Biên bản đồng thuận Ban chuyên gia: Viêm phổi cộng đồng ở Việt Nam năm 2017 - Một số vấn đề cần đồng thuận
Bài viết này dựa trên nội dung một hội thảo chuyên gia do Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam tổ chức
ngày 17/12/2016 tại Cần Thơ với chủ đề: “Viêm phổi cộng đồng - Từ lý thuyết tới thực hành”. Trên
cơ sở phân tích tình hình thực hành VPCĐ trong tình hình thực tế, các dữ liệu nghiên cứu về tác
nhân vi sinh gây bệnh ở Việt Nam, hội thảo đi tới đề xuất một số khuyến cáo nhằm cải thiện tình
hình thực hành VPCĐ ở Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Biên bản đồng thuận Ban chuyên gia: Viêm phổi cộng đồng ở Việt Nam năm 2017 - Một số vấn đề cần đồng thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biên bản đồng thuận Ban chuyên gia: Viêm phổi cộng đồng ở Việt Nam năm 2017 - Một số vấn đề cần đồng thuận
Hoâ haáp soá 11/2017 18 ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm phổi cộng đồng (hay viêm phổi mắc phải ở cộng đồng, VPCĐ) là tình trạng nhiễm trùng cấp tính nhu mô phổi xảy ra ở ngoài bệnh viện. Đây là nguyên nhân nhiễm trùng và cần phải nhập viện phổ biến nhất. Mặc dù khoảng hơn một thập niên trở lại đây, trong lĩnh vực này y học có rất nhiều tiến bộ nhưng tình hình mắc và hình ảnh tiên lượng của VPCĐ ít thay đổi (1,2). Năm 2012, Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam (VATLD) đã biên soạn và công bố tài liệu “Hướng dẫn xử trí các bệnh nhiễm trùng hô hấp dưới không do lao”, trong đó có các chương Viêm phổi cộng đồng người lớn và trẻ em (3). Sau 5 năm, bài viết này được biên soạn nhằm làm tăng tính hướng dẫn của tài liệu nêu trên và nhấn mạnh đối với những bất cập thường gặp trong thực hành lâm sàng. Tài liệu này không đề cập tới viêm phổi trên những cơ địa đặc biệt: cấy ghép, suy giảm miễn dịch mắc phải, ung thư đang điều trị. Với định hướng như vậy, các tác giả trình bày dựa trên một cấu trúc bao gồm những vấn đề có tính thực hành cao, cập nhật và thực tế Việt Nam. Ý nghĩa các thuật ngữ khuyến cáo sử dụng trong tài liệu: - “Nên”: Khuyến cáo thực hiện ở mức độ không mạnh, có thể thực hiện hoặc không tùy thuốc vào điều kiện thực tế. - “Cần”: Khuyến cáo thực hiện ở mức độ mạnh, thực hiện là cần thiết trừ khi không thể. - “Phải”: Khuyến cáo thực hiện ở mức độ rất mạnh, thực hiện là bắt buộc. NỘI DUNG 1. Chẩn đoán viêm phổi cộng đồng: Biên bản đồng thuận Ban chuyên gia: VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM NĂM 2017 Một số vấn đề cần đồng thuận TS.BS. Nguyễn Văn Thành (1), TS.BS. Trần Anh Tuấn (2), ThS.BS Lê Hoàn (3), PGS.TS.BS Vũ Văn Giáp (4), TS.BS. Đỗ Ngọc Sơn (5). (1) Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam (2) Khoa Hô hấp Bệnh viện Nhi đồng 1 (thành phố Hồ Chí Minh) (3) Khoa Hô hấp, Bệnh viện Đại học Y-Dược (Hà Nội) (4) Trung tâm Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) (5) Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) Tóm tắt: Bài viết này dựa trên nội dung một hội thảo chuyên gia do Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam tổ chức ngày 17/12/2016 tại Cần Thơ với chủ đề: “Viêm phổi cộng đồng - Từ lý thuyết tới thực hành”. Trên cơ sở phân tích tình hình thực hành VPCĐ trong tình hình thực tế, các dữ liệu nghiên cứu về tác nhân vi sinh gây bệnh ở Việt Nam, hội thảo đi tới đề xuất một số khuyến cáo nhằm cải thiện tình hình thực hành VPCĐ ở Việt Nam. TOÅNG QUAN 19 Hoâ haáp soá 11/2017 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA Trong tình trạng viêm phổi, phản ứng viêm do nhiễm trùng cấp tính biểu hiện bằng tổn thương chủ yếu là phế nang bị lấp đầy bởi dịch rỉ viêm, vi khuẩn, các tế bào viêm và kết cục là phổi không thể thực hiện được chức năng đầy đủ. Trên nền tảng bệnh học như trên, viêm phổi biểu hiện bằng bệnh cảnh nhiễm trùng hô hấp dưới khởi phát cấp tính, thường khoảng trên 4 ngày (như ho, sốt, khạc đàm, nặng ngực, khó thở) (4) kèm theo triệu chứng thực thể biểu hiện tổn thương dạng đông đặc nhu mô phổi và tiếng ran nổ. Tiếng ran nổ rất cần được khám phát hiện ở vùng lưng và đáy phổi. Với bệnh cảnh này có thể dễ dàng chẩn đoán viêm phổi. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp khó chẩn đoán như trên người già, người có bệnh phổi mạn tính, có bệnh suy tim đi kèm dễ làm sai lạc chẩn đoán theo hướng chẩn đoán quá mức hoặc, ngược lại, bỏ sót chẩn đoán. Đối với những trường hợp chẩn đoán khó nên chụp Xquang ngực và xác định chẩn đoán viêm phổi bằng hình ảnh mờ không giải thích được bằng một nguyên nhân nào khác (4,5). Trong thực hành ở bệnh viện, khi nghi ngờ viêm phổi cần chụp Xquang ngực càng sớm càng tốt để chẩn đoán phân biệt và tiên lượng. Chụp cắt lớp vi tính (CT scan) ngực có thể cho hình ảnh rõ hơn, tuy nhiên, chỉ nên thực hiện chụp CT ngực khi hình ảnh Xquang thường quy không tương thích với lâm sàng hoặc không rõ (6). Với mục đích xác định chẩn đoán trong trường hợp còn nghi ngờ cần xét nghiệm CRP (xem mục 3). 2. Đánh giá mức độ nặng: Đánh giá mức độ nặng VPCĐ phải được thực hiện ngay khi tiếp nhận bệnh nhân và tiếp tục sau đó ít nhất là 12 giờ. Đánh giá mức độ nặng là cơ sở để quyết định các xử trí tiếp theo (xét nghiệm, nơi điều trị, chỉ định kháng sinh và các trị liệu không kháng sinh) và tiên lượng bệnh. Có nhiều thang điểm đánh giá mức độ nặng đã được công bố trong y văn. Các thang điểm này lấy nguy cơ tử vong sau 30 ngày và nguy cơ cần nhập khoa Chăm sóc đặc biệt (ICU) làm chuẩn (outcome) để phân tích giá trị dự đoán. Bằng cách tính toán này, các thang điểm thường có các nhận định sai dạng quá mức (dương sai) hoặc dưới mức (âm sai). Do vậy, việc sử dụng thang điểm cần kèm theo đánh giá lâm sàng của thầy thuốc. Bên cạnh đó, các thông số đánh giá của các thang điểm cũng rất khác nhau đòi hỏi phải nhớ, phải thực hiện được, nên không thể áp dụng một cách tùy ý các thang điểm. Ở Việt Nam, 3 thang điểm CURB-65 (với một phiên bản đơn giản hơn là CRB-65), PSI (còn gọi là thang điểm PORT) và thang điểm của Hiệp hội lồng ngực Mỹ (ATS) đã được nói đến thường xuyên và