Biến đổi nồng độ glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não giai đoạn cấp tính trước và sau điều trị tại bệnh viện

Mục tiêu: Đánh giá biến đổi nồng độ glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não (BN ĐQN) giai đoạn cấp tính trước và sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Đối tượng và phương pháp: 98 BN ĐQN cấp tính được điều trị bằng các biện pháp phối hợp bao gồm điều trị ĐQN và sử dụng insulin nếu có chỉ định, được đánh giá biến đổi nồng độ glucose máu trước và sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Kết quả: Nồng độ glucose máu giảm ở tất cả các đối tượng kể cả có hay không có tăng glucose máu phản ứng, ở BN đái tháo đường (ĐTĐ) hay không có ĐTĐ trước khi đột quỵ. Nồng độ glucose máu ở đối tượng tại thời điểm tử vong cao hơn so với đối tượng không tử vong. Kết luận: Nồng độ glucose máu ở BN ĐQN sau thời gian điều trị tại bệnh viện giảm có ý nghĩa không phụ thuộc vào có hay không có tăng glucose máu phản ứng trước đó, ở cả BN ĐTĐ và không ĐTĐ

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi nồng độ glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não giai đoạn cấp tính trước và sau điều trị tại bệnh viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi nồng độ glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não giai đoạn cấp tính trước và sau điều trị tại bệnh viện

Biến đổi nồng độ glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não giai đoạn cấp tính trước và sau điều trị tại bệnh viện
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
24 
BIẾN ĐỔI NỒNG ĐỘ GLUCOSE MÁU Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NÃO 
GIAI ĐOẠN CẤP TÍNH TRƯỚC VÀ SAU ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN 
Nguyễn Văn Minh1, Phạm Quốc Toản2, Hoàng Trung Vinh2 
1. Bệnh viện Trưng Vương- TP. Hồ Chí Minh 
2. Học viện Quân y 
DOI: 10.47122/vjde.2020.38.4 
ABSTRACT 
Changes in blood glucose level in patients 
with acute stroke before and after treatment 
in the hospital 
Objectives: To assess changes in blood 
glucose level in patients with acute stroke 
before and after treatment in the hospital. 
Subjects and methods: 98 acute stroke 
patients treated with combined therapy 
including stroke treatment and use of insulin 
if having indication were evaluated variation 
in blood glucose level before and after 
treatment in the hospital. Results: After 
treatment, blood glucose level decreased in all 
participants including patients with or without 
stress hyperglycemia, diabetic or non-diabetic 
patients before stroke. Blood glucose level at 
the time of death of fatal patients was higher 
than that of non-fatal ones. Conclusions: Blood 
glucose level after treatment in stroke patients 
decreased significantly, did not depend on 
patients with or without stress hyperglycemia 
and diabetes mellitus before stroke. 
Keywords: stroke; ischemic stroke; 
hemorrhagic stroke; diabetes mellitus; stress 
hyperglycemia; 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá biến đổi nồng độ 
glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não (BN 
ĐQN) giai đoạn cấp tính trước và sau thời 
gian điều trị tại bệnh viện. Đối tượng và 
phương pháp: 98 BN ĐQN cấp tính được 
điều trị bằng các biện pháp phối hợp bao gồm 
điều trị ĐQN và sử dụng insulin nếu có chỉ 
định, được đánh giá biến đổi nồng độ glucose 
máu trước và sau thời gian điều trị tại bệnh 
viện. Kết quả: Nồng độ glucose máu giảm ở 
tất cả các đối tượng kể cả có hay không có 
tăng glucose máu phản ứng, ở BN đái tháo 
đường (ĐTĐ) hay không có ĐTĐ trước khi 
đột quỵ. Nồng độ glucose máu ở đối tượng tại 
thời điểm tử vong cao hơn so với đối tượng 
không tử vong. Kết luận: Nồng độ glucose 
máu ở BN ĐQN sau thời gian điều trị tại bệnh 
viện giảm có ý nghĩa không phụ thuộc vào có 
hay không có tăng glucose máu phản ứng 
trước đó, ở cả BN ĐTĐ và không ĐTĐ. 
