Bồi thường thiệt hại trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Là quyền năng thứ 6 trong 8 quyền năng của người tiêu dùng được ghi nhận theo diễn

giải của Consumers International về Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng

ban hành năm 1985, sửa đổi năm 1999, quyền khiếu nại và yêu cầu bồi thường là thứ quyền

năng đặc biệt và sau cùng để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Được phát triển từ

chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – một trong những chế định pháp lý khởi nguồn và

nền tảng của pháp luật dân sự, yêu cầu bồi thường thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gây ra cho

người tiêu dùng được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia với nhiều điểm khác biệt,

thay đổi cho phù hợp với đặc thù của ngành luật mới mẻ này. Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành

đã đề cập và bước đầu điều chỉnh nội dung này, tuy nhiên trong quá trình áp dụng vào thực tiễn

còn nhiều điều đáng bàn.

pdf 6 trang phuongnguyen 8940
Bạn đang xem tài liệu "Bồi thường thiệt hại trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bồi thường thiệt hại trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bồi thường thiệt hại trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 44-49 
 44 
TRAO ĐỔI 
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật 
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 
Nguyễn Trọng Điệp* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 16 tháng 4 năm 2013 
Chỉnh sửa ngày 10 tháng 5 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 18 tháng 6 năm 2013 
Tóm tắt: Là quyền năng thứ 6 trong 8 quyền năng của người tiêu dùng được ghi nhận theo diễn 
giải của Consumers International về Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng 
ban hành năm 1985, sửa đổi năm 1999, quyền khiếu nại và yêu cầu bồi thường là thứ quyền 
năng đặc biệt và sau cùng để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Được phát triển từ 
chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – một trong những chế định pháp lý khởi nguồn và 
nền tảng của pháp luật dân sự, yêu cầu bồi thường thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gây ra cho 
người tiêu dùng được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia với nhiều điểm khác biệt, 
thay đổi cho phù hợp với đặc thù của ngành luật mới mẻ này. Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành 
đã đề cập và bước đầu điều chỉnh nội dung này, tuy nhiên trong quá trình áp dụng vào thực tiễn 
còn nhiều điều đáng bàn. 
Năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người 
tiêu dùng được thông qua, thay thế Pháp lệnh 
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 
được coi là những bước tiến mạnh mẽ nhằm 
tiến gần hơn thông lệ*quốc tế trong giải quyết 
tranh chấp tiêu dùng. Bản thân quá trình xây 
dựng Luật BVQLNTD cũng được nhiều học giả 
có tiếng đưa ra mổ xẻ, phân tích trên cơ sở xem 
xét liệu quá trình tiếp thu các kinh nghiệm từ 
nước ngoài liệu có phát huy được vào thực tiễn 
của Việt Nam, trong đó, một trong những nội 
dung trọng tâm được đề cập là trách nhiệm bồi 
thường của thương nhân khi để xảy ra thiệt hại. 
_______ 
*
 ĐT: 84-4-37547772 
 E-mail: dieptrongnguyen@yahoo.com 
Sau gần ba năm thi hành Luật, tới nay, 
Chính phủ đã ban hành được ba văn bản hướng 
dẫn gồm Nghị định số 99/2011/NĐ-CP [1], 
Nghị định số 19/2012/NĐ-CP [2] và Quyết định 
số 02/2012/QĐ-TTg [3]. Tuy nhiên, do tính 
chất bao trùm trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực 
chuyên ngành, nhiều nội dung liên quan tới giải 
quyết tranh chấp tiêu dùng vẫn còn bỏ ngỏ, 
chưa có quy định, gây ra một lỗ hổng lớn trong 