khá quen thuộc. Thang điểm CURB-65 với 5 thông số trong đó có thông số urê máu không thuận lợi cho việc đánh giá ở các cơ sở khám bệnh ban đầu của tuyến y tế cơ sở nên áp dụng phiên bản CRB-65 sẽ thuận lợi hơn. Như vậy có thể chuyên biệt các thang điểm trên cho từng tình huống cụ thể. Đánh giá khi khám bệnh ban đầu nên bằng thang điểm CURB-65 (hoặc CRB-65) với quyết định quan trọng nhất là sẽ nhập viện khi có ≥ 1 điểm với CRB-65 (trừ khi 65 là yếu tố duy nhất) (4) hoặc ≥ 2 điểm (với CURB-65) (7). Ở phòng tiếp nhận cấp cứu nên đánh giá bằng thang điểm của Hiệp hội lồng ngực Mỹ (ATS) với quyết định quan trọng nhất là có vào khoa ICU hay không (8). Ở khoa ICU hay khoa nội nên đánh giá bằng bảng điểm PSI. Bên cạnh đó, ở những cơ sở có khả năng phải tiếp nhận bệnh nhân đến khám trong tình trạng nặng, cần trang bị và đo bão hòa Oxy máu qua da (SpO2) (3,9). 3. Biomarker và sử dụng: Thời gian gần đây, thêm vào các biomarker kinh điển (số lượng và công thức bạch cầu, tốc TOÅNG QUAN Hoâ haáp soá 11/2017 20 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA độ máu lắng, tiểu cầu) trong việc đánh giá tình trạng nhiễm trùng và mức độ nặng, có một số protein đáp ứng viêm đã được đề nghị sử dụng thường quy trong thực hành viêm phổi. Trong số đó phổ biến nhất là CRP (C-reactive protein) và PCT (Procalcitonin). PCT có liên quan nhiều tới nhiễm trùng trong khi CRP có liên quan nhiều tới tình trạng viêm (1). Trong thực hành lâm sàng, những vấn đề khó khăn cần sự trợ giúp thêm từ các biomarker thông thường gồm: có phải viêm phổi không, có cần điều trị kháng sinh không (virus hay vi khuẩn gây bệnh), có nặng và cần phải nhập viện không, bệnh có thuyên giảm không (theo dõi kết quả điều trị). Rất cần lưu ý rằng các biomarker chỉ có vai trò làm rõ thêm các đánh giá lâm sàng. Nhận định về giá trị của CRP và PCT, Grant W. Waterer và cs (năm 2011) (1) ghi nhận CRP có giá trị trong chẩn đoán phân biệt giữa nhiễm khuẩn và virus, làm tăng giá trị dự đoán của các thang điểm nặng trong khi PCT thì không. Trong viêm phổi người lớn, tài liệu hướng dẫn lâm sàng NICE (của Anh) năm 2014, CRP được khuyến cáo sử dụng để xác định chẩn đoán viêm phổi và quyết định sử dụng kháng sinh ở cộng đồng. NICE 2014 cho rằng trên bệnh nhân nhập viện với mức độ trung bình - nặng việc sử dụng CRP để theo dõi diễn biến và ngưng kháng sinh còn cần phải nghiên cứu thêm (10). NICE hướng dẫn sử dụng CRP như sau: Trong bệnh cảnh nhiễm trùng hô hấp dưới ở cộng đồng, không nên sử dụng kháng sinh nếu CRP < 20mg/L. Nên trì hoãn kháng sinh và theo dõi nếu CRP từ 20-100mg/L. Cần sử dụng kháng sinh nếu CRP > 100mg/L (10). Trong một tổng quan hệ thống, Gavin Falk và cs (năm 2008) khẳng định có thể loại trừ chẩn đoán viêm phổi nếu CRP ≤ 20mg/L (11). Tài liệu hướng dẫn của ERS/ESCMID (năm 2011) (4) cũng đồng ý với các điểm cắt này và khuyến cáo trong thực hành ở cộng đồng, có thể loại trừ chẩn đoán viêm phổi khi CRP100mg/L. Trên cơ sở đánh giá từ nhiều góc độ (giá, điều kiện thực