Biến động chất lượng cây trong các mô hình rừng trồng sao đen (Hopea odorata) và dầu rái (Dipterocarpus alatus) tại khu bảo tồn thiên nhiên-Văn hóa Đồng Nai

TÓM TẮT

Nghiên cứu một số đặc trưng cơ bản về số lượng và chất lượng cây trồng

trong các mô hình phục hồi rừng cây bản địa gỗ lớn bằng Sao đen và Dầu

rái tại Khu bảo tồn thiên nhiên-văn hóa Đồng Nai nhằm xác định tỷ lệ sống

và chất lượng rừng trồng theo các kỹ thuật trồng khác nhau. Kết quả nghiên

cứu cho thấy: i) Phương pháp trồng đã ảnh hưởng rõ tới tỷ lệ sống; nhìn

chung tỷ lệ sống loài Sao đen thấp hơn so với Dầu rái, nhưng sai lệch không

có ý nghĩa về thống kê; ii). Tỷ lệ sống của những loài này còn có quan hệ

chặt chẽ với thời gian (tuổi). Nguyên nhân dẫn tới những biến động về mật

độ hiện tại phụ thuộc không chỉ vào loại đất mà còn phụ thuộc vào phương

pháp và đặc điểm kỹ thuật trồng; và iii). Ở các điều kiện đất đai, phương

thức và quy cách trồng khác nhau thì tỷ lệ cây có phẩm chất tốt vẫn luôn

nhiều hơn rất đáng kể so với cây trung bình và cây xấu. Ở các giai đoạn tuổi

khác nhau Dầu rái vẫn cho tỷ lệ cây tốt nhiều hơn so với Sao đen.

pdf 10 trang phuongnguyen 1500
Bạn đang xem tài liệu "Biến động chất lượng cây trong các mô hình rừng trồng sao đen (Hopea odorata) và dầu rái (Dipterocarpus alatus) tại khu bảo tồn thiên nhiên-Văn hóa Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến động chất lượng cây trong các mô hình rừng trồng sao đen (Hopea odorata) và dầu rái (Dipterocarpus alatus) tại khu bảo tồn thiên nhiên-Văn hóa Đồng Nai

