Biến đổi khí hậu và tác động xã hội của chúng đối với Việt Nam

Biến đổi khí hậu và nước biển dâng, hệ quả

của phát thải khí nhà kính, của tình trạng ấm

lên toàn cầu, một dạng thách thức an ninh phi

truyền thống, đang ngày càng trở nên nguy

hại hơn tới an ninh phát triển của bất kỳ quốc

gia nào. Đặc biệt, với tần suất và mức độ thiệt

hại tăng cao của thảm họa thiên nhiên liên tục

xảy ra gần đây trên khắp các châu lục, thì các

hệ lụy khôn lường từ biến đổi khí hậu cần

được nhận diện rõ nét hơn bao giờ hết.

pdf 8 trang phuongnguyen 5120
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi khí hậu và tác động xã hội của chúng đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi khí hậu và tác động xã hội của chúng đối với Việt Nam

Biến đổi khí hậu và tác động xã hội của chúng đối với Việt Nam
 BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI 
CỦA CHÚNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM 
LƯU NGỌC TRỊNH* 
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng, hệ quả 
của phát thải khí nhà kính, của tình trạng ấm 
lên toàn cầu, một dạng thách thức an ninh phi 
truyền thống, đang ngày càng trở nên nguy 
hại hơn tới an ninh phát triển của bất kỳ quốc 
gia nào. Đặc biệt, với tần suất và mức độ thiệt 
hại tăng cao của thảm họa thiên nhiên liên tục 
xảy ra gần đây trên khắp các châu lục, thì các 
hệ lụy khôn lường từ biến đổi khí hậu cần 
được nhận diện rõ nét hơn bao giờ hết. 
Biểu hiện của biến đổi khí hậu ở Việt 
Nam* 
Các nhà khoa học cho rằng, thế kỷ vừa 
qua, nhiệt độ trung bình của Trái đất đã tăng 
thêm 10C do việc tích lũy các chất cácbon 
điôxít (CO2), mêtan (CH4) và các khí thải gây 
hiệu ứng nhà kính khác trong không khí (như 
N2O, HFCs, PFCs, SF6) - sản phẩm sinh ra từ 
việc đốt nhiên liệu hóa thạch trong các nhà 
máy, phương tiện giao thông và các nguồn 
khác. Tình trạng đó đã làm biến đổi khí hậu 
toàn cầu, diễn ra ở hầu như mọi nơi trên thế 
giới, và Việt Nam, dù không phải là thủ phạm 
chính, không phải là ngoại lệ. 
Từ vài thập kỷ gần đây, khí hậu ở Việt 
Nam đã có những biến đổi khác thường so 
với trước, điều đó được biểu hiện cụ thể như 
sau: 
- Lượng mưa gia tăng vào mùa mưa 
- Lũ đặc biệt lớn xảy ra thường xuyên hơn 
ở miền Trung và miền Nam 
- Lượng mưa giảm vào mùa khô 
* PGS.TS. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới. 
- Hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các 
khu vực của cả nước 
- Đường đi của bão có xu thế chuyển về 
phía Nam và mùa bão dịch chuyển vào các 
tháng cuối năm 
- Số ngày mưa phùn giảm đi rõ rệt 
- Tần số hoạt động của không khí lạnh ở 
Bắc bộ giảm rõ rệt trong 3 thập kỷ qua 
- Số ngày rét đậm, rét hại trung bình giảm, 
nhưng có năm lại xảy ra đợt rét đậm kéo dài 
với cường độ mạnh kỷ lục như đầu năm 2008 
- Số ngày nắng nóng trong thập kỷ 1991-
2000 nhiều hơn, nhất là ở Trung Bộ và Nam 
Bộ 
- Mưa trái mùa và mưa lớn dị thường xảy 
ra nhiều hơn, nổi bật là các đợt mưa tháng 11 
ở Hà Nội và lân cận trong các năm 1984, 
1996, 2008. 
Ở Việt Nam, kết quả thống kê và phân tích 
nhiều năm qua cho thấy, biến đổi khí hậu và 
nước biển dâng có những điểm đáng chú ý, 
nếu không muốn nói là dị thường. Trong 50 
năm qua (1958-2007) nhiệt độ trung 
bình/năm ở Việt Nam tăng lên khoảng 0,5 
đến 0,7oC. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh 
hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng 
khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng 
khí hậu phía Nam. Nhiệt độ trung bình năm 
của bốn thập niên gần đây (1961-2000) cao 
hơn trung bình năm của 3 thập niên trước đó 
(1931-1960). Xu thế biến đổi của lượng mưa 
trung bình/năm trong 9 thập niên (1911-2000) 
không rõ rệt theo các thời kỳ và trong các 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
50 
vùng khác nhau, có giai đoạn tăng lên và có 
giai đoạn giảm xuống. 