thực tiễn áp dụng. Với con số hơn 2.500 vụ việc 
khiếu nại được giải quyết trong năm 2011, nếu 
so sánh với con số 10.288 vụ khiếu nại của 
Malaysia [4] thì có thể thấy số lượng vụ việc vi 
phạm người tiêu dùng khiếu nại công khai còn 
quá ít và cho thấy tâm lý hoài nghi của người 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 44-49 
45 
tiêu dùng vào hiệu quả áp dụng luật. Tình trạng 
người tiêu dùng bị thiệt hại do hàng hóa kém 
chất lượng, hàng giả, hàng nhái phải “ngậm bồ 
hòn làm ngọt” chấp nhận số tiền bồi thường 
mang tính “tượng trưng”, hay thậm chí không 
đòi được tiền bồi thường do các nhà cung cấp 
thoái thác trách nhiệm ngày càng trở nên phổ 
biến. Câu hỏi đặt ra là hiệu quả áp dụng pháp 
luật ở đâu trong khi luật có quy định nhưng 
người dân không thể viện dẫn luật để tự bảo vệ? 
Đặc thù của pháp luật về bảo vệ quyền lợi 
người tiêu dùng 
Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng mang 
những đặc thù xuất phát từ tính chất xã hội của 
quan hệ tiêu dùng mà người tiêu dùng khi chấp 
nhận tham gia và chịu ràng buộc bởi quan hệ 
này khó có thể có cơ hội đạt được sự tự do, bình 
đẳng trong quan hệ với bên cung ứng hàng hóa, 
dịch vụ do đặc tính “thông tin bất cân xứng” 
[5]. Lý thuyết thông tin bất cân xứng 
(Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất 
hiện vào những năm 1970 và có vai trò quan 
trọng trong kinh tế học hiện đại thông qua sự 
kiện các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này 
là George Akerlof, Michael Spence và Joseph 
Stiglitz vinh dự nhận giải Nobel kinh tế năm 
2011. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một 
bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác 
hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính 
xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin hơn 
có những quyết định không chính xác khi thực 
hiện giao dịch đồng thời bên có nhiều thông tin 
hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho 
bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch. Thực 
tế cho thấy, trong các quan hệ mua bán, trao đổi 
hàng hóa, dịch vụ với thương nhân, người tiêu 
dùng luôn ở thế thụ động, hạn chế về thông tin 
và năng lực kiểm chứng chất lượng, giá trị thật 
của hàng hóa và dịch vụ được cung cấp trong 
khi bên bán/bên cung ứng dịch vụ luôn ở thế 
chủ động về nguồn hàng, kiểm soát được chất 
lượng, thông tin sản phẩm trước khi tới tay 
người tiêu dùng. Với tính chất ban đầu của quan 
hệ dân sự là bình đẳng, tự do thỏa thuận, chính 
sự bất đối xứng về vị thế giữa các chủ thể trong 
quan hệ tiêu dùng là điều kiện và tiền đề để 
pháp luật điều chỉnh quan hệ tiêu dùng có 
những quy định để duy trì sự cân bằng lợi ích. 
Điều này được thể hiện ở nhiều quy định với 
mục đích đảm bảo tốt hơn quyền của người tiêu 
dùng như: quyền được lựa chọn phương thức 
giải quyết tranh chấp, quyền được hoàn trả hàng 
hóa và yêu cầu bồi thườngĐồng thời, pháp 
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có xu 
hướng quy định can thiệp vào quyền tự do của 
bên cung cấp hàng hóa, dịch vụ để đảm bảo 
quyền lợi của người tiêu dùng, hay nói như 
khẳng định của PGS.TS Nguyễn Như Phát 
“không có sự tự do và bình đẳng trong quan hệ 
pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng”[6]. 
Bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự 
và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng 
Bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng 
hóa, sản phẩm gây thiệt hại cho người tiêu dùng 
được xác định là trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại ngoài hợp đồng, được quy định tại Điều 630 
Chương XXI Bộ luật Dân sự năm 2005. Bồi 
thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định 
pháp lý hình thành từ thời La Mã bao gồm hai 
loại nghĩa vụ là “nghĩa vụ phát sinh từ các vi 
phạm (ex delictio)” và “nghĩa vụ như từ các vi 
phạm (ex quasi delictio)”. Chế định này phản 
ánh trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ 
thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng 
hoặc có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây ra 
thiệt hại không thuộc nghĩa vụ thi hành hợp 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2(2013) 44-49 
46 
đồng đã kí kết. Trách nhiệm này áp dụng đối 
với người có hành vi vi phạm, xâm hại tới các 
lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần của chủ thể 
khác, buộc người này phải gánh chịu một hậu 
quả bất lợi do hành vi trái pháp luật của mình 
gây ra. Đối với quan hệ tiêu dùng, chủ thể gây 
thiệt hại là bên cung ứng hàng hóa, dịch vụ (bao 
gồm: nhà sản xuất; nhà nhập khẩu; nhà phân 
phối) và bên bị thiệt hại là người tiêu dùng thụ 
hưởng hàng hóa, dịch vụ. Theo Điều 604 Bộ 
luật Dân sự, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại áp 
dụng cả với lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cụ thể, nghĩa 
vụ bồi thường phát sinh do lỗi cố ý khi một 
người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây 
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và 
mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng 
để mặc cho thiệt hại xảy ra. Ví dụ: Người bán 
hàng biết hàng hóa đã hết hạn sử dụng nhưng 
vẫn bán cho người tiêu dùng. Trường hợp gây 
thiệt hại do lỗi vô ý là khi một người không 
thấy trước hành vi của mình có khả năng gây 
thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước 
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, 
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc 
có thể ngăn chặn được. Ví dụ: Người bán hàng 
không bảo quản lạnh đúng tiêu chuẩn với thực 
phẩm tươi sống dẫn tới ngộ độc thực phẩm. 
Do chuỗi cung ứng hàng hóa gồm nhiều chủ 
thể, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt 
hại do hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu 
dùng không hề dễ dàng. Có thể hình dung chu 
trình tiêu dùng được phân làm 3 công đoạn: 
(1) Trước khi giao dịch 
(2) Trong giao dịch 
(3) Trong quá trình sử dụng hàng hóa, dịch 
vụ 
Vai trò của thương nhân trong từng công 
đoạn của chu trình tiêu dùng là khác nhau và 
hoàn toàn có thể là đối tượng có nghĩa vụ bồi 
thường thiệt hại khi có tranh chấp phát sinh. 
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã liệt 
kê các đối tượng trong chuỗi gồm: đơn vị sản 
xuất, đơn vị nhập khẩu, đơn vị gắn tên thương 
mại và sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương mại 
và đơn vị trực tiếp cung ứng hàng hóa đến tay 
người tiêu dùng. Các chủ thể này liên đới chịu 
trách nhiệm đối với thiệt hại do hàng hóa 
khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng, và chỉ 
được loại trừ trách nhiệm dân sự trong một số 
trường hợp nhất định. Thực tế, đối với mỗi giao 
dịch giữa một thương nhân với một người tiêu 
dùng cụ thể, ba công đoạn trên khá tách biệt và 
rành mạch. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thị 
trường, trong tương tác giữa các thương nhân 
với hàng ngàn người tiêu dùng, ba công đoạn kể 
trên sẽ luôn đan xen, hòa quyện với nhau và 
nhiều trường hợp là không thể tách rời ra được. 
Có những hành vi gây thiệt hại cho người tiêu 
dùng của thương nhân không chỉ tác động trong 
công đoạn “trước giao dịch” mà còn tác động 
tới cả những công đoạn còn lại. Thêm vào đó, 
với những hành vi xâm hại tới cả ba công đoạn 
của thương nhân mà chỉ xếp vào một công đoạn 
để xử lý, thì rất dễ gây hiểu lầm rằng hành vi 
