Bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO và các yếu tố liên quan tại 2 bệnh viện khu vực thành phố Hồ Chí Minh: một nghiên cứu cắt ngang
Đặt vấn đề: Thiếu hụt axit folic trước giai đoạn bắt đầu tam cá nguyệt (TCN) II gây ảnh hưởng xấu lên sức
khỏe cho cả thai phụ và thai nhi. Mặc dù, việc bổ sung axit folic đã được nghiên cứu rộng rãi và cụ thể trên phạm
vi quốc tế, nhưng các nghiên cứu gần đây báo cáo tỷ lệ thai phụ có bổ sung axit folic theo các khuyến nghị trong
hiệu quả phòng ngừa dị tật ống thần kinh còn khá thấp và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai phụ có bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO và các yếu tố liên quan
tại Bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 400 thai phụ từ tuần
thai thứ 14 trở lên (TCN II, TCN III) trong khoảng thời gian từ tháng 03 – 06/2019. Bộ câu hỏi tự phát triển
được chỉnh sửa hoàn chỉnh thông qua phỏng vấn thử 20 thai phụ tại mỗi bệnh viện. Sau khi đồng ý tham gia
nghiên cứu, thai phụ được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi hoàn chỉnh để đưa vào phân tích. Các yếu tố
ảnh hưởng đến việc bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO được xác định bằng mô hình hồi quy Poisson
đa biến
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO và các yếu tố liên quan tại 2 bệnh viện khu vực thành phố Hồ Chí Minh: một nghiên cứu cắt ngang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 73 BỔ SUNG AXIT FOLIC THEO KHUYẾN NGHỊ CỦA FIGO VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI 2 BỆNH VIỆN KHU VỰC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: MỘT NGHIÊN CỨU CẮT NGANG Nguyễn Thị Thanh Tiên*, Nguyễn Duy Phong*, Trương Thị Thùy Dung* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Thiếu hụt axit folic trước giai đoạn bắt đầu tam cá nguyệt (TCN) II gây ảnh hưởng xấu lên sức khỏe cho cả thai phụ và thai nhi. Mặc dù, việc bổ sung axit folic đã được nghiên cứu rộng rãi và cụ thể trên phạm vi quốc tế, nhưng các nghiên cứu gần đây báo cáo tỷ lệ thai phụ có bổ sung axit folic theo các khuyến nghị trong hiệu quả phòng ngừa dị tật ống thần kinh còn khá thấp và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai phụ có bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 400 thai phụ từ tuần thai thứ 14 trở lên (TCN II, TCN III) trong khoảng thời gian từ tháng 03 – 06/2019. Bộ câu hỏi tự phát triển được chỉnh sửa hoàn chỉnh thông qua phỏng vấn thử 20 thai phụ tại mỗi bệnh viện. Sau khi đồng ý tham gia nghiên cứu, thai phụ được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi hoàn chỉnh để đưa vào phân tích. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO được xác định bằng mô hình hồi quy Poisson đa biến. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic gồm: 28,3% trước mang thai; 92,8% bổ sung trong TCN I, nhưng chỉ có 26,3% theo khuyến nghị của FIGO. Mô hình hồi quy poisson đa biến xác định các yếu tố liên quan đến tăng tỷ lệ bổ sung axit folic theo FIGO: từng nghe/đọc axit folic; dự định và khám tiền mang thai; trình độ học vấn thai phụ (≥THPT); Thu nhập gia đình (≥10 triệu); Nơi ở (Tỉnh thành). Kết luận: 26,3% thai phụ đáp ứng đúng nhu cầu về bổ sung axit folic cho thời kỳ mang thai. Các phát hiện nhấn mạnh sự cần thiết của việc truyền thông giáo dục sức khỏe, hệ thống chăm sóc tiền sản và nhân viên y tế cần khuyến nghị việc bổ sung axit folic phù hợp cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản hướng đến một nhu cầu dinh dưỡng phù hợp cho thai kỳ khỏe mạnh. Từ khóa: axit folic, dị tật ống thần kinh, thai kỳ, bổ sung ABSTRAST FOLIC ACID SUPPLEMENTATION ACORDING TO FIGO RECOMMENDED AND DETERMINANTS AMONG PREGNANT WOMEN IN TWO HO CHI MINH CITY HOSPITALS: A CROSS