Lượng mưa/năm giảm ở các vùng khí hậu 
phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía 
Nam. Tính trung bình trong cả nước, lượng 
mưa/năm trong 50 năm qua (1958-2007) 
giảm xuống khoảng 2%. Số đợt không khí 
lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam giảm đi rõ rệt 
trong hai thập niên qua. Tuy nhiên, các biểu 
hiện dị thường lại xuất hiện với tần suất cao 
hơn mà gần đây là đợt không khí lạnh gây rét 
đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và 
tháng 2 năm 2008 ở Bắc bộ. 
Những năm gần đây, bão có cường độ 
mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ đạo bão có 
dấu hiệu dịch chuyển dần về phía Nam và mùa 
bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn bão có 
đường đi dị thường hơn. Số ngày mưa phùn 
trung bình/năm ở Hà Nội giảm dần từ thập 
niên 1981-1990 và chỉ còn gần một nửa (15 
ngày/năm) trong 10 năm gần đây. Về mực 
nước biển, số liệu quan trắc tại các trạm hải 
văn dọc ven biển Việt Nam cho thấy tốc độ 
dâng lên của mực nước biển trung bình 
là khoảng 3 mm/năm (giai đoạn 1993-2008), 
tương đương với tốc độ tăng trung bình trên 
thế giới. Trong 50 năm qua, mực nước biển tại 
trạm hải văn Hòn Dấu dâng lên khoảng 20 cm. 
Kịch bản biến đổi khí hậu nào cho Việt 
Nam? 
Trên thế giới, người ta đã đưa ra những 
kịch bản khác nhau về biến đổi khí hậu và 
nước biển dâng và chỉ ra những nguy cơ khác 
nhau đối với từng khu vực và quốc gia. Riêng 
đối với Việt Nam, có thể nói, dù cho có bất 
kỳ điều gì xảy ra, kể từ những kịch bản lạc 
quan nhất đến bi quan nhất thì Việt Nam cũng 
vẫn là một trong 5 nước trên thế giới (và một 
trong hai nước đang phát triển) bị ảnh hưởng 
nặng nề nhất trước vấn đề BĐKH bởi 2 lý do: 
Thứ nhất, Việt Nam có bờ biển dài 
(3.500km), với 2 đồng bằng được xem là 
thấp, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long là 
vựa lúa không chỉ của Việt Nam mà của cả 
thế giới, nếu nước biển dâng cao ở bất cứ 
mức độ nào đều sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống 
của hàng chục triệu dân ngay lập tức. 
Thứ hai, Việt Nam nằm trong trung tâm 
bão Tây - Tây Bắc Thái Bình Dương, trung 
tâm bão lớn nhất thế giới. Hàng năm số lượng 
bão đổ bộ vào Việt Nam với tần suất và 
cường độ cao hơn so với những năm trước, 
thiên tai xảy ra dồn dập, thiệt hại rất lớn và 
khắc phục không dễ dàng. Việt Nam cũng 
như các nước Đông Nam Á nằm trong vùng 
rất dễ tổn thương trong mọi trường hợp, nên 
hơn bao giờ hết, chúng ta phải đề ra được 
những biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu 
quả. 
Theo kịch bản do Bộ Tài nguyên Môi 
trường công bố, có 3 khả năng tương ứng với 
các mức thấp, trung bình, cao cho biến đổi 
khí hậu và nước biển dâng ở Việt Nam. Với 
kịch bản đầu tiên, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt 
độ trung bình trên cả nước tăng từ 1,1-1,9 độ; 
nước biển dâng 65 cm khiến hơn 5.100 km2 
đất tại đồng bằng sông Cửu Long (gần 13% 
diện tích) chìm dưới mặt nước. Với kịch bản 
thứ 3, nhiệt độ có thể tăng tới 3,6 độ C; nước 
biển dâng cao 1 mét và nhấn chìm hơn 1/3 
diện tích đồng bằng sông Cửu Long. 
Tuy nhiên, hai kịch bản này được đánh giá 
ít khả năng xảy ra hơn kịch bản còn lại. Theo 
đó, với kịch bản phát thải trung bình, cuối thế 
kỷ 21, nhiệt độ trong năm tăng từ 1,6 tới 2,8 
độ C (tùy khu vực); tổng lượng mưa năm và 
lượng mưa mùa mưa tăng trong khi lượng 
mưa mùa khô giảm,... Tương ứng, nước biển 
dâng 75 cm đưa 1/5 diện tích đồng bằng sông 
Cửu Long xuống dưới mực nước biển.1 
Theo phân tích của các nhà khoa học, do 
tính phức tạp của biến đổi khí hậu và những 
Vài nét về biến đổi khí hậu 
51 
hiểu biết chưa thật đầy đủ về biến đổi khí hậu 
của Việt Nam cũng như trên thế giới, cùng 
với yếu tố tâm lý, kinh tế, xã hội, tính chưa 
chắc chắn về các kịch bản phát thải khí nhà 
kính, tính chưa chắc chắn của kết quả mô 
hình tính toán xây dựng kịch bản, nên kịch 
bản hài hòa nhất là kịch bản trung bình. Kịch 
bản này được khuyến nghị cho các Bộ, ngành 
và địa phương làm định hướng ban đầu để 
đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, nước 
biển dâng và xây dựng kế hoạch hành động 
ứng phó với biến đổi khí hậu. 