Từ khóa: Đột quỵ não, nhồi máu não, 
chảy máu não, đái tháo đường, tăng glucose 
máu phản ứng. 
Chịu trách nhiệm chính: Hoàng Trung Vinh 
Ngày nhận bài:9/01/2020 
Ngày phản biện khoa học:12/01/2020 
Ngày duyệt bài: 28/02/2020 
Email: [email protected] 
ĐT: 0903201250 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đột quỵ não là biến cố cấp tính, nguy 
hiểm đến tính mạng, tỷ lệ ngày càng gia tăng, 
là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 
sau nhồi máu cơ tim cấp tính. Trong giai đoạn 
cấp của bệnh, cơ thể xuất hiện nhiều biến đổi 
ở các cơ quan, tổ chức hoặc quá trình chuyển 
hóa trong đó có rối loạn chuyển hóa 
carbohydrat. Dù là BN ĐTĐ hay không ĐTĐ 
trước khi xảy ra ĐQN đều có thể xuất hiện 
biến đổi nồng độ glucose máu trong đó có 
tăng glucose máu phản ứng. Theo khuyến cáo 
thì ở BN ĐQN giai đoạn cấp nếu glucose > 
7,8moml/l đều có chỉ định sử dụng insulin bởi 
vì trong glucose là yếu tố ảnh hưởng bất lợi 
đến tiến triển và tiên lượng bệnh. Đề tài 
nghiên cứu nhằm mục tiêu: Đánh giá biến 
đổi nồng độ glucose máu ở bệnh nhân đột 
quỵ não (BN ĐQN) giai đoạn cấp tính trước 
và sau thời gian điều trị tại bệnh viện. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
2.1. Đối tượng: 98 BN ĐQN giai đoạn cấp 
tính điều trị nội trú tại Bệnh viện Trưng 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
25 
Vương thành phố Hồ Chí Minh thuộc đối 
tượng nghiên cứu. 
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn 
+ Bệnh nhân được chẩn đoán ĐQN cấp tính. 
+ Bao gồm cả nhồi máu não hoặc chảy 
máu não. 
+ Thời gian nhập viện khác nhau kể từ khi 
xuất hiện triệu chứng của bệnh. 
+ Đột quị não được xác định theo tiêu 
chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới. 
+ Tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh ĐQN 
trên chụp cắt lớp vi tính sọ não. 
+ Đột quị lần đầu hoặc tái phát. 
+ Bệnh nhân được hoặc chưa chẩn đoán 
bệnh ĐTĐ trước khi đột quị. 
+ Đã hoặc chưa được điều trị trước khi 
nhập viện. 
+ Bệnh nhân và/hoặc gia đình đồng ý tham 
gia nghiên cứu. 
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng 
+ Đột quị do phình mạch hoặc dị dạng 
thông động - tĩnh mạch não. 
+ Bệnh nhân u não. 
+ Có tiền sử chấn thương sọ não. 
+ Đã được truyền dung dịch huyết thanh 
ngọt trước khi đưa vào nghiên cứu. 
+ Đã được sử dụng các thuốc điều trị ĐTĐ 
cả thuốc uống hoặc tiêm. 
+ Tử vong trong vòng 24 giờ kể từ khi 
nhập viện. 
+ Không thu thập đủ các chỉ số theo yêu 
cầu của nghiên cứu nhất là glucose máu tĩnh 
mạch, HbA1c. 
2.2. Phương pháp 
Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, theo dõi dọc 
trong thời gian bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. 
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 
+ Khai thác bệnh sử. 
+ Khám và theo dõi biểu hiện lâm sàng, 
trong thời gian điều trị tại bệnh viện. 
+ Thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán 
bệnh trong đó có chụp cắt lớp vi tính bao gồm 
CT hoặc MRI. 