SECTIONAL STUDY Nguyen Thi Thanh Tien, Nguyen Duy Phong, Truong Thi Thuy Dung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No 1- 2020: 73 - 81 Background: Right before the second trimester, folic acid supplementation has a significant impact on the health of both pregnant women and their unborn babies. Although folic acid usage for prevention of NTDs were studied internationally; but, the proportion of folic acid supplementation among pregnant women acording to recommendations for effective prevention of NTDs is still low affected by related factors. Objectives: To investigate the status of folic acid (FA) supplementation acording to recommended by International Federation of Gynecology and Obsteries (FIGO) and determinants among pregnant women. *Khoa YTCC Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Thanh Tiên ĐT: 0379350214 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 74 Method: An institution based cross-sectional study was conducted on 400 pregnant women who visted Hung Vuong and Tu Du Hopitals. Women in second and third trimester of pregnancy were included in the study, from March to June, 2019. Right after pregnant women signed the consent form, questionaires were used to collect information of paticipants and FA supplementation. Indepent variables were analysed as predictors of intake using chi-square statistical test and mutinomail poisson regression. Results: Percentage of folic acid supplementation includes: 28.3% before pregnancy; 92.8% during the first trimester; but, only 26.3% of pregnant women took the supplement by FIGO recomemended at a protective period against neural tube defects. In mutinomail poisson regression: heard/read about FA, prenancy intention, preconception health visit, education status (≥Secondary School), family monthly income (≥10 milions), residence were significantly associated with folic acid usage acording to recommended by FIGO. Conclusion: There are 26.3% pregnant women meet the need for folic acid for pregnancy. The findings highlight the need for health education communication, antenatal care systems, and health workers to recommend women of reproductive age towards a proper nutritional needs for a healthy pregnancy. Key words: folic acid, neural tube defects, pregnancy, supplementation ĐẶT VẤN ĐỀ Thiếu hụt axit folic là một trong những thiếu hụt vitamin phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (PNTĐTSS) và mang thai(1). Nhiều bằng chứng về dịch tễ và lâm sàng cho thấy thiếu hụt axit folic trước giai đoạn bắt đầu tam cá nguyệt (TCN) II gây những ảnh hưởng xấu lên sức khỏe cho cả thai phụ và thai nhi: như khó khăn trong việc thụ thai(2); thiếu máu nguyên hồng cầu to(3,4,5); tăng nồng độ homocystein trong máu liên quan đến các kết quả thai kỳ kém ở cả thai phụ và thai nhi như tiền sản giật - sản giật, sinh non, nhẹ cân(6,7,8,9), dị tật bẩm sinh (DTBS) hay cụ thể dị tật ống thần kinh (DTOTK)(10,11,12). Bên cạnh đó, việc bắt đầu bổ sung axit folic từ sau TCN I chưa tìm thấy hiệu quả đối với thai kỳ và đồng thời có thể gây ra những tác hại đáng kể đến sức khỏe ở cả bà mẹ và trẻ: tăng nguy cơ tự kỷ(13) và dị ứng ở trẻ(14), tăng sinh khối u và suy giảm nhận thức ở bà mẹ(15). Theo khuyến cáo của Hiệp hội Sản phụ khoa quốc tế (FIGO), cho thấy sự cần thiết trong việc bổ sung axit folic trước khi mang thai ít nhất 1 tháng và duy trì liên tục hàng ngày cho đến cuối 3 tháng đầu thai kỳ(16). Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu chỉ ghi nhận được 2 nghiên cứu gần đây tại Ethiopiavà Trung Quốc về tỷ lệ thai phụ có bổ sung axit folic theo khuyến nghị trong phòng ngừa DTOTK(1,17). Đồng thời, thực trạng có bổ sung axit folic theo khuyến nghị trên với tỷ lệ còn khá thấp và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan (cá nhân, gia đình, môi trường). Tại Việt Nam, các thông tin về axit folic liên quan đến thai kỳ chưa được phổ biến rộng rãi và rõ ràng trong cộng đồng(18). Việc bổ sung axit folic phụ thuộc chủ yếu vào các nhân viên y tế được tập huấn về dinh dưỡng thai kỳ. Các nghiên cứu về axit folic chưa được quan tâm nhiều, chủ yếu được lồng ghép trong các chủ đề dinh dưỡng. Một số nghiên cứu độc lập về axit folic được tìm thấy, tuy nhiên việc bổ sung axit folic không tuân theo các khuyến nghị về thời gian cần bắt đầu và kết thúc trong hiệu quả với thai kỳ và thai nhi(18). Xuất phát từ những lý do trên, nhóm nghiên cứu quyết định thực hiện nghiên cứu tại Bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ. Đây là 2 bệnh viện đầu ngành về chăm sóc và quản lý thai kỳ ở khu vực phía Nam, tập trung đa dạng các đối tượng thai phụ đến khám thai mỗi năm. Nghiên cứu nhằm đưa ra những số liệu cụ thể về tỷ lệ thai phụ có bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO, cũng như đánh giá thực trạng hiện tại những yếu tố liên quan ảnh hưởng đến tỷ lệ này. Nghiên cứu là cơ sở để góp phần làm tốt hơn trong công tác tư vấn ở thai phụ, cũng như đề ra các chiến lược can thiệp phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng trong công tác quản lý thai kỳ, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 75 chăm sóc trước sinh tại bệnh viện và cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO và các yếu tố liên quan ở thai phụ đến khám thai tại 2 bệnh viện Từ Dũ và Hùng Vương. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Thai phụ đến khám thai tại 2 bệnh viện Hùng Vương (khám thường khu B và khám dịch vụ A) và Từ Dũ (khu chăm sóc trước sinh M) từ tháng 03/2019 – 06/2019. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cỡ mẫu Nghiên cứu sử dụng công thức ước lượng một tỷ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là 5% và tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic trong hiệu quả phòng ngừa DTOTK tại Thiên Tân – Trung Quốc là 14,1%. Với k=2, tính ra cỡ mẫu cần thiết là 400 thai phụ. Sử dụng kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên đơn trong việc lựa chọn phòng khám và chọn mẫu không xác suất (thuận tiện) khi lựa chọn thai phụ tham gia vào nghiên cứu (vì phụ thuộc vào tuổi thai). Cỡ mẫu được chia đều cho mỗi bệnh viện, khu khám và phòng khám. Mỗi bệnh viện có 200 thai phụ thỏa tiêu chí được đưa vào phân tích (từ 18 tuổi trở lên, mang thai từ tuần thứ 14 trở lên, có khả năng giao tiếp, đủ sức khỏe, hoàn thiện các câu hỏi về bổ sung axit folic). Phương pháp thu thập số liệu Tiến hành nghiên cứu thử trên 20 thai phụ đến khám tại mỗi bệnh viện (Hùng Vương, Từ Dũ) từ tháng 02 – 03/2019 để kiểm tra và điều chỉnh bộ câu hỏi cho phù hợp. Sau nghiên cứu thử, nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu thông qua phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi tự soạn sẵn có cấu trúc trong khoảng 20 phút. Mẫu được lấy cả buổi sáng và chiều (trừ thứ bảy, chủ nhật, các ngày lễ). Thai phụ được tiếp cận tham gia nghiên cứu trong các khâu của quy trình khám thai: chờ tới lượt khám sau khi đăng ký khám; chờ quay lại lượt khám đọc các kết quả cận lâm sàng và kết thúc khám. Chỉ thu thập thông tin thai phụ, không thu thập thông tin từ người thân. Công cụ thu thập số liệu Bộ câu hỏi tự soạn có cấu trúc được duyệt thông qua Hội đồng Y đức của Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Bộ câu hỏi gồm các phần sau: Yếu tố cá nhân ở thai phụ và chồng/bạn tình (gồm 11 câu); Tiền sử sản khoa (gồm 10 câu); Đặc điểm trong thai kỳ lần này (gồm 3 câu); Kiến thức cơ bản về axit folic (gồm 6 câu); Chăm sóc