hiện, giá trị ứng dụng), xét nghiệm CRP nên được thực hiện trong thực hành viêm phổi cộng đồng, nhất là trong những tình huống chẩn đoán viêm phổi còn chưa chắc chắn. 4. Xét nghiệm vi sinh và các tác nhân gây bệnh phổ biến: Ở Việt Nam cho đến nay, do chi phí, do kỹ thuật thực hiện, do cơ sở vật chất không sẵn sàng, xét nghiệm vi sinh trong thực hành viêm phổi còn rất nhiều hạn chế, nhất là ở các cơ sở điều trị không thuộc tuyến trung ương. Các kết quả khảo sát (survey) tình hình gây bệnh và kháng thuốc thông thường được thực hiện trong bệnh viện, in vitro, chỉ ở các bệnh viện lớn nên giá trị áp dụng và khả năng ngoại suy không cao. Hiện nay, đối với viêm phổi, xét nghiệm vi sinh, nhất là trong thực hành bệnh viện, được xem là một trong những khuyến cáo thực hành quan trọng. Các khuyến cáo thực hành thống nhất nhận định rằng một chiến lược kháng sinh kinh nghiệm hợp lý phải được xây dựng trên cơ sở số liệu dịch tễ tại địa phương, tại cơ sở điều trị. Do vậy, những khó khăn làm hạn chế thực hiện xét nghiệm vi sinh, nhất là trong bệnh viện, cần được giải quyết. Với những trường hợp nhẹ, không cần xét nghiệm vi sinh thường quy. Những trường hợp nặng, những trường hợp có yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn đặc biệt và kháng thuốc (xem mục 5) cần xét nghiệm vi sinh. Bệnh phẩm cần lấy trước khi chỉ định kháng sinh. Cần xét nghiệm vi sinh khi bệnh không đáp ứng với điều trị ban đầu. Ho kéo dài, sụt cân, ho máu là những triệu chứng gợi ý để nghĩ tới lao phổi và cần xét nghiệm tìm AFB (4, 9, 10). Kháng sinh đồ thường qui do các phòng xét nghiệm ở các bệnh viện hiện nay thường được thực hiện bằng kỹ thuật khuếch tán kháng sinh trên thạch (kỹ thuật Kirby-Bauer). Đo đường kính vòng vô khuẩn và so với tiêu chuẩn để cho kết quả kháng (R), nhạy (S) hay trung gian (I) TOÅNG QUAN 21 Hoâ haáp soá 11/2017 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA đối với kháng sinh thử nghiệm. Kết quả kháng sinh đồ bằng kỹ thuật này là kết quả định tính và chỉ là một kết quả in vitro, tức là không phải là một kết quả có mối liên quan trực tiếp đến kháng sinh được sử dụng trên người bệnh, không thể nói được liều và cách dùng trên người bệnh là thật sự có hiệu quả hay không. Kháng sinh đồ thực hiện bằng phương pháp xác định nồng độ ức chế tối thiểu (phương pháp MIC) là kết quả định lượng. MIC là nồng độ tối thiểu mà kháng sinh ngăn chặn được vi khuẩn phát triển. Với kết quả MIC, thầy thuốc điều trị có thể dự đoán hiệu quả của kháng sinh mà mình điều trị trên bệnh nhân theo khuyến cáo bằng cách so sánh nồng độ hữu dụng của kháng sinh đạt được trong dịch cơ thể của bệnh nhân (được gọi là điểm gãy pK/pD) với MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn. Nếu điểm gãy pK/pD của kháng sinh bằng hay cao hơn MIC thì vi khuẩn nhạy với kháng sinh và điều trị kháng sinh sẽ hiệu quả. Nếu thấp hơn MIC thì vi khuẩn đề kháng với kháng sinh và sẽ bị thất bại điều trị. Ngoài ra, dựa vào kết quả MIC thầy thuốc có thể điều chỉnh liều