+ Tiến hành điều trị BN dựa vào thể bệnh, 
mức độ và biểu hiện của BN, mang tính cá 
thể hóa. Nếu tại thời điểm nhập viện dù trước 
đó đã chẩn đoán có hay không có ĐTĐ khi 
glucose > 7,8mmol/l sẽ được sử dụng insulin 
liều lượng tương ứng. 
+ Xét nghiệm glucose máu trước và sau 
thời gian điều trị hoặc tại thời điểm tử vong ở 
bệnh viện. 
2.2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán, phân loại 
sử dụng trong nghiên cứu. 
+ Chẩn đoán ĐQN và thể đột quỵ theo tiêu 
chuẩn của tổ chức Y tế Thế giới. 
+ Đánh giá rối loạn ý thức theo thang điểm 
Glassgow. 
Bảng 2.1. Tình trạng glucose máu ở bệnh nhân đột quỵ não cấp [80] 
Biểu hiện 
Glucose máu lúc 
nhập viện 
HbA1c lúc 
nhập viện 
Tăng glucose máu phản ứng Tăng Bình thường 
Rối loạn dung nạp glucose/ĐTĐ kết hợp với tăng 
glucose máu phản ứng 
Tăng Tăng 
Rối loạn dung nạp glucose/ĐTĐ không kèm theo 
tăng glucose máu phản ứng 
Bình thường Tăng 
Không có tăng glucose máu phản ứng Bình thường Bình thường 
Xác định tăng glucose máu ngẫu nhiên lúc nhập viện > 6,0 mmol/l, HbA1c≥ 5,7%. 
2.2.3. Xử lý số liệu và đạo đức y học trong nghiên cứu. 
+ Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 với việc xác định và so sánh giá trị trung bình, tỷ lệ %. 
+ Nghiên cứu không vi phạm đạo đức y học, không ảnh hưởng đến quá trình điều trị. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
26 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 3.1. Tỷ lệ BN tại thời điểm kết thúc nghiên cứu 
Biểu hiện Số lượng (n) Tỷ lệ (%) 
Không tử vong 80 81,6 
Tử vong 18 18,4 
Tỷ lệ tử vong của BN trong thời gian điều trị tại bệnh viện thấp hơn so với không tử vong. 
Bảng 3.2. So sánh nồng độ glucose máu khi nhập viện so với khi xuất viện 
hoặc tử vong (n=98) 
Thời điểm Glucose máu (mmol/l) p 
Khi nhập viện 10,52±5,75 
p=0,0001 
Khi xuất viện hoặc tử vong 7,29±3,52 
Nồng độ glucose máu trung bình khi xuất viện hoặc tử vong giảm có ý nghĩa so với khi nhập 
viện. 
Bảng 3.3. So sánh GTTB glucose khi nhập viện và khi xuất viện hoặc tử vong 
theo các tình trạng đánh giá ban đầu. 
Biểu hiện 
Glucose khi 
nhập viện 
(mmol/l) 
Glucose khi xuất 
viện hoặc tử 
vong (mmol/l) 
p 
Tăng glucose máu phản ứng (n= 5) 4,76±0,44 4,44±0,74 >0,05 
RLDNG/ĐTĐ kết hợp tăng glucose máu 
phản ứng (n=15) 
8,19±1,75 6,46±2,98 <0,05 
RLDNG/ĐTĐ kết hợp tăng glucose máu 
phản ứng không kèm theo tăng glucose 
máu phản ứng (n=10) 
4,94±1,1 5,43±1,6 >0,05 
Không có tăng glucose máu phản ứng 
(n=68) 
12,25±5,97 7,95±3,74 <0,05 
Tổng cộng (n=98) 10,52±5,75 7,29±3,52 <0,001 
+ Nồng độ glucose máu ở đối tượng rối loạn dung nạp glucose/ĐTĐ kết hợp tăng glucose 
máu phản ứng và tình trạng glucose máu bình thường tại thời điểm nhập viện đều giảm có ý 
nghĩa khi xuất viện hoặc tử vong. 