Căn cứ vào kịch bản này, tình trạng khí hậu 
của Việt Nam đến năm 2100 so với trung bình 
giai đoạn 1980-1999 sẽ có sự thay đổi. Cụ 
thể nhiệt độ tăng 2 đến 3oC trên phần lớn diện 
tích cả nước. Riêng khu vực Đông bắc, Bắc 
Trung Bộ và Tây Nguyên có nhiệt độ tăng 
nhanh hơn so với những nơi khác. Lượng 
mưa/năm tăng trên hầu khắp lãnh thổ. Mức 
tăng phổ biến từ 10-20%, riêng Tây Nguyên, 
Nam Trung Bộ từ 5-10%. Lượng mưa mùa 
khô giảm (có nơi đến 30%) và lượng mưa mùa 
mưa tăng (có nơi từ 20-30%). Ở các khu vực 
khác nhau lại có thể xuất hiện những ngày 
mưa dị thường với lượng mưa gấp đôi so với 
kỷ lục hiện nay. Mực nước biển cao nhất ở 
vùng từ Cà Mau đến Kiên Giang (82 cm), thấp 
nhất ở vùng Móng Cái (64 cm). Trung 
bình toàn Việt Nam là 72,6 cm. 
Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất 
thấp và tiếp giáp với biển Đông thông qua rất 
nhiều cửa sông lớn. Đây là vùng sản xuất 
lương thực lúa gạo chủ yếu cho an ninh lương 
thực quốc gia và là nơi sinh cư của hơn 17 
triệu dân. Vào mùa mưa với vũ lượng lớn, 
mực nước biển dâng cao, nước ở thượng 
nguồn sông Mekong đổ về nhiều sẽ gây ra lụt 
lội trên diện rộng. Mùa nắng, mực nước biển 
dâng cao, kết hợp với nguồn nước sông 
Mekong cạn kiệt do các đập chặn dòng trên 
thượng nguồn làm cho nước biển xâm nhập 
sâu hơn vào trong nội đồng. Đầu mùa mưa 
cần nhiều nước ngọt hơn và thời gian lâu hơn 
để rửa mặn. Vũ lượng ít, mực thủy cấp thấp, 
nhiệt độ cao, nước bốc hơi nhanh, dẫn đến 
những vùng đất phèn được hình thành rộng 
hơn. Nguồn nước ngọt mùa nắng cạn kiệt sẽ 
giảm nguồn nước tưới cho trồng trọt và cho 
sinh hoạt của người dân, đặc biệt là ở vùng 
ven biển và bán đảo Cà Mau. 
Những hậu quả của BĐKH đối với Việt 
Nam 
Theo đánh giá của các chuyên gia, tác 
động hay hậu quả gây ra bởi biến đổi khí hậu 
đối với Việt Nam đã rất rõ nét: Không chỉ tàn 
phá môi trường sinh thái, gây thiệt hại to lớn 
đối với nền kinh tế (thậm chí tới 10% GDP, 
tàn phá nghiêm trọng các cơ sở hạ tầng như 
đường xá, hệ thống điện nước, thuỷ lợi,...)2, 
đối với an ninh lương thực, cũng như quan hệ 
quốc tế, mà còn gây ra những hậu quả tai hại 
khác về mặt xã hội3. Cụ thể như sau: 
- BĐKH và nước biển dâng, trước hết là 
thiên tại, đặc biệt là, hiện tượng El Nino và 
La Nina ngày càng tác động mạnh mẽ đến 
thời tiết Việt Nam, gây ra bão, lũ và hạn hán 
ngày càng khốc liệt. Thậm chí nó có thể tác 
động tới 10-12% dân số Việt Nam, nhất là 
những cộng đồng dân cư sống dọc các địa 
phương ven biển và ở hai đồng bằng sông 
Hồng và sông Cửu Long. Họ có thể bị mất 
đất, mất địa bàn sinh sống, phải di cư tìm nơi 
ở và làm ăn mới4. Đây chính là nguy cơ đe 
dọa làm gia tăng sự phân hoá mức sống dân 
cư, làm cản trở và làm chậm quá trình xoá đói 
giảm nghèo, đặc biệt ở những vùng thường 
xuyên phải đối mặt với thiên tai. Trung bình 
mỗi năm có hàng triệu lượt người cần cứu trợ 
do bị thiên tai. Nhiều người trong số họ vừa 
mới thoát khỏi nghèo đói thì lại bị tái nghèo 
bởi thiên tai. Nếu điều đó xảy ra, mà không 
có giải pháp xoá nghèo bền vững thì mục tiêu 
xóa đói giảm nghèo, cung như việc thực hiện 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
52 
mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền 
vững của đất nước, sẽ bị chậm lại hay thậm 
chí phá sản. 