và cách cho kháng sinh trên bệnh nhân nhằm đưa điểm gãy pK/pD của kháng sinh lên bằng hay cao hơn MIC của kháng sinh đối với vi khuẩn để đạt được hiệu quả điều trị (bảng 1-3) (12,13). Bảng 1. Tỷ lệ % thời gian duy trì được nồng độ tối thiểu 1µg/ml, 2µg/ml, 4µg/ml và 8µg/ml so với thời gian liều các loại công thức amox/clav và cách cho thuốc Công thức % thời gian đạt nồng độ so với thời gian liều theo MIC Amox/Clav người lớn Liều 1µg/ml 2µg/ml 4µg/ml 8µg/ml 250/125 Tid 40% 500/125 Tid 55% 43% 875/125 Bid 44% 40% 875/125 Tid 69% 57% 34% 1000/125 Tid >65% 55% 41% 2000/125 Bid >70% 60% 49% 35% Công thức % thời gian đạt nồng độ so với thời gian liều theo MIC Amox/Clav trẻ em Liều 1µg/ml 2µg/ml 4µg/ml 8µg/ml 125/31,25 hay 250/62,5 mg/5 ml (4:1) 40/10 mg/kg/ ngày tid 59% 44% 200/28,5 hay 400/57 mg/5 ml (7:1) 45/6,4 mg/kg/ ngày bid 50% 41% 600/42,9 mg/5 ml (14:1) 90/6,4 mg/kg/ ngày bid 61% 50% → 41% TOÅNG QUAN Hoâ haáp soá 11/2017 22 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA Các nghiên cứu dịch tễ về vi sinh gây bệnh trong VPCĐ cho các kết quả rất khác nhau. Sự khác biệt này được giải thích bằng nhiều lý do: quần thể nghiên cứu, mẫu nghiên cứu, yếu tố địa lý, phương pháp phân lập vi sinh. Trong khoảng một thập niên vừa qua, kỹ thuật phản ứng chuỗi polymerase (PCR) kết hợp với các kỹ thuật vi sinh truyền thống đã cho những cách nhìn mới về phổ vi sinh gây bệnh, trong đó nhấn mạnh đến vai trò gây bệnh của virus và sự kết hợp của virus với cầu khuẩn Gram (+), nhất là S.pneumoniae (4,14,15). Trong một nghiên cứu đa trung tâm ở Nhật năm 2006 (16), Saito A và cs đã áp dụng kỹ thuật PCR, tìm kháng nguyên nước tiểu cùng với các kỹ thuật vi sinh truyền thống đã cho kết quả rất đáng chú ý. Tỷ lệ xác định được vi sinh gây bệnh rất cao, 73,3%, trong đó đứng đầu là S.pneumoniae (24,6%), tiếp theo là H.influenzae (18,5%), và virus (16,4%). S. pneumoniae và M. pneumoniae là hay gặp nhất trên người trẻ trong khi S. pneumoniae và H. influenzae hay gặp nhất trên người già. Tỷ lệ các trường hợp phân lập được nhiều tác nhân vi sinh là 25,9% bệnh nhân và là 35,3% trên những trường hợp có chẩn đoán vi sinh. Năm 2009-2010, một nghiên cứu có độ tin cậy cao thực hiện phân lập trên bệnh Bảng 2. Điểm gãy pK/pD của các kháng sinh beta-lactam cho bằng đường tiêm Kháng sinh Liều sử dụng Điểm gãy pK/pD Penicillin G 2 x 106 UI qid 4µg/ml Ampicillin 1g qid 2µg/ml Cefuroxime 0,75g tid 4µg/ml Cefotaxime 1g tid 2µg/ml Ceftriaxoneb 1g od 2µg/ml Cefepime 1g bid 4µg/ml Ceftazidime 1g tid 8µg/ml Meropenem 0,5g tid 1µg/ml b Dựa trên nồng độ tự do trong huyết thanh; bid: 2 lần/ngày; tid: 3 lần/ngày; qid: 4 lần/ngày; od: 1 lần/ngày Bảng 3. Điểm gãy pK/pD của các kháng sinh beta-lactam cho bằng đường uống Kháng sinh Liều người lớn Liều trẻ em Điểm gãy pK/pD Amoxicillin 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 2µg/ml Amoxicillin 875mg/bid 45mg/kg/ngày bid 2µg/ml Amox/Clava 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 2µg/ml Amox/Clava 