+ Nồng độ glucose máu ở đối tượng tăng glucose máu phản ứng và rối loạn dung nạp glucose 
/ĐTĐ không kèm theo tăng glucose máu phản ứng tại thời điểm nhập viện khác biệt không có ý 
nghĩa so với khi xuất viện khi tử vong. 
Bảng 3.4. So sánh GTTB glucose khi nhập viện với khi xuất viện hoặc tử vong 
ở bệnh nhân ĐTĐ và không ĐTĐ. 
Đối tượng Thời điểm Glucose (mmol/l) p 
Không ĐTĐ (n=7) 
Khi vào viện 8,71±3,18 
<0,05 
Khi xuất viện 5,60±1,09 
ĐTĐ (n=91) 
Khi vào viện 10,64±5,89 
<0,05 
Khi xuất viện 7,41±3,61 
Nồng độ glucose máu khi xuất viện hoặc tử vong đều giảm hơn có ý nghĩa khi nhập viện. 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
27 
Bảng 3.5. So sánh GTTB glucose, HbA1c giữa bệnh nhân xuất viện và tử vong 
Tình trạng Đối tượng Glucose (mmol/l) p 
Glucose khi nhập viện 
Tử vong (n=18) 12,37±6,04 
>0,05 
Không tử vong (n=80) 10,08±5,63 
Glucose khi xuất viện hoặc tử 
vong 
Tử vong (n=18) 8,93±5,56 
<0,05 
Không tử vong (n=80) 6,92±2,98 
HbA1c khi nhập viện 
Tử vong (n=18) 7,53±2,48 
>0,05 
Không tử vong (n=80) 7,25±2,1 
+ Nồng độ glucose máu ở bệnh nhân tử vong tại thời điểm kết thúc nghiên cứu cao hơn so 
với bệnh nhân không tử vong. 
+ Nồng độ glucose, HbA1c ở bệnh nhân tử vong tại thời điểm kết thúc nghiên cứu khác biệt 
không có ý nghĩa so với bệnh nhân không tử vong. 
Bảng 3.6. So sánh tỷ lệ BN dựa vào mức glucose máu giữa nhóm tử vong và nhóm xuất viện 
Glucose máu (mmol/l) 
Tử vong Xuất viện 
p 
n % n % 
<5,6 (n= 36) 5 27,8 31 36,7 
>0,05 
5,6-6,0 (n=6) 0 0 6 6,1 
6,1-7,0 (n=19) 3 16,7 16 20,0 
>7,0 (n=37) 10 55,6 27 33,8 
Tổng cộng (n=98) 18 100 80 100 
Tỷ lệ BN dựa vào các mức glucose ở đối tượng tử vong và xuất viện khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê. 
Bảng 3.7. So sánh mức glucose máu giữa BN ĐTĐ và không ĐTĐ 
tại thời điểm kết thúc nghiên cứu. 
Biểu hiện 
Không ĐTĐ ĐTĐ 
p 
n % n % 
Glucose < 7mmol/l (n=61) 6 9,8 55 90,2 
>0,05 
Glucose ≥ 7 mmol/l(n=37) 1 2,7 36 97,3 
Tổng cộng (n=98) 7 7,1 9 92,9 
Mức glucose máu tại thời điểm kết thúc nghiên cứu liên quan không có ý nghĩa với đái tháo 
đường. 