thai kỳ về khám thai và bổ sung axit folic theo FIGO (gồm 14 câu). Sổ khám thai của thai phụ: xác nhận tuổi thai, PARA, tiền sản phụ khoa khác và toa thuốc có chứa axit folic trong TCN I (nếu có). Phân tích số liệu Tần suất, tỉ lệ (%) được sử dụng để thống kê mô tả cho các biến số định tính. Đối với biến số định lượng có phân phối bình thường: dùng trung bình, độ lệch chuẩn. Đối với biến số định lượng có phân phối không bình thường: dùng trung vị, khoảng tứ phân vị. Các kiểm định Chi bình phương, Fisher, poisson đơn biến được dùng khi phù hợp. Mô hình hồi quy poisson đa biến được thực hiện với các biến có giá trị p <0,1 và hạn chế missing trong mô hình đơn biến. Tất cả phân tích được thực hiện bằng phần mềm Stata phiên bản 14.1. Y đức Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số: 18/ĐHYD-HĐĐĐ ngày 21/02/2019. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 76 KẾT QUẢ Độ tuổi của thai phụ tham gia nghiên cứu dao động trong độ tuổi sinh sản, khoảng từ 18–46 tuổi. Phần lớn thai phụ là dân tộc Kinh và không theo tôn giáo. Thai phụ phân bố gần như đồng đều nhau ở khu vực TP. Hồ Chí Minh và tỉnh thành khác. Thai phụ trong nghiên cứu hầu như đã từng mang thai. Trong thai kỳ hiện tại: tỷ lệ thai phụ ở giai đoạn TCN II; III khá đồng đều, khám thai dịch vụ chiếm chủ yếu. Phương tiện truyền thông là nguồn thông tin tiếp cận được axit folic nhiều nhất. Tuy nhiên, thai phụ cần cẩn thận với nguồn thông tin này vì độ chính xác từ nhiều nguồn còn hạn chế. Axit folic (FA) trong nghiên cứu được bổ sung vào các thời điểm khác nhau trong thai kỳ. Trước khi mang thai ít nhất 1 tháng, thai phụ bắt đầu bổ sung axit folic chiếm tỷ lệ rất thấp với 28,3%. Phần lớn thai phụ đều bắt đầu bổ sung khi phát hiện có thai (TCN I) và theo toa của NVYT. Chính vì thế, việc bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO còn khá thấp (26,3%) (Hình 1, 2). Hình 1: Tỷ lệ bổ sung axit folic theo giai đoạn Hình 2: Nguồn bổ sung axit folic Mô hình hồi quy đơn biến với các yếu tố liên quan Thai phụ với nhóm tuổi từ 25-29 và 30-34 có tỷ lệ bổ sung axit folic cao hơn lần lượt là 3,11 và 3,18 lần so với thai phụ ≤24 tuổi. Tuy nhiên, chưa ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thai phụ trên 35 tuổi. Thai phụ sống ở khu vực thành phố của Tỉnh khác có tỷ lệ bổ sung axit folic cao hơn nhóm sống tại khu vực TP. Hồ Chí Minh. Tỷ lệ bổ sung axit folic tăng tỷ lệ thuận với mức độ trình độ học vấn ở thai phụ và chồng/bạn tình. Thai phụ với nghề nghiệp kinh doanh hay nhân viên văn phòng/công nhân viên chức và thu nhập cá nhân trên mức lương tối thiểu quy định (>3.980.000 VNĐ/tháng) hay thu nhập gia đình (thai phụ và chồng/bạn tình) từ 10.000.000 VNĐ/tháng có mối liên quan tích cực với việc bổ sung axit folic. Trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu nhập ở thai phụ là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến điều kiện, khả năng tiếp cận dịch vụ khám thai và sàng lọc sớm trong thai kỳ (Bảng 1). Bảng 1: Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân với tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO Đặc tính Bổ sung axit folic Đơn biến Có (%) Không (%) p PR Nhóm tuổi ≤ 24 tuổi 7 (10,94) 57 (89,06) 0,001 1 Từ 25 – 29 tuổi 47 (34,06) 91 (65,94) 3,11 [1,49-6,51] Từ 30 – 34 tuổi 41 (34,75) 77 (65,25) 3,18 [1,51-6,67] ≥ 35 tuổi 10 (12,50) 70 (87,50) 1,14 [0,46-2,84] 28.3 92.8 26.3 Trước mang thai Trong giai đoạn TCN I Theo khuyến nghị FIGO Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 77 Đặc tính Bổ sung axit folic Đơn biến Có (%) Không (%) p PR Nơi ở Tỉnh thành 57 (32,02) 121 (67,98) 0,019 1,48 [1,07-2,06] TP. HCM 48 (21,62) 174 (78,38) 1 Khu vực Thành phố 28 (43,75) 36 (56,25) 0,012 1,72 [1,13-2,62] Nông