875mg/bid 45mg/kg/ngày bid 2µg/ml Cefaclor 500mg/tid 40mg/kg/ngày tid 0,5µg/ml Cefuroxime 500mg/bid 30mg/kg/ngày bid 1µg/ml Cefprozil 500mg/bid 30mg/kg/ngày bid 1µg/ml Loracarbef 400mg/bid 30mg/kg/ngày bid 0,5µg/ml Cefixime 400mg/qd 8mg/kg/ngày od 0,5µg/ml a Dựa trên lượng amoxicillin; bid: 2 lần/ngày; tid: 3 lần/ngày; od: 1 lần/ngày TOÅNG QUAN 23 Hoâ haáp soá 11/2017 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA nhân NKHHD cộng đồng bao gồm cả VPCĐ ở Việt Nam (tỉnh Khánh Hòa) (15) cũng bằng các kỹ thuật phân lập quy ước và PCR cho thấy vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là H.influenzae (28%) và S.pneumoniae (23%). Test chẩn đoán virus dương tính với virus hô hấp là 21% và Influenza A là 32,9%. Hình ảnh phân loại với tỷ lệ phân lập được phổ biến là S.pneumoniae, H.influenzae và virus của hai nghiên cứu trên cũng giống với nhận định của hiệp hội Lồng ngực Anh (BTS 2009) trên VPCĐ (17). Nhìn một cách khái quát, đặc tính vi sinh gây bệnh cơ bản không khác giữa VPCĐ nhẹ điều trị trong và ngoài bệnh viện (4). Vi sinh gây bệnh chủ yếu là S.pneumoniae, H.influenzae và vir ... cin (0,75g / truyền tĩnh mạch / một lần/ngày). P há c đồ 4 : V PC Đ n ặn g kh ôn g đá p ứn g tố t s au 7 2 gi ờ PĐ4 Ceftazidime (1-2g tĩnh mạch / mỗi 8 giờ) hoặc Carbapenem (Imipenem, Meropenem tĩnh mạch / mỗi 8 giờ) hoặc Piperacilline/tazobactam (4,5g tĩnh mạch/6 giờ) Kết hợp với: hoặc Ciprofloxacin (400mg truyền TM x 2-3 lần/ngày hoặc uống 500mg-750mg x 2 lần/ ngày), hoặc Levofloxacin (0,75g / truyền tĩnh mạch hoặc uống/ một lần/ngày); Kết hợp hay không với: hoặc Amikacin 500mg tĩnh mạch / mỗi 12 giờ, hoặc Tobramycin 80mg tĩnh mạch / mỗi 8 giờ. Lưu ý: - PĐ (phác đồ), PĐ+ (phác đồ dành cho những trường hợp có nguy cơ nhiễm vi khuẩn gây bệnh đặc biệt và kháng thuốc). - Các thuốc đều cần điều chỉnh theo chức năng thanh thải của gan và thận. - Tất cả các phác đồ đều có thể chuyển từ thuốc tiêm sang thuốc uống khi tình trạng bệnh thuyên giảm và bệnh nhân có thể sử dụng thuốc uống được. Liều thuốc uống tương đương với liều tiêm. Khi khởi đầu bằng Cephalosporin thì chuyển uống bằng Amoxicillin/a.clavulanic. - Các fluoroquinolone đều không khuyến cáo dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai hay cho con bú trừ khi bắt buộc. - Nếu nghi ngờ MRSA: Linezolid hoặc Vancomycin (hay Teicoplanin) - Lưu ý sử dụng kết quả kháng sinh đồ để điều chỉnh kháng sinh khi tiến triển không thuận lợi. Hầu hết bệnh nhân nhẹ và trung bình đều có thể điều trị bằng thuốc uống. Bệnh nhân nặng nên khởi đầu điều trị ngay bằng tĩnh mạch và chuyển thuốc uống khi có các dấu hiệu bình phục (bảng 5). Bảng 5. Các dấu hiệu bình phục và chuyển kháng sinh uống - Giảm sốt trên 24 giờ - Tỉnh táo và tiếp xúc tốt hơn - Mạch <100 lần/phút - Nhịp thở giảm - Biểu hiện đủ nước lâm sàng và uống được - Giảm huyết áp hồi phục - Không giảm oxy máu - Bạch cầu máu cải thiện - Cấy máu (-) - Không có bằng chứng nhiễm Legionella, Staphylococcus, trực khuẩn đường ruột