Biến động chất lượng cây trong các mô hình rừng trồng sao đen (Hopea odorata) và dầu rái (Dipterocarpus alatus) tại khu bảo tồn thiên nhiên-Văn hóa Đồng Nai
Tạp chí KHLN 1/2014 (3129 - 3138) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
 3129 
BIẾN ĐỘNG CHẤT LƯỢNG CÂY TRONG CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG 
SAO ĐEN (Hopea odorata) VÀ DẦU RÁI (Dipterocarpus alatus) 
TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN - VĂN HÓA ĐỒNG NAI 
Bùi Việt Hải1, Tô Bá Thanh2, Phạm Xuân Hoàn3 
1
 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 
2
 Khu Bảo tồn thiên nhiên và Văn hoá Đồng Nai 
3
 Đại học Lâm nghiệp 
Từ khóa: Khu bảo tồn 
thiên nhiên-văn hóa Đồng 
Nai, rừng trồng, Sao đen. 
Dầu rái 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu một số đặc trưng cơ bản về số lượng và chất lượng cây trồng 
trong các mô hình phục hồi rừng cây bản địa gỗ lớn bằng Sao đen và Dầu 
rái tại Khu bảo tồn thiên nhiên-văn hóa Đồng Nai nhằm xác định tỷ lệ sống 
và chất lượng rừng trồng theo các kỹ thuật trồng khác nhau. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy: i) Phương pháp trồng đã ảnh hưởng rõ tới tỷ lệ sống; nhìn 
chung tỷ lệ sống loài Sao đen thấp hơn so với Dầu rái, nhưng sai lệch không 
có ý nghĩa về thống kê; ii). Tỷ lệ sống của những loài này còn có quan hệ 
chặt chẽ với thời gian (tuổi). Nguyên nhân dẫn tới những biến động về mật 
độ hiện tại phụ thuộc không chỉ vào loại đất mà còn phụ thuộc vào phương 
pháp và đặc điểm kỹ thuật trồng; và iii). Ở các điều kiện đất đai, phương 
thức và quy cách trồng khác nhau thì tỷ lệ cây có phẩm chất tốt vẫn luôn 
nhiều hơn rất đáng kể so với cây trung bình và cây xấu. Ở các giai đoạn tuổi 
khác nhau Dầu rái vẫn cho tỷ lệ cây tốt nhiều hơn so với Sao đen. 
Key words: Dongnai 
Culture Nature Reserve, 
Dipterocarpus alatus, 
Hopea odorata, forest 
plantation 
Tree quality change of Hopea odorata and Dipterocarpus alatus plantation 
models in Dong Nai culture nature reserve 
The study of feature changes the quantity and quality of plants in the 
plantation model of large and native timber trees (Hopea odorata and 
Dipterocarpus alatus) in the Area of Natural Conservation, Dong Nai 
province, to determine fluctuations characterize the survival rate and 
plantation quality in the different growing techniques. Topical use of survey 
methods, data collection on the typical plots. The results are: i) Each type of 
planting methods and specifications that affect plant survival of the species. 
Overall, survival of H.odorata lower than D.alatus, but deviations are not 
significant statistically; ii) Survival of the species of plants is a factor 
closely related to time. The cause of the fluctuations in the current density 
of trees depends not only on the type of soil, planting methods, planting 
specifications; and iii) In the planting methods and specifications vary the 
rate of good quality trees are always more significant than mean plants and 
bad plants. At various stages of the species, D.alatus is rather good for rate 
than H.odorata. 
Tạp chí KHLN 2014 Bùi Việt Hải et al., 2014(1) 
 3130 
I. MỞ ĐẦU 
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của 
Khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai 