4. BÀN LUẬN 
Với thời gian nằm điều trị tại bệnh viện 
ngắn nhất là 2 ngày, dài nhất là 20 ngày đã 
có18,4% trường hợp tử vong. Đây có thể 
cũng là tỷ lệ tử vong không cao do ngày nay 
có nhiều biện pháp điều trị tích cực, tiến bộ, 
nhiều loại thuốc tốt cùng các biện pháp theo 
dõi, chăm sóc chuẩn mực. Trong số BN xuất 
viện hoặc nói đúng hơn là không tử vong thì 
cũng có một kết quả khá khả quan với 
71,25% trường hợp được đánh giá là hồiphục 
tốt; 28,75% trường hợp tại thời điểm xuất 
viện còn biểu hiện liệt, yếu chi ở các mức độ 
khác nhau. Như vậy có thể nhận định kết quả 
điều trị BN đột quỵ não cấp trong đề tài này 
là tương đối tốt, chứng tỏ các biện pháp áp 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020 
28 
dụng điều trị là chuẩn mực cùng sự chăm sóc 
điều dưỡng tốt. Mặc dù tỷ lệ BN đột quỵ não 
có mắc đái tháo đường chiếm tỷ lệ rất cao nên 
số trường hợp đối tượng được sử dụng insulin 
cũng chiếm tỷ lệ cao, lên đến 77,6% trường 
hợp. Tại cơ sở nghiên cứu các đồng nghiệp đã 
áp dụng khuyến cáo sử dụng insulin khi BN 
đột quỵ não có nồng độ glucose máu lúc nhập 
viện > 7,8mmol/l bất kể trước đó có hay 
không có đái tháo đường. Có thể do tác dụng 
của nhiều biện pháp phối hợp cũngnhư phản 
ứng thích nghi, bù trừ tự nhiên đối với tăng 
glucose máu phản ứng nên tính chung sau 
thời gian điều trị kể cả số BN tử vong thì 
nồng đô glucose máu trung bình giảm đáng 
kể, có ý nghĩa thống kê. 
Có một khuyến cáo được đưa ra và cũng 
giúp cho việc thực hiện dễ dàng là ở BN đột 
quỵ não dù trước đó có hay không có đái tháo 
đường thì cứ khi glucose máu tăng > 
7,8mmol/l đều có chỉ định điều trị bằng sử 
dụng insulin [1]. Có tác giả cho rằng điểm cắt 
glucose máu gây tử vong ở BN đột quỵ não 
không có đái tháo đường là > 113,5mg/dl, 
trong khi đó nếu ở BN đái tháo đường thì 
ngưỡng lại cao hơn > 210,5mg/dl. Tác giả 
giải thích mặc dù đều là đột quỵ não, đều có 
tăng glucose máu như nhau song ở BN đái 
tháo đường đã có phản ứng thích nghi, bù trừ 
với nồng độ glucose máu cao hơn do đó điểm 
cắt giới hạn của glucose máu gây tử vong ở 
đối tượng này cũng cao hơn [2]. Có tác giả lại 
nêu ra mức glucose máu đạt mục tiêu ở BN 
đột quỵ não nói chung là 5,5-11mmol/l [3]. 
Đặc biệt theo khuyến cáo của Hội Đái tháo 
đường Hoa Kỳ 2011 thì BN đột quỵ não cần 
kiểm soát glucose máu trong khoảng 140-
180mg/dl nếu đó là BN đã được chẩn đoán 
đái tháo đường trước khi đột quỵ, còn nếu 
không có đái tháo đường song lại biểu hiện 
tăng glucose máu phản ứng thì mục tiêu kiểm 
soát cần được hạ xuống mức thấp hơn, tương 
ứng 80-140mg/dl [4]. 
Nếu tính riêng BN đái tháo đường và 
không đái tháo đường trước thời điểm nghiên 
cứu nhận thấy nồng độ glucose máu khi kết 
thúc nghiên cứu đều giảm có ý nghĩa thống kê 
ở cả hai phân nhóm. 
Kết quả trên đây là sự phối hợp của nhiều 
biện pháp bao gồm điều trị bệnh chính là đột 
quỵ não, tiết chế ăn uống, sử dụng thuốc 
chống tăng glucose máu bằng insulin cùng 
với phản ứng thích nghi, tự điều chỉnh của cơ 
thể đã làm cho nồng độ glucose máu giảm có 
ý nghĩa. 