thôn 29 (25,44) 85 (74,56) 1 TĐHV <THPT 11 (9,02) 111 (90,98) 0,001 1 THPT 26 (23,01) 87 (76,99) 2,04 [1,60-2,59] >THPT 68 (41,21) 97 (58,79) 4,15 [2,58-6,69] Nghề nghiệp Nội trợ/Nông dân/Thất nghiệp 12 (12,77) 82 (87,23) 0,001 1 Công nhân 27 (21,43) 99 (78,57) 1,68 [0,9-3,14] NVVP/Công chức 46 (38,98) 72 (61,02) 3,05 [1,72-5,43] Kinh doanh 20 (32,26) 42 (67,74) 2,53 [1,33-4,8] Thu nhập Trên MLTT 93 (31,00) 207 (69,00) 0,001 2,58 [1,48-4,51] MLTT 12 (12,00) 88 (88,00) 1 TĐHV chồng/bạn tình Thấp 13 (10,32) 13 (10,32) 0,001 1 Trung bình 33 (28,70) 33 (28,70) 1,73 [1,40-2,14] Cao 59 (37,11) 59 (37,11) 3,01 [1,96-4,60] Thu nhập < 10 triệu 7 (11,29) 55 (88,71) 0,006 1 < 30 triệu 86 (28,01) 221 (71,99) 1,75 [1,28-2,39] ≥ 30 triệu 12 (38,71) 19 (61,29) 3,07 [1,64-5,72] Bảng 2: Mối liên quan giữa các đặc điểm trong thai kỳ với tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO Đặc tính Bổ sung axit folic Đơn biến Có (%) Không (%) p PR Từng bổ sung Có 60 (28,17) 153 (71,83) 0,025 2,04 [1,04-4,02] Không 8 (13,79) 50 (86,21) 1 Điều trị vô sinh* Có 4 (100,0) 0 (0,00) 0,001 3,92 [3,31-4,64] Không 101 (25,51) 295 (74,49) 1 Dự định * Có 104 (33,55) 206 (66,45) 0,001 30.19 [4,27-213,36] Không 1 (1,11) 89 (98,89) 1 Tìm hiểu SKSS/DD Có 90 (32,26) 189 (67,74) 0,001 2,60 [1,57-4,30] Không 15 (12,40) 106 (87,60) 1 *: Kiểm định Fisher exact Thai phụ từng bổ sung viên thuốc chứa axit folic trong ít nhất 1 lần mang thai trước đây và được điều trị vô sinh hiếm muộn trước thai kỳ lần này có mối liên quan thuận với việc bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO. Thai phụ có dự định mang thai được tiên đoán là yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ bổ sung ở thai phụ nhiều nhất. Đồng thời, thai phụ có tìm hiểu các kiến thức về sức khỏe sinh sản/dinh dưỡng cho thai kỳ từ nhiều nguồn thông tin khác nhau với khả Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 78 năng bổ sung axit folic (Bảng 2). Thai phụ từng nghe/đọc về axit folic thì tỷ lệ bổ sung axit folic cao hơn gấp 4 lần so với nhóm chưa từng nghe/đọc. Đồng thời, thời điểm nghe/đọc khi có thai lần trước hoặc trước mang thai lần này có tỷ lệ bổ sung cao hơn gấp 10 lần so với thời điểm nghe/đọc ở TCN I trong thai kỳ lần này (Bảng 3). Bảng 3: Mối liên quan giữa các yếu tố về kiến thức axit folic với tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO Đặc tính Bổ sung axit folic Đơn biến Có (%) Không (%) p PR Từng nghe/đọc Có 90 (37,50) 150 (62,50) 0,001 4,00 [2,41-6,65] Không 15 (9,38) 145 (90,62) 1 Thời điểm nghe đọc Trước TCN I 86 (51,81) 80 (48,19) 0,001 1 Trong TCN I 4 (5,41) 70 (94,59) 0,10 [0,04-0,27] Bảng 4: Mối liên quan giữa chăm sóc thai kỳ trước giai đoạn TCN II với tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO Đặc tính Bổ sung axit folic Đơn biến Có (%) Không (%) p PR Khám trước mang thai Có 60 (68,97) 27 (31,03) 0,001 4,8 [3,54-6,51] Không 45 (14,38) 268 (85,62) 1 NVYT tư vấn trước mang thai Có 44 (84,62) 8 (15,38) 0,001 1,85 [1,27-2,70] Không 16 (45,71) 19 (54,29) 1 NVYT tư vấn trong TCN I Có 44 (39,29) 68 (60,71) 0,001 1,8 [1,31-2,47] Không 61 (21,86) 218 (78,14) 1 Thai phụ có khám tiền mang thai và được NVYT tư vấn thì có khả năng bổ sung axit folic cao hơn nhiều so với thai phụ không khám tiền mang thai hoặc không được tư vấn. Đồng thời, khi phát hiện có thai, thai phụ được NVYT tư vấn trong thời điểm ở TCN I có liên quan thuận với việc bổ sung axit folic (Bảng 4). Mô hình hồi quy poisson đa biến với tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo FIGO Mô hình hồi quy poisson đa biến được xây dựng với các yếu tố có giá trị p <0,1 và hạn chế missing trong mô hình hồi quy poisson đơn biến ban đầu. Sau khi kiểm định sự phù hợp