(sau đây sẽ viết tắt là Khu BTTN) là phục hồi 
lại một số loài cây họ Dầu bản địa gỗ lớn 
bằng kỹ thuật trồng rừng. Trong tổng diện tích 
431,9ha rừng trồng cây họ Dầu của Khu 
BTTN, hiện còn 306,1ha là rừng cây họ Dầu 
xen với cây nguyên liệu giấy (NLG) hoặc cây 
nông nghiệp dài ngày (NN). Đây là đối tượng 
có thể trở thành rừng cây gỗ lớn trong tương 
lai. Tuy nhiên, trong mỗi loại hình trồng lại 
có nhiều mô hình rừng trồng khác nhau bởi 
yếu tố loài cây hay phương thức trồng và quy 
cách trồng. Về loài cây trồng chính có Sao 
đen và Dầu rái, loài cây hỗ trợ (hay cây trồng 
xen) có Keo lá tràm và một số loài cây ăn 
quả như Điều và Xoài. Do đó, việc đánh giá 
khả năng phục hồi của những loài cây gỗ lớn 
này phải được xem xét trên từng mô hình 
rừng trồng cụ thể. 
Những đặc điểm lâm học có liên quan trực 
tiếp đến việc đánh giá khả năng phục hồi của 
rừng trồng trình bày ở đây là biến động về số 
lượng và chất lượng cây trồng. Về số lượng, 
có biến động về tỷ lệ số cây theo thời gian và 
không gian, nó vừa biểu thị cho nội lực của 
cây, vừa nói lên khả năng thích nghi của cây ở 
các điều kiện trồng khác nhau. Về chất lượng, 
có biến động phẩm chất cây trồng trong các 
điều kiện sống khác nhau, nó cho phép đánh 
giá khả năng thành rừng thông qua số cây có 
phẩm chất tốt đang tồn tại. 
II. MỤC TIÊU VÀ PHƢƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 
- Xác định được đặc điểm biến động tỷ lệ 
sống ở các điều kiện và kỹ thuật trồng khác 
nhau tại các mô hình rừng phục hồi của hai 
loài cây Sao đen và Dầu rái. 
- Phân tích được đặc điểm biến động về phẩm 
chất cây trồng ở các điều kiện và kỹ thuật 
trồng khác nhau của các mô hình rừng phục 
hồi với loài Sao đen và Dầu rái làm cơ sở đề 
xuất kỹ thuật phục hồi rừng tại khu vực 
nghiên cứu. 
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 
Việc điều tra, thu thập số liệu tiến hành trên 
các ô tiêu chuẩn điển hình tạm thời, đại diện 
cho từng mô hình rừng trồng, cho từng giai 
đoạn trồng rừng. Tổng số ô tiêu chuẩn đã điều 
tra là 142. Cách tiến hành lập ô theo quy trình 
điều tra lâm học rừng trồng thông thường, 
diện tích mỗi ô là 2.000m2 (40m × 50m). Số 
OTC đã điều tra trên một loại đất, một 
phương thức trồng hay một quy cách trồng ít 
nhất là 6 ô. 
Số liệu điều tra trên OTC được ghi vào biểu 
theo quy định trong quy trình điều tra lâm học 
thông dụng. 
2.2.2. Phương pháp xử lý và tính toán số liệu 
(1) Tính các đặc trưng định lượng (D1.3, Hvn, 
N/ha) của từng loài cây theo từng mô hình 
rừng trồng. 
- Các chỉ tiêu như D1,3, Hvn, N/ha tính cho 
từng ô tiêu chuẩn, sau đó tập hợp các ô theo 
từng mô hình rừng trồng. 
- Xác định sự biến động số cây của rừng trồng 
thông qua tất cả các tuổi rừng trồng hiện có, 
sau đó lập đường biểu diễn thực nghiệm theo 
thời gian của từng loại rừng trồng. 
(2) Đặc tính phẩm chất hay chất lượng của cây 
được phân chia theo 3 cấp thông thường là cây 
tốt (a), cây trung bình (b) và cây xấu (c). 
Chỉ tiêu phẩm chất được tính cho từng OTC 
theo tỷ lệ phần trăm (%). Phẩm chất cây trồng 
cũng được xác định theo từng loại đất, loại 
Bùi Việt Hải et al., 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3131 
rừng và loại cây trồng chính. Toàn bộ số liệu 
được xử lý bằng các phần mềm thống kê 