Đồng bằng sông Cửu Long, với trên 80% 
diện tích mặt đất có độ cao thấp hơn 2,5m so 
với mặt nước biển, được đánh giá là khu vực 
sẽ gánh chịu nhiều tác hại xấu do BĐKH. 
BĐKH đã gây ra nhiều thay đổi về mực nước 
và tình hình xâm nhập mặn. Theo một nghiên 
cứu do một nhóm chuyên gia của ĐH Hoàng 
gia Thái Lan sử dụng phần mềm IPCC, dự 
báo đến năm 2100 khí hậu sẽ càng khắc 
nghiệt hơn. Nhiệt độ không khí không phải 
chỉ tăng 30C mà sẽ tăng lên 4 - 50C , số ngày 
có nhiệt độ cao hơn 350C sẽ tăng lên đến 240 
ngày/năm. Những đợt sóng nhiệt dâng cao có 
thể lên đến 400C, thậm chí là 450C. Vào mùa 
mưa, mực nước biển Đông sẽ cao hơn hiện 
nay khoảng 1m, khiến mực nước lũ của 
ĐBSCL sẽ tăng thêm khoảng gần 2m so với 
mức lũ hiện nay.5 
- Đối với sức khoẻ con người 
Hậu quả tác động của biến đổi khí hậu đã 
được Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí 
hậu (IPPC) khẳng định thông qua các dạng 
thiên tai như: sóng, nhiệt, nóng, lũ lụt, hán 
hán... gây ra chết chóc và bệnh tật. 
Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực 
đối với sức khoẻ con người, dẫn đến gia tăng 
một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc 
bệnh tim mạch, bệnh thần kinh. Tình trạng 
nóng lên làm thay đổi cấu trúc mùa nhiệt 
hàng năm. Ở miền Bắc, mùa đông sẽ ấm lên, 
dẫn tới thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học 
của con người. Đặc biệt là các căn bệnh gia 
tăng dưới tác động của nhiệt như: sốt rét, sốt 
xuất huyết, viêm não (truyền qua muỗi); các 
bệnh đường ruột (qua môi trường nước), các 
bệnh suy dinh dưỡng, bệnh phổi... Những 
bệnh này ảnh hưởng lớn đến các vùng kinh tế 
kém phát triển, đông dân và có tỷ lệ đói 
nghèo cao6... 
BĐKH làm tăng khả năng xảy ra một số 
bệnh nhiệt đới: sốt rét, sốt xuất huyết, làm 
tăng tốc độ sinh trưởng và phát triển nhiều 
loại vi khuẩn và côn trùng, vật chủ mang 
bệnh, làm tăng số lượng người bị bệnh nhiễm 
khuẩn dễ lây lanThiên tai như bão, tố, nước 
dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và sạt lở đất 
v.v gia tăng về cường độ và tần số làm tăng 
số người bị thiệt mạng và ảnh hưởng gián tiếp 
đến sức khoẻ thông qua ô nhiễm môi trường, 
suy dinh dưỡng, bệnh tật do những đổ vỡ của 
kế hoạch dân số, kinh tế - xã hội, cơ hội việc 
làm và thu nhập. Những đối tượng dễ bị tổn 
thương nhất là những nông dân nghèo, các 
dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em 
và phụ nữ. 
- Đối với giáo dục 
BĐKH và thiên tai ảnh hưởng đến phát 
triển giáo dục, phá hoại cơ sở hạ tầng giáo 
dục, làm gián đoạn thời gian đến trường của 
học sinh, đặc biệt là ở những khu vực miền 
núi và đồng bằng sông Cửu Long, những 
vùng thuộc dân tộc thiểu số, nghèo đói và khó 
khăn. 
- Đối với văn hoá, thể thao, du lịch, thương 
mại và dịch vụ 
BĐKH có tác động trực tiếp đến các hoạt 
động văn hoá, thể thao, du lịch, thương mại 
và dịch vụ, có ảnh hưởng gián tiếp thông qua 
các tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác 
như giao thông vận tải, xây dựng, nông 
nghiệp, sức khoẻ cộng đồng 
Nước biển dâng ảnh hưởng đến các bãi tắm 
ven biển, một số bãi có thể mất đi, một số 
khác bị đẩy sâu vào đất liền, ảnh hưởng đến 
việc khai thác, làm tổn hại đến các công trình 
di sản văn hoá, lịch sử, các khu bảo tồn, các 
khu du lịch sinh thái, các sân golf ở vùng thấp 
ven biển và các công trình hạ tầng liên quan 
khác có thể bị ngập, di chuyển hay ngừng trệ 
làm gia tăng chi phí cho việc cải tạo, di 
Vài nét về biến đổi khí hậu 
53 
chuyển và bảo dưỡng. Nhiệt độ tăng và sự rút 
ngắn mùa lạnh làm giảm tính hấp dẫn của các 
khu du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng trên núi 
cao, trong khi mùa du lịch mùa hè có thể kéo 
dài thêm. 
- Đối với tầng lớp dễ bị tổn thương 
BBĐKH và thiên tai còn gây nhiều ảnh 
hưởng bất lợi đối với các nhóm dân cư dễ bị 
tổn thương như: người già, yếu, người tàn tật, 
phụ nữ và trẻ em. 