Gram(-) TOÅNG QUAN Hoâ haáp soá 11/2017 26 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA Với VPCĐ nhẹ và trung bình thời gian điều trị kháng sinh cần 5-7 ngày là đủ (trong đó có 2-3 ngày không sốt). Với những trường hợp nặng cần kéo dài tới 10 ngày. Những trường hợp nhiễm khuẩn Gram (-), S.aureus có thể cần kéo dài 14-21 ngày. Thời gian điều trị kháng sinh cần theo diễn biến lâm sàng. Khi phân lập được vi sinh gây bệnh, nếu lâm sàng không đáp ứng với điều trị ban đầu, cần điều chỉnh kháng sinh theo vi khuẩn gây bệnh (bảng 6). Bảng 6. Lựa chọn kháng sinh theo tác nhân vi sinh đã xác định Tác nhân vi sinh Kháng sinh lựa chọn Kháng sinh thay thế Streptococcus pneumoniae - MIC<2mcg/mL Penicillin G, Amoxicillin Macrolides, Cephalosporine uống hoặc tiêm, Clindamycin, Fluoroquinolon hô hấp. - MIC ≥2 mcg/Ml Cefotaxim, Ceftriaxone, Fluoroquinolon Vancomycin, Linezolid, Amoxicillin liều cao (3g/ngày với MIC ≤4 mcg/mL) Haemophilus influenzae - Không tạo beta-lactamase - Tạo beta-lactamase Amoxicillin Cephalosporin thế hệ II, III, Amoxicillin-kháng beta-lactamase Fluoroquinolon, Doxycycline, Azithromycin, Clarithromycin Mycoplasma pneumoniae, Chlamydophila pneumoniae Macrolides, Tetracycline Fluoroquinolon Legionella spp Fluoroquinolon, Azithromycin Doxycycline Chlamydophila psittasi Tetracycline Macrolides Coxiella burnetii Tetracycline Macrolides Francisella tularensis Doxycycline Gentamycin, Streptomycin Yersinisa pestis Gentamycin, Streptomycin Doxycycline, Fluoroquinolon Bacillus anthracis (do hít) Ciprofloxacin, Levofloxacin, Doxycycline Các Fluoroquinolon khác, beta- lactam, Rifampycin, Clindamycin, Chloramphenicol Enterobacteriacea Cephalosporine thế hệ III, Carbapenem (nếu tiết ESBL) Beta-lactam /kháng beta-lactamase, Fluoroquinolon Pseudomonas aeruginosa Beta-lactam kháng pseudomonas + (Ciprofloxacin hoặc Levofloxacin hoặc Aminoglycoside) Aminoglycoside + (Ciprofloxacin hoặc Levofloxacin) Burkholderia pseudomallei Carbapenem, Ceftazidime Fluoroquinolon, TMP-SMX Acinetobacter spp Carbapenem Cephalosporin/Aminoglycoside, Ampicillin/sulbactam, Colistin Staphylococcus aureus - Nhạy Methicillin Penicillin kháng staphylococcus (Nafcillin, Oxacillin, Flucloxacillin) Cefazolin, Clindamycin - Kháng Methicillin Vancomycin, Linezolid TMP-SMX TMP-SMX (trimethoprim/sulfamethoxazole) TOÅNG QUAN 27 Hoâ haáp soá 11/2017 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA Tài liệu hướng dẫn của châu Âu (ERS/ ESCMID) và Mỹ (ATS) năm 2011(4,6) đều khuyến cáo kết hợp beta-lactam / macrolide đối với những trường hợp trung bình, nặng cần nhập viện, những trường hợp có nguy cơ nhiễm khuẩn đặc biệt (xem mục 5). ATS còn cho rằng kết hợp cephalosporin với macrolide là sự lựa chọn rất tốt (6). Rất nhiều nghiên cứu và bài viết tổng quan nhấn mạnh đến vai trò điều hòa miễn dịch của macrolide. Đã có nhận định cho rằng kết hợp macrolide là sự lựa chọn bắt buộc (1, 24, 25). Tuy nhiên, trong khi chưa có dữ liệu đánh giá hiệu quả lâm sàng của