thông dụng trên máy tính. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN 
3.1. Phân chia mô hình rừng trồng 
Dựa vào loài cây trồng chính và loài cây trồng 
phụ trợ, đối tượng nghiên cứu được chia ra 
thành 2 loại mô hình: (1) rừng trồng Sao, Dầu 
xen trong rừng nguyên liệu giấy (NLG) và (2) 
rừng trồng Sao, Dầu xen cây nông nghiệp dài 
ngày (NN). Mỗi loại mô hình này có 3 
phương thức: (i) trồng Sao thuần; (ii) trồng 
Dầu thuần; và (iii) trồng hỗn giao Sao và 
Dầu. Trong mỗi phương thức trồng lại có 3 
quy cách về mật độ trồng: (a) quy cách trồng 
6 × 4m (mật độ trồng 420 cây/ha), (b) quy 
cách trồng 6 × 8m (210 cây/ha), và (c) quy 
cách trồng 9 × 5m (220 cây /ha). 
Như vậy, có 12 mô hình rừng trồng theo 
phương thức trồng, quy cách trồng và loài cây 
trồng chính. Tất cả các trình bày sau đây đều 
sắp xếp theo thứ tự: loại hình (mô hình), 
phương thức, quy cách và được xác định cho 
từng loài cây nghiên cứu. 
3.1.1. Rừng trồng Sao, Dầu với cây nguyên 
liệu giấy 
Loại hình rừng trồng cây Sao, Dầu với cây 
nguyên liệu giấy rất phổ biến trong Khu 
BTTN. Cây phụ trợ NLG gồm Keo lá tràm và 
Keo lai, trong đó Keo lá tràm chiếm tỷ lệ 
nhiều hơn. Thời gian hai loài sống chung với 
nhau theo thiết kế là khoảng 6 năm đầu sau 
trồng, trong khoảng thời gian ấy có những đợt 
tỉa thưa cây phụ trợ. Nhưng thực tế, quá trình 
này diễn ra không theo thiết kế và dẫn đến 
hiện trạng có mô hình chỉ còn lại cây trồng 
chính, có mô hình đã qua tỉa thưa cây phụ trợ 
1 hoặc 2 lần và cũng có mô hình còn cả cây 
phụ trợ dù đã qua tuổi 9. 
Qua kết quả điều tra dựa trên hồ sơ trồng 
rừng, trong ba phương thức trồng rừng trong 
rừng NLG, diện tích rừng trồng hỗn giao Sao 
và Dầu chiếm nhiều nhất và rừng trồng Sao 
thuần chiếm ít nhất. 
3.1.2. Rừng trồng Sao, Dầu với cây nông nghiệp 
Loại hình rừng trồng cây Sao, Dầu với cây 
nông nghiệp là một điểm mới của kỹ thuật 
trồng rừng dựa vào cộng đồng. Xuất phát 
điểm là trên diện tích trồng rừng cây gỗ lớn 
giao cho người dân quản lý, họ được trồng 
xen cây nông nghiệp vào đó. Lúc đầu là các 
loài cây ngắn ngày như bắp, mì (ngô, sắn); 
sau đến các loài cây ăn quả lâu năm như Điều, 
Xoài, Mít. Đến nay, tồn tại chủ yếu là rừng 
Sao, Dầu xen cây Điều và Xoài. Tuy nhiên, 
khác với cây NLG có thể bị tỉa thưa, cây ăn 
quả ổn định số lượng theo thời gian, do đó 
mật độ cây trồng chính và cây phụ trợ đã được 
cố định từ ban đầu. Đối tượng có tuổi nhiều 
nhất là 21 năm và ít nhất là 3 năm (tính đến 
2013). Với những đặc điểm như đã trình bày, 
nhận thấy rằng đối tượng nghiên cứu có 
những đặc điểm chính sau đây: 
(1) Có 3 phương thức trồng chính và trong 
mỗi phương thức lại có các quy cách trồng 
khác nhau, các năm trồng của mỗi phương 
thức hay quy cách trồng cũng không liên tục. 
Theo đó, việc chọn mẫu để so sánh giữa các 
chỉ tiêu dựa trên việc phải đồng nhất các yếu 
tố tác động là một yêu cầu bắt buộc. 
(2) Tuy có các tuổi 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 là liên 
tục, nhưng ở mỗi giai đoạn tuổi đó lại không 
có các cặp phương thức trồng, quy cách 
trồng, loài cây trồng một cách liên tục giữa 
các năm, dẫn đến việc xác định những đặc 
điểm lâm học theo năm của các loại hình 
rừng trồng ở Khu BTTN cũng là một tồn tại 
ở nghiên cứu này. 
Tạp chí KHLN 2014 Bùi Việt Hải et al., 2014(1) 