Một kết quả cũng được cho là có sự phù 
hợp đó là liên quan glucose, HbA1c ở BN tử 
vong và không tử vong. Theo đó tại thời điểm 
nhập viên mặc dù nồng độ glucose ở đối 
tượng tử vong trong quá trình theo dõi có tăng 
cao hơn so với BN không tử vong, tuy vậy sự 
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Qua đó 
cho thấy tại thời điểm nhập viện thì nồng độ 
glucose là tương đương nhau. Tuy vậy khi so 
sánh nồng độ glucose máu trung bình khi xuất 
viện hoặc tử vong giữa 2 phân nhóm tử vong 
và không tử vong lại nhận thấy sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê. Theo đó nồng độ glucose 
máu ở những trường hợp tử vong cao hơn có 
ý nghĩa so với những đối tượng không tử 
vong. Kết quả trên đây cũng phù hợp với 
những nhận xét đánh giá tiên lượng kém khi 
tăng glucose máu của nhiều tác giả. Tăng 
glucose máu là yếu tố tiên lượng tử vong xấu 
và khả năng hồi phục thần kinh của BN đột 
quỵ não. Tác giả cho thấy khi nồng độ 
glucose > 8,0mmol/l là yếu tố tiên lượng xấu 
tương quan nghịch với mức độ nặng của bệnh 
[5]. Trong đó đánh giá tại thời điểm nhập viện 
giữa hai phân nhóm tử vong và không tử vong 
nhận thấy giá trị trung bình của HbA1c khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Kết quả trên cũng cho thấy tại thời điểm 
nhập viên cả nồng độ glucose và HbA1c giữa 
2 phân nhóm tử vong và không tử vong là 
tương đương nhau. Sự khác biệt chỉ nhận thấy 
tại thời điểm xuất viện hoặc tử vong chỉ riêng 
đối với glucose máu. 
5. KẾT LUẬN 
Biến đổi nồng độ glucose máu sau thời 
gian điều trị tại bệnh viện. 
+ Nồng độ glucose máu giảm có ý nghĩa. 
+ Đối tượng có rối loạn dung nạp 
glucose/đái tháo đường có tăng glucose máu 
phản ứng và không có tăng glucose máu phản 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 38 - Năm 2020. 
29 
ứng đơn thuần tại thời điểm nhập viện có 
nồng độ glucose máu giảm. 
+ Giảm nồng độ glucose sau thời gian điều 
trị tại bệnh viện (kể cả bệnh nhân tử vong) 
nhận thấy ở cả bệnh nhân đái tháo đường và 
không đái tháo đường trước khi đột quỵ não. 
+ Nồng độ glucose máu ở đối tượng tại 
thời điểm tử vong cao hơn có ý nghĩa so với 
đối tượng không tử vong. 
+ Tỷ lệ biến đổi các mức glucose máu liên 
quan không có ý nghĩa giữa bệnh nhân tử 
vong và không tử vong. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Godoy DA, Soler C, Videtta W, et al. 
(2012).“Hyperglycemia in nondiabetic 
patients during the acute phase of 
stroke”. Arquivos de Neuro - Psiquiatria, 
70(2), doi.10.1590. 
2. Snarska K, Hanna B, et al. (2017). 
“Hyperglycemia and diabetes have 
different impacts on outcome of ischemic 
and hemorrhagic stroke”. Atch Med Sci, 
13(1), pp.100-108. 
3. Nadya K, Shmuel L, Hilla K (2001). 
“The role of hyperglycemia in acute 
stroke”. Arch Neurol, 58(8), pp.1209-
1212. 
4. Baker L, Juneja R, Bruno A (2011). 
“Management of hyperglycemia in acute 
ischemic stroke”. Curr Treat Options 
Neurol, 13(6), pp.616-628. 
5. Mazighi M, Amarenco P (2001). 
“Hyperglycemia: a predictor of poor 
prognosis in acute stroke”. Diabetes 
Metab, 27(6), pp.718-720. 

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_nong_do_glucose_mau_o_benh_nhan_dot_quy_nao_giai_do.pdf