Ứng phó 
Biến đổi khí hậu là thách thức nghiêm 
trọng nhất đối với toàn nhân loại, ảnh hưởng 
sâu sắc và làm thay đổi toàn diện đời sống xã 
hội toàn cầu như năng lượng, nước, lương 
thực, xã hội, việc làm, chính trị, ngoại giao, 
kinh tế, thương mại. Là một trong những 
nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, Việt Nam 
coi ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề có 
ý nghĩa sống còn. Bởi nhiệt độ tăng, mực 
nước biển dâng sẽ gây ngập lụt, nhiễm mặn, 
nguồn nước ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây 
rủi ro lớn đối với công nghiệp và các hệ thống 
kinh tế - xã hội trong tương lai. 
Những thực tế trên đã khẳng định, sự hiện 
hữu của biến đổi khí hậu ở Việt Nam đã và 
đang trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Do đó, 
ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam 
phải gắn liền và hướng tới phát triển bền 
vững, dựa trên nền kinh tế cacbon thấp và 
tăng trưởng xanh, tận dụng các cơ hội để đổi 
mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức 
mạnh quốc gia; tiến hành đồng thời giảm 
thiểu phát thải khí nhà kính và thích ứng với 
biến đổi khí hậu, trong đó thích ứng ở những 
thập kỷ đầu thế kỷ XXI phải là trọng tâm. 
Trong ứng phó với biến đổi khí hậu các 
giải pháp phải có tính tích hợp, hệ thống, 
đồng bộ, liên ngành, liên vùng, kết hợp giữa 
toàn cầu và quốc gia, ưu tiên trọng tâm, trọng 
điểm, phù hợp với từng giai đoạn; cân nhắc 
đầy đủ trên cơ sở khoa học, hiệu quả kinh tế 
và tính đến các yếu tố rủi ro, bất định của 
biến đổi khí hậu, hài hòa giữa lợi ích các bên; 
kết hợp các giải pháp kỹ thuật và các giải 
pháp mang tính xã hội, văn hóa; kết hợp giữa 
kiến thức khoa học và tri thức bản địa. 
Các nhiệm vụ trọng tâm 
Trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí 
hậu đến năm 2050 và tầm nhìn đến năm 2100, 
nhiệm vụ cấp bách nhất là lập bản đồ ngập lụt 
tương ứng với các kịch bản về nước biển 
dâng, điều chỉnh quy hoạch thủy lợi vùng 
Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông 
Hồng; triển khai các giải pháp chống xâm 
nhập mặn hiệu quả cho các vùng cửa sông để 
đảm bảo ổn định phát triển kinh tế, kết hợp 
với củng cố nâng cấp hệ thống đê sông, đê 
biển ở các đoạn xung yếu nhất, các dự án 
chống ngập cho các thành phố, đô thị lớn. 
Mặt khác, xây dựng hệ thống giám sát biến 
đổi khí hậu và nước biển dâng với độ chính 
xác cao, gắn với hệ thống thông tin địa lý, 
thông tin viễn thám thành một bản đồ rủi ro 
thiên tai, rủi ro khí hậu và nước biển dâng 
phục vụ công tác hoạch định chính sách, các 
hoạt động thích ứng từ Trung ương đến địa 
phương. 
Bên cạnh việc nghiên cứu xác định và từng 
bước triển khai các giải pháp cụ thể để phòng 
chống hiệu quả thiên tai, lũ quét và sạt lở đất 
ở miền núi. Cần đẩy mạnh hơn nữa tiến độ 
thực hiện các dự án trồng rừng, tái trồng rừng, 
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào 
trồng rừng kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020 
thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử 
dụng bền vững 16,24 triệu ha đất được quy 
hoạch cho lâm nghiệp, nâng tỷ lệ đất có rừng 
lên 47%, quản lý bền vững và có hiệu quả 8,4 
triệu ha rừng sản xuất, 5,68 triệu ha rừng 
phòng hộ và 2,16 triệu ha rừng đặc dụng; 
GDP của ngành lâm nghiệp đạt khoảng 2-3% 
GDP quốc gia. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
54 
Hoàn thành xây dựng các chương trình 
chiến lược năng lượng quốc gia trung và dài 
hạn và các chương trình đặc biệt cho các 
ngành quan trọng như than, dầu khí, năng 
lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân nhằm đảm 
bảo cung cấp năng lượng ổn định và phát 
triển năng lượng sạch về lâu dài. Thực hiện rà 
soát, điều chỉnh thích hợp, có cơ sở khoa học 
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tổng thể 
phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, các bộ, 
ngành, địa phương và hoàn thành vào năm 
2015. 