của mô hình, mô hình đa biến cuối cùng (8 yếu tố) ghi nhận được 6 yếu tố ảnh hưởng tích cực đến khả năng bổ sung axit folic theo khuyến nghị ở thai phụ như: sống tại khu vực Tỉnh thành; TĐHV thai phụ ở mức trung bình (THPT) trở lên; Thu nhập gia đình từ 10 triệu đồng/tháng; từng nghe/đọc về axit folic, dự định mang thai và khám trước khi có thai lần này. Với cùng các đặc tính có trong mô hình đa biến, nghiên cứu ghi nhận thấy thai phụ với dự định mang thai có khả năng chủ động, tiếp cận chăm sóc thai kỳ tốt hơn rất nhiều hay cụ thể về việc bổ sung axit folic (Bảng 5). Bảng 5: Mô hình hồi quy poisson đa biến về mối liên quan giữa tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic theo khuyến nghị FIGO với các yếu tố liên quan p <0,1 Đặc tính p PR hiệu chỉnh KTC 95% Nơi ở hiện tại TP.HCM 0,010 1 Tỉnh thành khác 1,41 [1,09-1,84] TĐHV thai phụ Thấp 0,001 1 Trung bình 1,55 [1,19-2,03] Cao 2,40 [1,42-4,12] Thu nhập MLTT 0,552 1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 79 Đặc tính p PR hiệu chỉnh KTC 95% Trên MLTT 1,37 [0,49-3,82] Nghề nghiệp Nông dân/Nội trợ/Thất nghiệp 0,830 1 Công nhân 0,818 1,12 [0,41-3,07] NVVP/Công chức 0,548 0,89 [0,32-2,47] Kinh doanh/Khác 0,830 0,74 [0,27-1,99] Thu nhập gia đình < 10 triệu 0,016 1 10 đến dưới 30 triệu 1,41 [1,07-1,80] ≥ 30 triệu 1,99 [1,14-3,24] Dự định mang thai Không 0,002 1 Có 21,41 [3,16-144,95] Từng nghe/đọc axit folic Không 0,001 1 Có 2,52 [1,57-4,05] Khám trước mang thai Không 0,001 1 Có 2,72 [1,98-3,73] BÀN LUẬN Tỷ lệ thai phụ bổ sung axit folic Hiệp hội Sản phụ khoa quốc tế (FIGO) đã khuyến nghị phụ nữ trong độ tuổi sinh sản nên được bổ sung 400 µg/ngày trước khi mang thai ít nhất 30 ngày và duy trì liên tục hàng ngày cho đến TCN I cho một thai kỳ khỏe mạnh(18). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi chưa khảo sát được liều lượng bổ sung axit folic thích hợp. Bởi vì, thứ nhất là các chế phẩm thuốc chứa axit folic rất đa dạng về loại và liều lượng mỗi; thứ hai, phác đồ tùy thuộc CSYT và loại dịch vụ theo BHYT hay tự chi trả. Kết quả nghiên cứu chỉ ghi nhận được 26,3% thai phụ bổ sung axit folic phù hợp theo khuyến nghị FIGO. Kết quả có thể tương đương so với nghiên cứu cắt ngang của tác giả Yan Jing và cộng sự tại Thiên Tân – Trung Quốc (14,4%) – dựa theo bổ sung theo khuyến nghị của Uỷ ban Quốc gia về Kế hoạch hóa gia đình và Sức khỏe sinh sản (NHFPC) với ít nhất 3 tháng trước khi có thai và đến cuối TCN I(1). Tuy nhiên, kết quả của tác giả Dessie MA tại Ethiopia có 1,92% bổ sung ít nhất 1 tháng trước khi có thai đến cuối TCN I(17). Có thể, do mức độ nhận thức của thai phụ trong nghiên cứu tại Ethiopia về axit folic rất thấp: 78,7% chưa nhận được thông tin và 9,4% có nhận được một số thông tin nhưng không đầy đủ, khuyến nghị có bổ sung axit folic ở các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được quan tâm trong các hoạch định chính sách y tế nên axit folic không được kê toa bởi các NVYT tại đây. Nhóm nghiên cứu chỉ ghi nhận được 28,3% thai phụ bắt đầu bổ sung axit folic ít nhất 1 tháng trước khi có thai lần này. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu tại Ý(19), nhưng cao hơn so với các nghiên cứu ở Ethiopia(17); Nigeria(20); An Giang(18). Bởi vì, nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận thấy thai phụ được điều trị vô sinh, đã từng sinh con, dự định và khám tiền mang thai có bổ sung axit folic trước mang thai cao hơn. Chính vì vậy, nguồn bổ sung axit folic ở thời điểm này chủ yếu từ bản thân thai phụ và NVYT. Thai phụ tham gia nghiên cứu chủ yếu bắt đầu bổ sung vào các thời điểm khác nhau trong giai đoạn TCN I của thai kỳ, phù hợp với tỷ lệ thai phụ khám thai lần đầu ở TCN I và nguồn bổ sung hầu hết từ NVYT. Kết