu các bác 
sỹ ở tuyến dưới phải liên tục học hỏi để nâng 
cao trình độ tay nghề và chất lượng điều trị cho 
bệnh nhân.
V. KẾT LUẬN
Thông qua một số ca lâm sàng đã được hội 
chẩn từ xa dựa trên nền tảng Tele - ICU giữa các 
thầy thuốc chuyên ngành hồi sức cấp cứu ở hai 
bệnh viện, chúng tôi nhận thấy Tele - ICU bước 
đầu mang lại những hiệu quả tốt trong việc hỗ 
trợ chẩn đoán và xử trí kịp thời tại chỗ bệnh 
nhân nặng, mà không cần chuyển bệnh nhân 
lên tuyến trên. Hiệu quả của mô hình cần được 
đánh giá tiếp tục trong thời gian tới ở nhiều cơ 
sở y tế tương tự, với số lượng bệnh nhân nhiều 
hơn để mô hình Tele - ICU có thể được nhân 
rộng ra trong hệ thống y tế của nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Celi LA, Hassan E, Marquardt C et al. 
The eICU: It’s not just telemedicine. Crit Care 
Med 2001; 29 (8): N183 - N189
2. Goran S. A second set of eyes: an 
introduction to Tele - ICU. Crit Care Nurse; 
2010; 30 (4): 46 - 5.
3. Ries M Tele - ICU A new paradigm in 
critical care. Int Anesthesiol Clin; 2009; 47 (1): 
153 - 70.
4. Morrison JL, Cai Q, Davis N, et 
al. Clinical and economic outcomes of the 
electronic intensive care unit: Results from two 
community hospitals. Crit Care Med; 2010; 38 
(1):2 
5. Halpern NA, Pastores SM, Greenstein 
RJ. Critical care medicine in the United States 
1985 - 2000: An analysis of bed numbers, use, 
and costs. Crit Care Med; 2004; 32 (6): 1254 - 
9.
6. Grundy BL, Jones PK, Lovitt A (1982). 
Telemedicine in critical care: problems in 
design, implementation and assessment. Crit 
Care Med; 1882; 10 (7): 471 - 5. 
7. Goran SF, Van der Kloot T. Savings 
in RN staffing costs pre and post eICU 
implementation. In: eICU Program Success 
Stories. Baltimore. MD: Philips - VISICU. 200
8. Kohl B. Effect of Telemedicine on 
Mortality and Length of Stay in a University 
ICU. Crit Care Med 2007; 35 (12): A22. 
9. Thomas EJ, Lucke JF. Association of 
telemedicine for remote monitoring of intensive 
care patients with mortality, complicatons and 
length of stay. JAMA; 2009; 302 (24): 2671 - 8. 
10. Tele - ICUs: Remote Management in 
Intensive Care Units, 3/2007. https://www.nehi.
net/writable/publication_files/file/tele_icu_final.pdf
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
151TCNCYH 134 (10) - 2020
Summary
EVALUATION OF THE TELE - ICU MODEL IN SUPPORT OF 
REMOTE DIAGNOSIS AND TREATMENT OF CRITICAL ILL 
PATIENTS BETWEEN THANH HOA GENERAL PROVICIAL 
HOSPITAL AND HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL 
This study is conducted to evaluate the performance of the Tele - ICU model in remote assistance 
to diagnose and treat patients in critical condition between Thanh Hoa Provincial General Hospital 
and Hanoi Medical University Hospital. The study analyzed 4 clinical cases that had been recently 
consulted for a period of 1 month. These patients were in severe and complicate condition to be 
managed. The initial expectation of the patient's family was to transfer the patient to central hospitals. 
However, frequent remote consultations among intensivists through the Tele - ICU system have 
facilitated the diagnosis, prompt treatment and close monitoring by experienced doctors from both 
hospitals. This contributed to improve the outcome in 4 patients without requiring referrals. This study 
showed that remote assistance through Tele - ICU system among intensivists from two hospitals 
initially brought good results in supporting the diagnosis and management of critical ill patients.
Keywords: Emergency, Intensive care Unit, Tele - ICU, Hanoi Medical University Hospital, 
Thanh Hoa General Hospital

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_danh_gia_ket_qua_ap_dung_mo_hinh_tele_icu_trong_ho.pdf