Hiện đại hóa hệ thống quan trắc và công 
nghệ dự báo khí tượng thủy văn bảo đảm 
cảnh báo, dự báo sớm các hiện tượng khí hậu 
cực đoan. Đến năm 2015 phát triển mạng lưới 
quan trắc khí tượng thủy văn đồng bộ, có mật 
độ trạm tăng ít nhất 50% so với hiện nay và 
tự động hóa 75% số trạm. Nâng thời hạn dự 
báo bão, áp thấp nhiệt đới lên 72 giờ, giảm 
50% thiệt hại về người do các hiện tượng khí 
hậu cực đoan gây ra so với trung bình năm 
1990-2000. 
Giải pháp thực hiện 
Cựu Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi 
trường Phạm Khôi Nguyên đã khẳng định, để 
thích ứng với biến đổi khí hậu, việc đầu tiên 
là phải đảm bảo các nguồn lực tài chính. Theo 
đó, ngân sách nhà nước tăng mức đầu tư cho 
công tác này, nhất là đầu tư cho các dự án 
ứng phó cấp bách được triển khai có trọng 
tâm, trọng điểm đạt hiệu quả cao khắc phục 
tác động của biến đổi khí hậu. Đi đôi với chú 
trọng thu hút nguồn vốn, các cơ chế tài chính 
quốc tế phù hợp cho các dự án ứng phó với 
biến đổi khí hậu, ưu tiên sử dụng nguồn vốn 
ODA không hoàn lại trong việc nâng cao 
năng lực, chuyển giao công nghệ và kinh 
nghiệm quản lý. 
Xây dựng những cơ chế khuyến khích, huy 
động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp 
trong và ngoài nước tham gia cung cấp tài 
chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng 
cường sự tham gia của toàn hệ thống chính trị 
trong tổ chức chỉ đạo, phối hợp liên ngành về 
thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; 
hoàn thiện hệ thống thể chế tạo điều kiện cho 
người dân tham gia vào quá trình xây dựng 
văn bản pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch, 
quản lý và giám sát việc thực hiện Chương 
trình, dự án về biến đổi khí hậu tại các địa 
phương. 
Nâng cao năng lực, vị trí, vai trò của Việt 
Nam trong đàm phán quốc tế về biến đổi khí 
hậu. Đẩy mạnh hợp tác với các nước trong 
khu vực và trên thế giới trong quá trình thực 
hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về 
Biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto và các 
thỏa thuận, hiệp định quốc tế khác có liên 
quan; tích cực, chủ động, sáng tạo xây dựng 
các thỏa thuận, các hiệp định hợp tác quốc tế 
mới về thích ứng với biến đổi khí hậu và 
giảm nhẹ phát thải khí nhà kính 
____________________ 
Chú thích 
1. Khoa hoc̣.com.vn “Kịch bản biến đổi khí hậu: Hơn 
1/3 ĐBSCL bị ngập”,  
doisong/moi-truong/tham-hoa/24854_Kich-ban-bien-
doi-khi-hau-Hon-1-3-DBSCL-bi-ngap.aspx 
2. Theo tính toán, nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có 
khoảng 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 
90% diện tích trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long 
(ĐBSCL) bị ngập hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam 
bị ngập vĩnh viễn, đồng nghĩa với khoảng 20% xã trên 
cả nước, 9.200 km đường bộ bị xóa sổ... 
3. Việt Nam thường xuyên phải đối mặt với các loại 
hình thiên tai phổ biến như bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, 
hạn hán, rét đậm, rét hại. Nước ta nằm trong số 10 
nước hàng đầu về tần suất bị thiên tai trên thế giới. 
Những năm gần đây, thiên tai diễn ra bất thường, cực 
đoan hơn và gia tăng về quy mô. Theo thống kê, trong 
những năm từ 1996-2008, các loại thiên tai như bão, 
lũ, lũ quét, sạt lở đất, úng ngập hạn hán và các thiên 
tai khác đã làm chết và mất tích hơn 9.600 người. Giá 
trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% 
GDP/năm. Đặc biệt, năm 2009, thiệt hai do các đợt 
Vài nét về biến đổi khí hậu 
55 
thiên tai, lũ lụt trên cả nước gây ra là 23.745 tỷ đồng 
với 426 người chết, 28 người mất tích, 1.390 người bị 
thương cùng nhiều thiệt hại về nhà cửa, tài sản, hoa 
màu và các công trình công cộng. Con số này năm 
2010 là hơn 16.000 tỷ đồng. Thiên tai ngày càng xảy 
ra thường xuyên hơn, và tác động mạnh tới Việt Nam. 
Ngoài bão lũ, mưa lớn, sạt lở, xâm nhập mặn... các 
hiện tượng như động đất, sóng thần cũng luôn rình rập 
đe dọa cuộc sống của người dân. Trong năm 2010, đã 
xảy ra một số trận động đất cường độ nhẹ ở các tỉnh, 
thành như Cao Bằng, Thanh Hóa, Bình Thuận, Sơn 
La, Hà Tĩnh, Hà Nội Tuy chúng không gây thiệt hại 
gì về con người và vật chất nhưng đây là dấu hiệu cho 
thấy vỏ trái đất ở khu vực Việt Nam không hoàn toàn 
bình ổn. Theo số liệu thống kê trong 10 năm gần đây, 
trung bình mỗi năm thiên tai ở Việt Nam đã cướp đi 
450 người, thiệt hại về kinh tế ước tính từ 1,2 đến 1,5 
GDP, trong đó lũ lụt đã làm 270 người chết và mất 
tích. 