này chỉ bị cấm trong từng công đoạn cụ thể, còn 
ở những công đoạn khác, hành vi đó sẽ không 
bị cấm. 
Mặt khác, vấn đề trách nhiệm bồi thường 
của thương nhân còn liên quan tới chế định 
pháp lý về trách nhiệm sản phẩm (product 
liability). Chế định này có ý nghĩa đặc biệt quan 
trọng, theo đó, nhà sản xuất có trách nhiệm bồi 
thường thiệt hại cho người tiêu dùng do sản 
phẩm khuyết tật gây ra, mặc dù, người tiêu 
dùng có thể không trực tiếp tiếp nhận hàng hóa 
từ nhà sản xuất. Lịch sử của việc hình thành chế 
độ trách nhiệm sản phẩm cho thấy, có thời kỳ 
người ta áp dụng chế định bảo hành mà theo đó, 
bằng nhiều thủ tục pháp lý liên tiếp, vẫn có thể 
các chủ thể pháp luật tham gia chuỗi quan hệ 
phân phối phải chịu trách nhiệm qua mỗi công 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 44-49 
47 
đoạn của chuỗi quan hệ pháp lý. Tuy nhiên, 
việc áp dụng cơ chế này (theo nguyên lý chung 
của pháp luật dân sự) có thể sẽ dẫn đến liên tiếp 
nhiều vụ việc nhằm truy xét người phải chịu 
trách nhiệm cuối cùng về khuyết tật của sản 
phẩm - người có lỗi trên thực tế, dẫn đến phiền 
hà cho các bên liên quan và tốn kém chi phí cho 
xã hội. Vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới hiện 
nay đã thực hiện chế độ trách nhiệm nghiêm 
ngặt (strict liability), theo đó lựa chọn một số 
chủ thể quan trọng nhất trong chuỗi quan hệ để 
ràng buộc trách nhiệm sản phẩm, đó là: 
(i) Người sản xuất sản phẩm; 
(ii) Người nhập khẩu; 
(iii) Người trực tiếp bán sản phẩm cho 
người tiêu dùng. 
Hiện nay, ngoài Luật Bảo vệ quyền lợi người 
tiêu dùng và Luật Chất lượng hàng hóa có điều 
khoản riêng đề cập tới trách nhiệm bồi thường đối 
với hàng hóa khuyết tật, tuy nhiên việc áp dụng 
quy định nào để thực hiện trách nhiệm bồi thường 
hiện vẫn còn chưa rõ ràng. Theo hướng dẫn về 
xác định thiệt hại để yêu cầu bồi thường tại Nghị 
quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 thì 
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 
nói chung và trách nhiệm bồi thường hàng hóa 
khuyết tật nói riêng phát sinh khi có đầy đủ các 
yếu tố sau: (i) Phải có thiệt hại xảy ra; (ii) Phải có 
hành vi trái pháp luật; (iii) Phải có mối quan hệ 
nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp 
luật; và (iv) Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của 
người gây thiệt hại. Quy định này xuất phát từ 
nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được đề 
cập tại Điều 10 Bộ luật Dân sự là “không được 
xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công 
cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. 
Tại Mục 2 Chương XXI Bộ luật Dân sự, trong 
quan hệ tiêu dùng, thiệt hại do hàng hóa khuyết tật 
gây ra cho người tiêu dùng đã loại trừ thiệt hại về 
tinh thần, danh dự, nhân phẩm mà chỉ bao gồm 
thiệt hại vật chất cụ thể: thiệt hại về tài sản; thiệt 
hại về sức khỏe và thiệt hại về tính mạng. 
Quy định không phải không có 
Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho 
người tiêu dùng được quy định tại trước tiên tại 
Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2005, theo đó, 
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thuộc về “cá 
nhân, pháp nhân, chủ thể sản xuất, kinh doanh 
gây thiệt hại”. Khi Luật Bảo vệ quyền lợi người 
tiêu dùng ban hành năm 2010, khoản 2 Điều 23 
của Luật đã làm rõ đối tượng “tổ chức, cá nhân 
kinh doanh hàng hóa” có trách nhiệm bồi 
thường thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gồm 
bốn nhóm chủ thể tham gia vào chu trình cung 
ứng hàng hóa tới tay người tiêu dùng gồm: (i) 
nhà sản xuất hàng hóa; (ii) nhà nhập khẩu 
hàng hóa; (iii) gắn tên thương mại lên hàng 
hóa hoặc sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn thương 