quả này khá tương đồng so với nghiên cứu tại Ý(19); Trung Quốc(1); An Giang(18). Đồng thời, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ghi nhận được 9 trường hợp khám thai lần đầu và bổ sung axit folic ở thời điểm TCN II. Kết quả này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu tại Ethiopia(17) và Nigeria(20), bởi vì phần lớn thai phụ khám thai lần đầu ở TCN II và TCN III. Mô hình đa biến với các yếu tố liên quan với bổ sung axit folic theo khuyến nghị FIGO Dựa theo mô hình đa biến, các yếu tố nguy cơ như nhóm thai phụ sống tại Tỉnh khác; trình độ học vấn ở thai phụ (≥THPT); Thu nhập gia đình (≥10 triệu/tháng); đã từng nghe/đọc về axit folic; dự định và khám trước khi có thai lần này làm tăng tỷ lệ bổ sung axit folic theo khuyến nghị của FIGO. Có thể vì thực tế một phần thai phụ sống tại TP. HCM chủ yếu tạm trú, với mục đích tìm kiếm công việc (lao động tay chân) và TĐHV ở mức thấp và trung bình. Mặt khác, phần lớn thai phụ đang sống ở Tỉnh khác đang Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 80 khám thai tại Bệnh viện Từ Dũ và Hùng Vương tại TP. Hồ Chí Minh là nhóm chủ động tìm kiếm dịch vụ chăm sóc thai kỳ cao hơn. Yếu tố quyết định nhiều nhất tới tỷ lệ bổ sung axit folic theo FIGO chủ yếu ở thai phụ có dự định và khám trước khi có thai. Nghiên cứu gợi ý khi bản thân thai phụ mong muốn, chủ động có thai và nhận được chăm sóc sớm trước khi có thai tại CSYT thì nhận thức và bổ sung axit folic cao hơn. Kết quả nghiên cứu ghi nhận mối liên quan giữa thu nhập gia đình với bổ sung axit folic theo FIGO, khá tương đồng với kết quả trong nghiên cứu của tác giả Yan J tại Thiên Tân – Trung Quốc(1). Mặt khác, nghiên cứu tại Thiên Tân cũng ghi nhận thêm các yếu tố làm tăng tỷ lệ bổ sung axit folic trong phòng ngừa DTOTK, nhưng chưa ghi nhận được trong mô hình đa biến ở nghiên cứu này: độ tuổi từ 30-34; có việc làm và mang thai lần đầu; TĐHV ở chồng/bạn tình (CĐ/ĐH)(1). KẾT LUẬN Dựa vào kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết của việc truyền thông giáo dục sức khỏe, hệ thống chăm sóc tiền sản và nhân viên y tế để khuyến nghị phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (PNTĐTSS) có nguy cơ và mong muốn có thai được hướng đến một nhu cầu dinh dưỡng phù hợp cho thai kỳ khỏe mạnh. Nhằm tăng tỷ lệ bổ sung axit folic theo FIGO: khuyến nghị PNTĐTSS cần khám SKSS trước khi dự định có thai và khám thai sớm trong những tuần đầu ngay khi phát hiện có thai, để được thăm khám sức khỏe, tư vấn chế độ dinh dưỡng, thuốc bổ sung các VCDD cần thiết cho một thai kỳ khỏe mạnh; CBYT cần tư vấn axit folic thường quy tránh chỉ tư vấn về Sắt/Canxi hay bổ sung axit folic đơn chất trong những tuần đầu thai kỳ tránh tác dụng phụ; truyền thông và tư vấn trực tiếp về các biện pháp tránh thai, dễ sử dụng, an toàn, hiệu quả trong phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Yan J, Yu ZZ, Lu CJ, Yu LY, Wen L, Guo HW (2017). Periconceptional Folic Acid Supplementation in Chinese Women: A Cross-sectional Study. Biomedical and Environmental Sciences, 30(10):737-748. 2. Ebisch IMW, Thomas CMG, Peters W HM, Braat DDM, Steegers-Theunissen RPM (2007). The importance of folate, zinc and antioxidants in the pathogenesis and prevention of subfertility. Oxford Academic, 13(2):163-174. 3. Hibbard BM (1964). The Role of Folic Acid in Pregnancy With Particular Reference to Anaemia, Abruption and Abortion. International Journal of Obstetrics and Gynaecology, 71(4):529-542. 4. Nguyễn Tấn Bỉnh (2015). Huyết học lâm sàng, pp.62-63. NXB Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Phạm Thị Minh Thư, Lê Thị Thủy (2015). Hóa Sinh, pp.187-190. NXB Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 6. James GA, Stacey BJ, Guan Y, Yu H (2011). Folic Acid Supplementation and Pregnancy: More than Just Neural Tube Defect Prevention. Reviews in Obstetrics & Gynecology, 4(2):52-59. 