4. Theo báo cáo tại hội thảo "TP Đà Nẵng và biến 
đổi khí hậu" được tổ chức vào hôm 20.2.2011, trong 
30 năm nữa, khi mực nước biển dâng 30 cm thì sẽ có 
30.000 hộ với hơn 170.000 người ở 18 xã phường ven 
biển mất nhà ở. Cùng với nó là tình trạng nước biển 
dâng, triều cao làm ngập lụt ở đồng bằng sâu thêm, 
thời gian kéo dài hơn. Khi đó, số lượng nhà cửa vùng 
nông thôn bị ngập sẽ tăng lên 40.000 nhà, mức thiệt 
hại dự kiến sẽ gấp đôi lũ 1998. Khi diễn biến khí hậu, 
gió bão ngày một mạnh hơn thì vùng bờ biển nam 
Liên Chiểu, bắc Thanh Khê và ven Sơn Trà, Hòa Hải 
sẽ nằm trong đích ngắm của hà bá. Hiện tại, dòng 
chảy sông Yên đang cạn kiệt, nên tình trạng mặn đã 
xâm nhập sâu đến đập An Trạch, đe dọa và làm trầm 
trọng thêm mức độ thiếu nước ngọt cho sản xuất và 
sinh hoạt. Ước tính, sẽ có hơn 700.000 người dân nội 
thành sẽ thiếu nước sinh hoạt khi khả năng thiếu nước 
trên nhánh sông Ái Nghĩa đang ngày một báo động. 
Đi kèm với điều này là thảm họa cho đời sống và phát 
triển của thành phố khi hàng ngàn cơ sở sản xuất, dịch 
vụ bị đình trệ sản xuất. 
5. Ban chi ̉huy phòng chống bão luṭ TP. HCM, Việt 
Nam trước hiểm họa nước biển dâng cao 
cid=1452, ngày 10/3/2009. 
6. Cụ thể trong thời gian vừa qua, khí hậu nóng lên là 
nguyên nhân phát sinh 9 bệnh truyền nhiễm trên thế 
giới, trong đó có Việt Nam. Đó là các bệnh: (1) Bệnh 
cúm A(H1N1) hiện đang xảy ra. (2) Bệnh cúm 
A(H5N1): xảy ra từ tháng 12/2003 đến tháng 9/2008. 
(3) Bệnh sốt xuất huyết. (4) Bệnh sốt rét. (5) Bệnh tả: 
xảy ra vào các năm 2004, 2007, 2008. 6) Bệnh thương 
hàn. (7) Bệnh tiêu chảy. (8) Bệnh viêm não do virus. 
(9) Bệnh viêm đường hô hấp cấp tính (SARC), xảy ra 
vào 2003. Ở Việt Nam, thời gian qua nhiều bệnh và 
dịch bệnh đã bùng phát sau lũ lụt. Đơn cử như sau 
trận lũ tháng 6/2007 tại huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), 
có tới 3.000 người mắc bệnh ăn chân do nấm, 600 ca 
bị tiêu chảy và trên 2.000 người bị đau mắt hột. 
Tài liệu tham khảo 
1. Trung tâm Dư ̣báo Khí tươṇg thủy văn, Các kỷ luc̣ 
về Khí tươṇg thủy văn – Viêṭ Nam, 
VN/69/81/Default.aspx (Truy câp̣ ngày 20 tháng 5 
năm 2010). 
2. Phạm Văn Khánh (2010), Phát triển kinh tế xanh, 
Báo Nhân dân, ngày 10/03/2010. 
3. Tổng cuc̣ Môi trường, Hỏi đáp về Môi trường, 
ếnđổikhíhậulàgì.aspx (Truy câp̣ ngày 13 tháng 2 năm 
2010). 
4. Cục Khí tượng Thủy văn, Bộ Tài nguyên & Môi 
trường & Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh Quảng 
Bình, Hội thảo "Nâng cao nhận thức nhằm ứng phó 
với biến đổi khí hậu", ngày 5/3/2010. 
5. ĐHQGHN, Hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu 
lần đầu tiên tại Việt Nam của IPCC với chủ đề: “Quản 
lý rủi ro các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan 
nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu- SREX”, ngày 
22-25/3/2010. 
6. Đức Phường - Bùi Tuấn (2009), Cơn ác môṇg giữa 
thưc̣ taị, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội - số 219. 
7. Trường Đại Học Nông Lâm, Báo Cáo Chuyên Đề 
Biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, 
tháng 11/ 2009. 
8. Tổng cuc̣ Môi trường, Dự báo về biến đổi khí hậu 
của Liên hợp quốc, 
ngayle/tgshnd/Pages/Dựbáovềbiếnđổikhíhậucủaliênhợ
pquốc.aspx, ngày 28/08/2009. 