mại; (iv) trực tiếp cung cấp hàng hóa. Trước 
đó, Điều 60 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng 
hóa cũng đưa ra quy định: thiệt hại do hàng hóa 
không bảo đảm gây ra cho người tiêu dùng bao 
gồm thiệt hại về giá trị hàng hóa, tài sản bị hư 
hỏng hoặc không đảm bảo chất lượng; thiệt hại 
về tính mạng, sức khỏe con người; thiệt hại về 
lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác hàng 
hóa, tài sản và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn 
chế và khắc phục thiệt hại. Việc ghi nhận các 
chủ thể trên có thể coi là một hướng dẫn quan 
trọng, mở rộng đáng kể phạm vi một bên chủ 
thể cung ứng hàng hóa có nghĩa vụ bồi thường 
thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gây ra. Các 
nhóm chủ thể này cũng phù hợp với Hướng dẫn 
của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu dùng 
ban hành năm 1985, hiệu chỉnh vào năm 1999 
chỉ ghi nhận chủ thể này là “tổ chức kinh 
doanh”, “những người có trách nhiệm đưa sản 
phẩm ra thị trường đặc biệt là những người 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2(2013) 44-49 
48 
cung cấp, xuất nhập khẩu, những người buôn 
bán lẻ và tương tự”[7], “nhà sản xuất” và “nhà 
bán lẻ” hay như pháp luật các nước như Ấn Độ, 
Malaysia, Đài Loan về bảo vệ quyền lợi người 
tiêu dùng. Như vậy, có thể coi việc xác định 
phạm vi chủ thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt 
hại do hàng hóa khuyết tật gây ra đã có cơ sở 
pháp lý. 
Lại để ngỏ những ngoại lệ 
Dù vậy, với mục đích hạn chế sự lạm quyền 
của người tiêu dùng gây ảnh hưởng xấu tới hoạt 
động kinh doanh bình thường của các chủ thể 
cung cấp hàng hóa, pháp luật trong lĩnh vực này 
đã bổ sung những “ngoại lệ còn để ngỏ”. Điều 
24 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có 
ghi nhận quyền miễn trừ nghĩa vụ bồi thường 
thiệt hại trong trường hợp khuyết tật của hàng 
hóa không thể phát hiện với trình độ khoa học - 
kỹ thuật tại thời điểm cung cấp hàng hóa tương 
tự như Điểm đ Khoản 1 và Điểm đ Khoản 2 
Điều 62 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 
năm 2007. Như vậy, trong tình huống này, 
người tiêu dùng rơi vào tình thế bất lợi nếu như 
khi mua hàng hóa mà không biết rằng sản phẩm 
thụ hưởng đó có thể hay không thể phát hiện 
khuyết tật. Nghị định số 99/2011/NĐ-CP hướng 
dẫn Luật cũng hoàn toàn không đề cập tới một 
trình tự hoặc phương thức rõ ràng để làm rõ thế 
nào nội hàm cụm từ “không thể phát hiện với 
trình độ khoa học - kỹ thuật tại thời điểm cung 
cấp hàng hóa”. Bằng việc đặt ra các quy định 
“lửng lơ” như vậy, một lần nữa pháp luật lại đặt 
người tiêu dùng vào vị thế bị động, rủi ro khi 
tiếp nhận hàng hóa do bản thân bị hạn chế 
không đủ năng lực để tự kiểm chứng. 
Điều này thực tế đã diễn ra khi các vụ việc 
cháy xe máy “bỗng dưng” bốc cháy, không rõ 
nguyên nhân xảy ra liên tiếp trong thời gian 
qua. Mặc dù các Bộ ngành đã tham gia điều tra, 
nghiên cứu nhưng nguyên nhân vẫn chưa được 
làm rõ là do lỗi kỹ thuật của xe (thuộc trách 
nhiệm của nhà sản xuất) hay do xăng dầu 
(thuộc trách nhiệm của đơn vị cung ứng xăng 
dầu). Người tiêu dùng là nạn nhân của vụ việc 
hoàn toàn rơi vào tình trạng đành chấp nhận 
“vận rủi” mà không thể đòi bồi thường do 
không xác định được chủ thể. 
Một ngoại lệ nữa đối với nghĩa vụ bồi 
thường thiệt hại của bên cung cấp hàng hóa 
chính là loại trừ nghĩa vụ do lỗi của người tiêu 
dùng hoặc khuyết tật do tuân thủ yêu cầu bắt 
buộc của cơ quan nhà nước theo Điều 62 Luật 
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007. Luật 
đề cập tới ba nhóm đối tượng được hưởng 
quyền loại trừ nghĩa vụ này bao gồm: nhà sản 
xuất, nhà nhập khẩu và nhà phân phối bán lẻ. 