7. Leeda M, Riyazi N, Vries JIP, Jakobs C, Geijn HPV, Dekker AG (1998). Effects of folic acid and vitamin B6 supplementation on women with hyperhomocysteinemia and a history of preeclampsia or fetal growth restriction. American Journal of Obstetrics Gynecology, 179(1):135-139. 8. Bukowski R, Malone FD, Porter FT, Nyberg DA, Comstock CH, Hankins GDV, et al (2009). Preconceptional Folate Supplementation and the Risk of Spontaneous Preterm Birth: A Cohort Study. PLOS Medicine, 6:5. 9. Sholl TO, Hediger ML, Khoo JI, Fischer RL (1996). Dietary and serum folate: their influence on the outcome of pregnancy. The American Journal of Clinical Nutrition, 63(4):520-525. 10. Liu J, Zhang L, Li Z, Jin L, Zhang Y, Ye R, et al (2016). Prevalence and trend of neural tube defects in five counties in Shanxi province of Northern China, 2000 to 2014. Clinical and Molecular Teratology, 106(4):267-274. 11. Santos LMP, Lecca RCR, Escalante JJC, Sanchez MN, Rodrigues HG (2016). Prevention of neural tube defects by the fortification of flour with folic acid: a population-based retrospective study in Brazil. Bulletin of the World Health Organization, 94(1):22-29. 12. Rakaf MSA, Kurdi AM, Ammari AN, Hashem AMA, Shoukri MM, Garne E, et al (2015). Patterns of folic acid use in pregnant Saudi women and prevalence of neural tube defects — Results from a nested case–control study. Preventive Medicine Reports, 2:572-576. 13. Wu WS, Rennicks RW, Rybak N, Gaudet LM, Robson S, Hague W, et al (2018). Effect of high dose folic acid supplementation in pregnancy on pre-eclampsia (FACT): double blind, phase III, randomised controlled, international, multicentre trial. BMJ, pp.362. 14. Johns Hopkins Bloomerg School of Public Health (2016). Too Much Folate in Pregnant Women Increases Risk for Autism, Study Suggests. URL: https://www.jhsph.edu/news/news- releases/2016/too-much-folate-in-pregnant-women-increases- risk-for-autism-study-suggests.html 15. Wooldridge AL, Bischof RJ, Liu H, Heinemann GK, Hunter DS, Giles LC, et al (2017). Late-gestation maternal dietary methyl donor and cofactor supplementation in sheep partially reverses protection against allergic sensitization by IUGR. American Journal of Physiology-Regulatory Integrative and Comparative Physiology, 314(1):22-33. 16. FIGO International Federation of Gynecology and Obstetrics. Folic Acid Supplementation. URL: https://www.figo.org/sites/default/files/uploads/OurWork/FIG O%20GCPMFM%20WG%20- %20Folic%20Acid%20Suplemntation.pdf. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 81 17. Dessie MA, Gebeye EZ, Bitew SW, Worku AB (2017). Folic acid usage and associated factors in the prevention of neural tube defects among pregnant women in Ethiopia: cross-sectional study. BMC Pregnancy & Childbirth, 17:313. 18. Néang Oanh Ly (2018). Tỷ lệ sử dụng axit folic và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Tri Tôn tỉnh An Giang. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. HCM, pp.28-30. 19. Nilsen RM, Leoncini E, Gastaldi P, Allegri V, Agostino R, Faravelli F, et al (2016). Prevalence and determinants of preconception folic acid use: An Italian multicenter survey. Italian Journal of Pediatrics, 42:65. 20. Akeem LT, Olufemi AA (2014). Determinants of folic acid intake during preconception and in early pregnancy by mothers in Ibadan, Nigeria. Pan African Medical Journal, 19:113. Ngày nhận bài báo: 15/11/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020
File đính kèm:
bo_sung_axit_folic_theo_khuyen_nghi_cua_figo_va_cac_yeu_to_l.pdf