9. Tổng cuc̣ Môi trường, Nguyên nhân của BĐKH, 
ngayle/tgshnd/Pages/Nguyênnhâncủabiếnđổikhíhậu.as
px , ngày 28/8/2009. 
10. Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, 
Hội thảo Biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng 
phó của Việt Nam, Hà Nội, ngày 26/2/2008. 
11. Trần Thục, Lê Nguyên Tường, Nguyễn Văn 
Thắng, Trần Hồng Thái, Viện Khoa học Khí tượng 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 3/2012 
56 
Thủy văn và Môi trường, BĐKH và nghiên cứu về 
BĐKH ở Viêṭ Nam, Tham luâṇ Hội thảo Hướng tới 
Chương trình Hành động của ngành Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn nhằm giảm thiểu và thích ứng 
với Biến đổi khí hậu. 
12. Báo Đầu tư Viêṭ Nam, Lồng ghép ứng phó BĐKH 
vào hoạch định chính sách: Khó khăn bộn bề, 
23&lang=vi-VN. 
13. Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh, Khoa Tài 
nguyên và Môi trường, Báo cáo chuyên đề, Biến đổi 
khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tháng 11 
năm 2009. 
14. Hoàng Xuân Nhuận (dịch) (2009), “Biến động khí 
hậu”, Tạp chí Kinh tế Biển, ngày 13/08/2009. 
15. Vũ Việt (2009), “Biến đổi khí hậu – Hiểm họa của 
con người trong tương lai”, Báo Điện tử Bộ Văn hóa, 
Thể thao và Du lịch, ngày 1/6/2009. 
16. Agence Francaise de Developpement (2009), 
Dung hòa giữa phát triển và khí hậu, France: Roland 
Barthes. 
17. Bộ tài nguyên và môi trường, Ba kịch bản về biến 
đổi khí hậu, ngày 20/8/2009. 
18. Mạng lưới hành động về Biến đổi khí hậu của Úc 
(CANA) (2009), Các tác động xã hội của biến đổi khí 
hậu: Những tác động tới các mục tiêu phát triển thiên 
niên kỷ. 
19. Nguyễn Ngọc Trân (2009), Ứng phó với biến đổi 
khí hậu và biển dâng, Báo cáo Hội thảo Biến đổi khí 
hậu và Mực nước biển dâng ở Việt Nam. 
20. Phạm Văn Cự (2009), “Biến đổi khí hậu toàn cầu 
và nguy cơ chủ nghĩa thực dân mới”, Tạp chí Tia 
Sáng, ngày 16/09/2009. 
21. The Secretariat of the Convention on Biological 
Diversity (2009), Đa dạng sinh học, Biến đổi khí hậu, 
và Các mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. 
22. Trung tâm con người và thiên nhiên (2009), Ảnh 
hưởng của biến đổi khí hậu lên tình trạng di cư và mất 
chỗ ở của con người. 
23. Võ Quý (2009), “Biến đổi khí hậu và đa dạng 
sinh học ở Việt Nam”, Bản tin Đại học Quốc Gia Hà 
Nội, số 219. 
24. Trương Phước Minh, Biến đổi khí hậu toàn cầu và 
hành động của chúng ta, Bản tin Đại học Văn Lang, 
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 3/5/2009. 
25. Đức Phường, Nông nghiệp toàn cầu – Mối đe dọa 
từ biến đổi khí hậu, Bản tin Đại học văn Lang, ngày 
3/5/2009, Tp. Hồ Chí Minh. 
26. Lê Huy Bá, Biến đổi khí hậu toàn cầu và sự ảnh 
hưởng tới môi trường Việt Nam, Bản tin Đại học Văn 
Lang, ngày 3/5/2009, Tp. Hồ Chí Minh. 
27. Peter Chaudhry và Greet Ruysschaert (2009), 
BĐKH và phát triển con người ở VN, UNDP. 
28. UNDP (2008), Cuộc chiến chống lại biến đổi khí 
hậu: Tình đoàn kết nhân loại trong một thế giới còn 
chia cách, Báo cáo phát triển con người 2007 - 2008. 
29. Trang Quan Sen (dịch), (2008), Khí hậu biến đổi: 
Thảm kịch vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại, 
Tp. Hồ Chí Minh, Nxb.Trẻ. 
30. Trần Thục, Kic̣h bản BĐKH, nước biển dâng cho 
Viêṭ Nam, Báo cáo tham luâṇ taị Hôị thảo Chiến lươc̣ 
phòng tránh thiên tai, công nghê ̣ xử lý môi trường 
trong bối cảnh BĐKH. 
31. Trần Đức Lương, Hiểm họa của biến đổi khí hậu 
toàn cầu đối với Việt Nam và nhìn từ Việt Nam. 
32. Bộ tài nguyên và môi trường, Chương trình mục 
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Triển khai 
thực hiện Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03/12/ 
2007 của Chính phủ. 

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_khi_hau_va_tac_dong_xa_hoi_cua_chung_doi_voi_viet_n.pdf