Theo đó, các đối tượng này được miễn trừ 
nghĩa vụ bồi thường nếu người tiêu dùng cố 
tình sử dụng sản phẩm đã hết hạn sử dụng, tiếp 
tục sử dụng sản phẩm dù đã biết về thông báo 
thu hồi/thông báo sản phẩm khuyết tất và thiệt 
hại gây ra do lỗi của người tiêu dùng hoặc do 
phải thực hiện theo các yêu cầu bắt buộc của cơ 
quan có thẩm quyền. Về mặt thực tiễn, không 
phải nhà sản xuất hay nhập khẩu nào cũng tuân 
thủ nghiêm túc trách nhiệm thu hồi hàng hóa 
khuyết tật theo Điều 22 Luật bảo vệ quyền lợi 
người tiêu dùng và có chăng chỉ thu hồi khi 
phát sinh những vụ việc liên quan tới chất 
lượng hàng hóa. Những nhà phân phối bản thân 
cũng không mặn mà và không thấy có trách 
nhiệm trong việc thu hồi hàng hóa đã hết hạn sử 
dụng, trong khi các nhà quản lý, các hiệp hội 
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng lại chỉ giương 
cao khẩu hiệu “hãy là những người tiêu dùng 
thông thái” Thực tế trên một lần nữa lại đi 
ngược lại tôn chỉ và mục tiêu ban đầu khi xây 
dựng và ban hành luật. 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 44-49 
49 
Sau gần ba năm thi hành Luật bảo vệ quyền 
lợi người tiêu dùng, có lẽ điều người tiêu dùng 
và cả những chủ thể cung ứng hàng hóa đến tay 
người tiêu dùng quan tâm không phải là Luật đã 
bao quát, đã cập nhật với xu hướng pháp luật 
của thế giới hay chưa mà quan trọng hơn là cần 
gấp rút bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp 
luật hướng dẫn để Luật sớm được triển khai vào 
thực tiễn. Trong khi chờ đợi văn bản hướng 
dẫn, người tiêu dùng vẫn phải chấp nhận tình 
cảnh “thấp thỏm” khi vốn đang ở vị thế 
“thượng đế”. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi 
hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người 
tiêu dùng. 
[2] Nghị định số 19/2012/NĐ-CP ngày 16/03/2012 
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành 
chính trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu 
dùng. 
[3] Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục 
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng 
theo mẫu, điều kiện giao dịch chung. 
[4] 
=5667. 
[5] PGS.TS Nguyễn Như Phát phát biểu tại Hội thảo 
Pháp ngữ khu vực “Bảo vệ quyền lợi người tiêu 
dùng: Từ hai góc nhìn Á - Âu” diễn ra trong 2 
ngày 27 - 28/9/2010 do Nhà Pháp luật Việt – Pháp 
và Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) tổ 
chức với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao CH Pháp và 
Tổ chức quốc tế Pháp ngữ. 
[6] Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ 
quyền lợi người tiêu dùng, PGS.TS Nguyễn Như 
Phát, đăng tải trên website của Cục Quản lý cạnh 
tranh - Bộ Công thương tại địa chỉ: 
[7] 
4306&lang=vi-VN. 
[8] Đoạn 2 Mục A Hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc về 
Bảo vệ người tiêu dùng. 
Compensation of Law Potecting Consumer Rghts 
Nguyễn Trọng Điệp 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: As the sixth of the eight rights of consumers as per the restatement by Consumers 
International’s interpretation on the UN Guidelines for Consumer Protection enacted in 1985, 
expanded in 1999, the right to redress is the most important ultimate right that protects the legitimate 
interests of consumers. Developed from non-contractual damages – one of the first and principal 
statutes of civil law, the liability to pay damages for defected goods is differently recognized in the 
laws of countries subject to the features of this new law sector. This has also been mentioned and 
governed by the prevailing laws of Vietnam, but there are a lot of matters to be dealt with to be put 
into practice. 

File đính kèm:

  • pdfboi_thuong_thiet_hai_trong_phap_luat_ve_bao_ve_quyen_loi_ngu.pdf