 3132 
3.2. Biến động mật độ theo các phƣơng 
thức và quy cách trồng 
Biến động mật độ cây trồng là tỷ lệ cây sống 
thay đổi theo vị trí nơi trồng và trong khoảng 
thời gian từ thời điểm trồng đến thời điểm 
điều tra. Chỉ tiêu xác định biến động mật độ là 
tỷ lệ trung bình cây sống (P,%), độ lệch tiêu 
chuẩn (S) và hệ số biến động (Cv,%) ở thời 
điểm điều tra ứng với các tuổi khác nhau. 
3.2.1. Biến động tỷ lệ sống của cây trồng 
theo phương thức trồng 
Biến động tỷ lệ sống của cây trồng ở đây bao 
gồm hai phương thức trồng khác nhau là 
trồng thuần một loài và trồng hỗn giao hai 
loài với nhau. 
Bảng 1. Biến động tỷ lệ cây sống ở các phương thức trồng rừng 
Loại phương thức trồng 
Số OTC điều tra 
(ô) 
TL sống bình quân 
(%) 
Độ lệch tiêu chuẩn 
(S) 
Hệ số biến động 
(%) 
 Ở rừng xen cây nguyên liệu giấy 
Sao thuần 27 77,4 5,51 7,12 
Dầu thuần 26 80,2 6,00 7,48 
Sao Dầu hỗn giao 25 83,1 4,79 5,76 
 Ở rừng xen cây nông nghiệp dài ngày 
Sao thuần 21 79,5 7,35 9,24 
Dầu thuần 20 81,1 8,46 10,42 
Sao Dầu hỗn giao 23 80,6 9,64 11,95 
Nhận xét: Tỷ lệ sống ở rừng trồng thuần loài 
đều thấp hơn hoặc xấp xỉ bằng với rừng hỗn 
giao, thấp nhất là Sao thuần và cao nhất là 
Sao Dầu hỗn giao. Có thể thấy một quy luật 
chung là tỷ lệ sống bình quân lớn hơn đi liền 
với hệ số biến động cao hơn, hệ số biến động 
cao nhất là ở các phương thức trồng trong 
rừng xen cây NN (đều trên 10%). 
Các trắc nghiệm sai khác giữa từng cặp 
phương thức (thuần và hỗn giao) đã được 
thực hiện cho từng loài, kết quả cũng đều cho 
tns, chứng tỏ không có sự sai khác mang tính 
hệ thống về tỷ lệ sống giữa hai phương thức 
trồng. 
Ở rừng xen cây NLG 
Ở rừng xen cây NN 
Hình 1. Tỷ lệ sống (%) của Sao và Dầu ở các phương thức trồng 
Bùi Việt Hải et al., 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3133 
3.2.2. Biến động tỷ lệ sống của cây trồng theo quy cách trồng 
Có 3 loại quy cách cho mỗi phương thức trồng rừng. Các kết quả điều tra và tính toán được trình 
bày trong bảng 2. 
Bảng 2. Biến động tỷ lệ cây sống (%) ở các quy cách mật độ trồng rừng 
Loại quy cách trồng Số OTC điều tra 
(ô) 
TL sống bình quân 
(%) 
Độ lệch tiêu chuẩn 
(S) 
Hệ số biến động 
(%) 
 Ở rừng xen cây nguyên liệu giấy 
6 x 4 (m), 420 cây/ha 24 84,6 3,25 3,85 
6 x 8 (m), 210 cây/ha 43 79,4 5,21 6,55 
9 x 5 (m), 220 cây/ha 11 73,4 5,18 7,06 
 Ở rừng xen cây nông nghiệp dài ngày 
6 x 4 (m), 420 cây/ha 10 85,2 5,94 6,97 
6 x 8 (m), 210 cây/ha 38 80,8 8,09 10,00 
9 x 5 (m), 220 cây/ha 16 76,4 9,23 12,08 
Ở rừng xen cây NLG 
Ở rừng xen cây NN 
Hình 2. Tỷ lệ sống (%) của Sao và Dầu ở các quy cách trồng 
Nhận xét: Theo kết quả từ bảng 2 và hình 2, 
có thể thấy rằng quy cách trồng cây cách 
cây gần hơn hay mật độ trồng cao hơn (420 
cây/ha) thì tỷ lệ sống lớn hơn. Quy cách 6 × 
8 (m) và 9 × 5 (m) tuy gần giống nhau về 
mật độ nhưng khác nhau về khoảng cách 
hàng và cây cũng dẫn đến tỷ lệ sống khác 
nhau. Điều đó cho thấy với cả hai loài Sao 
và Dầu, khi trồng thuần với mật độ khoảng 
400 cây/ha cho tỷ lệ sống tốt hơn so với 
trồng mật độ 200 cây/ha. 
Thực hiện trắc nghiệm cho cặp quy cách theo 
từng loài. Kết quả giá trị t thấp nhất là 0,486 
và cao nhất là 1,94. Do vậy, tất cả đều có kết 
quả tns, nghĩa là sự khác biệt về tỷ lệ sống 
giữa hai quy cách trồng bất kỳ đều không có ý 
nghĩa về phương diện thống kê. 
3.2.3. Biến động tỷ lệ sống của cây trồng 
theo loài cây trồng chính 
Cây họ Dầu đưa vào trồng trong các mô hình 
cây gỗ lớn xem xét ở đây chỉ có hai loài là 
Sao đen và Dầu rái. Việc xem xét tỷ lệ sống 
của hai loài dựa trên điều kiện đất trồng và 
cách thức trồng được tổng hợp từ các mục 
như đã trình bày ở phần trên. 
Tạp chí KHLN 2014 Bùi Việt Hải et al., 2014(1) 
 3134 
Bảng 3. Biến động tỷ lệ cây sống ở các loài cây Sao, Dầu trồng chính 
Loài cây 
trồng 
Loại đất Phương thức Quy cách (m) 
Fs Fp Thuần H.giao 6x4 6x8 9x5 
 Ở rừng trồng xen cây NLG 
Sao đen 80,5 76,9 77,4 84,3 83,5 76,9 72,8 
Dầu rái 83,2 79,6 80,2 81,3 84,4 78,9 73,3 
 Ở rừng trồng xen cây NN 
Sao đen 75,0 80,5 79,5 79,4 82,0 79,8 78,0 
Dầu rái 83,7 80,7 81,1 81,7 80,3 82,5 77,5 
Nhận xét: Tại rừng trồng xen cây NLG, Sao 
đen thường có tỷ lệ sống thấp hơn so với loài 
Dầu rái, còn ở rừng xen cây NN thì Sao đen 
cũng có tỷ lệ sống thấp hơn hoặc xấp xỉ bằng 
với Dầu rái. Chênh lệch tỷ lệ sống giữa hai 
loài cao nhất là 8,7% (trên cùng loại đất Fs). 
Tuy nhiên, tất cả các sai lệch giữa hai loài đều 
không có ý nghĩa về phương diện thống kê, do 
đó khả năng thích nghi của hai loài được xem 
là như nhau. 
3.3. Biến động mật độ cây trồng theo thời 
gian (tuổi rừng) 
3.3.1. Biến động mật độ cây trồng Sao, Dầu 
ở rừng thuần loài 
Biến động mật độ của Sao và Dầu ở rừng 
trồng thuần Sao hoặc Dầu theo thời gian được 
biểu diễn dưới dạng tần suất thực nghiệm của 
tỷ lệ sống (%) theo tuổi rừng (năm) được thể 
hiện trong hình 3. 
Ở rừng xen cây NLG 
Ở rừng xen cây NN 
Hình 3. Biến động mật độ của Sao và Dầu ở rừng trồng thuần loài
Ở rừng NLG, giai đoạn dưới 8 tuổi, tỷ lệ sống 
của Dầu lớn hơn Sao, sau tuổi 8 tỷ lệ này của 
Sao lại cao hơn Dầu. Ở rừng cây NN, gần như 
ở tất cả các tuổi tỷ lệ sống của Sao luôn thấp 
hơn của Dầu. Tuy nhiên, các trắc nghiệm thống 
kê cho từng cặp loài tại mỗi giai đoạn tuổi đều 
khẳng định rằng, tỷ lệ sống giữa hai loài Sao 
và Dầu đều có sự khác biệt không rõ ràng. 
Kết quả phân tích quan hệ hồi quy giữa tỷ lệ 
sống và tuổi chỉ ra rằng: hệ số tương quan của 
các quan hệ trên biến thiên từ 0,82 đến 0,90; 
hệ số hồi quy của quan hệ cũng dao động từ 
1,47 đến 2,24 và đều mang dấu âm. Điều đó 
cho thấy tương quan giữa tỷ lệ sống và tuổi là 
rất chặt chẽ, bình quân mỗi năm tỷ lệ sống 
giảm xấp xỉ 2% so với năm trước. 
Bùi Việt Hải et al., 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3135 
3.3.2. Biến động mật độ cây trồng Sao, Dầu 
ở rừng hỗn giao 
Biến động mật độ của Sao và Dầu ở rừng 
trồng xen giữa Sao và Dầu với cây NLG và 
cây NN cũng được biểu diễn bằng đường 
tần suất thực nghiệm của tỷ lệ sống (%) 
theo tuổi rừng (năm) như trình diễn trong 
hình 4: 
Ở rừng xen cây NLG 
Ở rừng xen cây NN 
Hình 4. Biến động mật độ của Sao và Dầu ở rừng trồng hỗn giao 
Từ kết quả trình bày ở hình 4, có thể thấy rõ 
biến động mật độ theo thời gian có điểm 
giống nhau giữa hai loại hình rừng trồng. Ở 
rừng trồng hỗn giao xen cây NLG, tỷ lệ sống 
của Dầu đều cao hơn Sao, nhưng ở rừng hỗn 
giao trong cây NN sau tuổi 6 tỷ lệ sống của 
Sao lớn hơn một cách ổn định so với Dầu. 
Kết quả phân tích quan hệ hồi quy giữa tỷ lệ 
sống và tuổi chỉ ra rằng: hệ số tương quan của 
các quan hệ biến thiên từ 0,66 đến 0,97; hệ số 
hồi quy cũng dao động từ 1,14 đến 2,78 và 
đều mang dấu âm. Ở rừng xen cây NN có hệ 
số tương quan và hệ số hồi quy đều lớn hơn so 
với rừng xen cây NLG. Tốc độ giảm số cây 
hơn 2% mỗi năm ở rừng xen cây NN có thể 
do tác động bởi người trồng và chăm sóc. 
Tóm lại: Khi xem xét biến thiên mật độ theo 
thời gian và liên hệ với kết quả trắc nghiệm so 
sánh tỷ lệ sống ở cùng một giai đoạn để khẳng 
định rằng tỷ lệ sống của Sao đen và Dầu rái 
khác biệt không có ý nghĩa về phương diện 
thống kê. Tuy nhiên, có thể nhận định ở mỗi 
phương thức trồng hay quy cách trồng cũng 
có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống ban đầu của từng 
loài Sao và Dầu. Những thay đổi của mật độ 
sau giai đoạn 6 - 7 tuổi đều phụ thuộc vào số 
cây còn sống từ tuổi này. 
3.4. Biến động phẩm chất cây trồng ở các 
phƣơng thức và quy cách trồng 
Chất lượng của cây trồng được phân thành 3 
cấp định tính: tốt, trung bình và xấu ứng với 
các tiêu chí định trước. Chỉ tiêu tính toán là 
phẩm chất từng loại theo giá trị phần trăm (%) 
của tổng cây, được đánh giá ở các yếu tố khác 
nhau như trình bày dưới đây: 
3.4.1. Biến động phẩm chất cây trồng ở các 
phương thức trồng 
Với một loài cây có hai phương thức trồng là 
thuần loài và hỗn giao. Kết quả về biến động 
tỷ lệ phẩm chất cây ở các phương thức như 
trình bày trong hình 5. 
Tạp chí KHLN 2014 Bùi Việt Hải et al., 2014(1) 
 3136 
Ở rừng xen cây NLG 
Ở rừng xen cây NN 
Hình 5. Biến động phẩm chất của cây trồng ở các phương thức trồng 
Có sự giống nhau về tỷ lệ các loại cây theo 
phẩm chất giữa hai loại rừng: tỷ lệ số cây tốt 
đều rất cao (thấp nhất là 74,9% và cao nhất là 
83,2%), tỷ lệ cây xấu đều rất thấp (thấp nhất 
là 5,9% và cao nhất là 29,5%). Bên cạnh, 
không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ phẩm 
chất cây trồng giữa các phương thức trồng. 
Nói cách khác, phẩm chất của cây trồng 
không phụ thuộc vào phương thức trồng thuần 
hay trồng hỗn giao. 
3.4.2. Biến động phẩm chất cây trồng ở các 
quy cách trồng 
Quy cách trồng kéo theo mật độ trồng dày hay 
thưa làm cho khả năng sinh trưởng và hình 
thái cây trồng có thể thay đổi. Kết quả hiển thị 
trong hình 6. 
Ở rừng xen cây NLG 
Ở rừng xen cây NN 
Hình 6. Biến động phẩm chất của cây trồng ở các quy cách trồng 
Các kết quả trên đã không cho thấy một sự 
phụ thuộc mang tính quy luật cơ bản. Có sự 
khác nhau về tỷ lệ phẩm chất a, b, c theo quy 
cách trồng giữa hai loại rừng. Ở rừng nguyên 
liệu gỗ, quy cách trồng có mật độ dày hơn cho 
phẩm chất tốt hơn so với mật độ thưa hơn. Ở 
rừng trồng xen cây nông nghiệp dài ngày, 
ngược lại quy cách trồng thưa hơn cho tỷ lệ 
cây tốt cao hơn. Ở cùng một mật độ tương 
đương nhau (khoảng hơn 200 cây/ha) thì quy 
cách 6 × 8m có phẩm chất tốt hơn so với quy 
cách 9 × 5m. Tuy nhiên, tất cả các sai khác 
này đều chưa đủ lớn để có ý nghĩa về phương 
diện thống kê. 
Bùi Việt Hải et al., 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3137 
3.4.3. Biến động phẩm chất cây trồng giữa 
hai loài cây trồng chính 
Để đánh giá ảnh hưởng của các điều kiện sống 
tới phẩm chất cây trồng của hai loài trồng 
chính, yếu tố thời gian (tuổi) là yếu tố quan 
trọng được xem xét. Hai thời điểm được so 
sánh ở đây là tuổi 5 và tuổi 9. 
Ở rừng xen cây NLG, tuổi 5 
Ở rừng xen cây NN, tuổi 5 
Ở rừng xen cây NLG, tuổi 9 
Ở rừng xen cây NN, tuổi 9 
Hình 7. Biến động phẩm chất của cây trồng ở rừng trồng tuổi 5 và 9 
Nhận xét: Dù ở các giai đoạn tuổi khác nhau 
thì loài cây Dầu vẫn cho tỷ lệ cây tốt nhiều 
hơn so với Sao. Theo thời gian, có sự 
chuyển biến rõ rệt về tỷ lệ cây tốt, thể hiện 
đặc biệt rõ ở rừng có cây NLG, số cây tốt 
tăng lên đồng nghĩa với số cây xấu giảm đi 
tương ứng. Như vậy, việc tỉa thưa cây phụ 
trợ ở rừng NLG đã có ảnh hưởng đến phẩm 
chất cây trồng chính bất kể là Sao hay Dầu. 
Song, ở rừng xen loài cây NN (cây ăn quả) 
thì phẩm chất cây tốt giảm đi trong khi cây 
trung bình và xấu tăng lên. Như thế cũng có 
nghĩa là việc chăm sóc cây ăn quả gián tiếp 
ảnh hưởng không tốt đến tỷ lệ chất lượng 
của cây trồng chính. 
IV. KẾT LUẬN 
(1) Về biến động của tỷ lệ cây sống theo điều 
kiện và kỹ thuật trồng: Mỗi loại đất hay trên 
cùng loại đất có phương thức trồng và quy 
cách trồng khác nhau có ảnh hưởng đến tỷ lệ 
sống của từng loài Sao và Dầu. Nhìn chung, 
tỷ lệ sống của Sao đen thấp hơn so với Dầu 
rái, nhưng sai lệch đều không có ý nghĩa về 
phương diện thống kê, do đó khả năng thích 
nghi để tồn tại của hai loài Sao và Dầu được 
xem là như nhau. 
Tạp chí KHLN 2014 Bùi Việt Hải et al., 2014(1) 
 3138 
(2) Về biến động của tỷ lệ sống theo thời 
gian: Tỷ lệ sống của loài các cây Sao và 
Dầu có quan hệ chặt chẽ với thời gian (tuổi 
rừng). Những thay đổi của mật độ sau giai 
đoạn 6 - 7 tuổi phụ thuộc vào số cây còn 
sống từ tuổi này. Nguyên nhân của những 
biến động về mật độ số cây hiện tại không 
phụ thuộc duy nhất vào loại đất trồng, 
phương thức trồng, quy cách trồng, hoặc 
loài cây trồng phụ trợ. 
(3) Ở các điều kiện đất đai, phương thức và 
quy cách trồng khác nhau thì tỷ lệ cây có 
phẩm chất tốt (a) luôn nhiều hơn rất đáng kể 
so với cây trung bình (b) và cây xấu (c). Ở 
các giai đoạn tuổi khác nhau, Dầu rái cho tỷ 
lệ cây tốt nhiều hơn so với Sao đen. Theo 
thời gian, có sự chuyển biến rõ rệt về tỷ lệ 
cây tốt, thể hiện đặc biệt rõ ở rừng NLG, số 
cây tốt tăng lên đồng nghĩa với số cây xấu 
giảm đi tương ứng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anto Rimbawanto, Editor, 2006. Silviculture systems of Indonesia’s Dipterocarps forest management: A lesson 
learned. Technical Report, ITTO Project PD 41/00. Rev.3. Yokohama, Japan & Yogyakarta, Indonesia. 
2. CIFOR, 1998. Review of Dipterocaps: Taxonomy, ecology and silviculture. Bogo, Indonesia. 
3. Bùi Việt Hải, 2009. Tài liệu hướng dẫn thực hành thống kê trên máy tính với các phần mềm Excel, Statgraphics 
và SPSS. Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh. 
4. Phạm Xuân Hoàn, Nguyễn Văn Quí, Tô Bá Thanh, 2012. Phục hồi rừng cây họ Dầu tại Khu bảo tồn thiên 
nhiên-Văn hóa Đồng Nai. Thông tin KHLN, trường Đại học Lâm nghiệp, số 3/2012. ISSN 1859-3828. Hà Nội. 
5. Tô Bá Thanh, 2009. Nghiên cứu một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng tại xã Mã Đà 
thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu, Đồng Nai. Luận văn Thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp. Đại học 
Lâm nghiệp. 
Ngƣời thẩm định: PGS.TS. Triệu Văn Hùng 

File đính kèm:

  • pdfbien_dong_chat_luong_cay_trong_cac_mo_hinh_rung_trong_sao_de.pdf