cách kết hợp này ở Việt Nam và trong khi chưa có bằng chứng lâm sàng chắc chắn (validation), khuyến cáo sử dụng kháng sinh (bảng 4) thể hiện sự đồng tình với quan điểm của Benjamin P. Westley và cs (năm 2010) (26) cho rằng kết hợp beta-lactam/macrolide chưa có bằng chứng đủ thuyết phục để là lựa chọn bắt buộc. Cần có những nghiên cứu và phân tích về vai trò kết hợp macrolide trong điều trị VPCĐ ở Việt Nam. 7. Không đáp ứng với trị liệu ban đầu: Cần lưu ý phân biệt 2 thuật ngữ thể hiện đáp ứng không thuận lợi với trị liệu ban đầu: Cải thiện chậm và diễn biến xấu đi. Mỗi tình huống này lại được chia thành 2: sớm hay muộn tính theo 72 giờ. Do vậy cần theo dõi sát đáp ứng điều trị , nhất là trong 48-72 giờ đầu, lưu ý nhất là chẩn đoán nhầm với tràn dịch màng phổi không nhiễm khuẩn (giảm đạm máu, suy thận, suy tim) (hình 1). Lưu ý không phải tất cả các trường hợp diễn biến không thuận lợi đều do nhiễm khuẩn và cần thay đổi trị liệu kháng sinh. Bảng 7 thể hiện các tình huống có thể xảy ra khi không đáp ứng điều trị ban đầu. Với những trường hợp đáp ứng không thuận lợi sau 72 giờ, bên cạnh đánh giá lâm sàng, nên xét nghiệm CRP để tăng tính chính xác trong việc đánh giá và xác định nguyên nhân có phải do nhiễm trùng chưa được khống chế hay không (10). Theo Luís Coelho và cs (năm 2007) (27), CRP giảm trên 30% ở ngày thứ ba của điều trị kháng sinh là dấu hiệu tiến triển tốt và có khả năng rút ngắn thời gian trị liệu kháng sinh. Cũng theo Luís Coelho và cs, theo dõi bằng CRP tốt hơn bằng thân nhiệt và bạch cầu máu. Bảng 7. Các tình huống có thể xảy ra khi không đáp ứng với điều trị ban đầu Biểu hiện Sớm Muộn Không cải thiện Trong 72 giờ: - Có thể là diễn biến bình thường. Sau 72 giờ: - Vi khuẩn kháng thuốc, vi khuẩn chưa bao vây (lưu ý lao phổi), sử dụng thuốc dưới liều cần thiết. - Các biến chứng: Mủ màng phổi, tràn dịch cạnh tổn thương. - Nhiễm khuẩn bệnh viện cộng thêm (viêm phổi hay ngoài phổi). - Không nhiễm khuẩn: Bệnh tim mạch, sốt do thuốc, thuyên tắc động mạch phổi, viêm nội mạc tự miễn). Hình 1. Hình Xquang ngực (tư thế nằm) bệnh nhân suy tim sung huyết, tràn dịch màng phổi lượng ít hai bên TOÅNG QUAN Hoâ haáp soá 11/2017 28 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA Xấu đi Trong 72 giờ: - Bệnh nặng. - Vi khuẩn kháng thuốc. - Di căn nhiễm khuẩn: Tràn dịch màng phổi, viêm nội tâm mạc, viêm màng não, viêm khớp. - Chẩn đoán sai: Tràn dịch màng phổi, viêm phổi hít, ARDS, viêm nội mạc tự miễn (lupus ban đỏ hệ thống). Sau 72 giờ: - Nhiễm khuẩn bệnh viện cộng thêm (viêm phổi hay ngoài phổi). - Đợt cấp bệnh đồng mắc. - Các bệnh khác kết hợp (thuyên tắc động mạch phổi, nhồi máu cơ tim, suy thận). 8. Phòng bệnh: Nguy cơ viêm phổi cộng đồng bao gồm: tuổi cao (trên 65) hoặc trẻ nhỏ (dưới 12 tháng), hút thuốc lá, nghiện rượu, các bệnh đồng mắc tim-phổi, suy thận, tiểu đường, ung thư, suy giảm miễn dịch, sử dụng thuốc kéo dài (thí dụ như corticosteroid, PPI), giảm vận động kéo dài. Cần xác định các yếu tố nguy cơ viêm phổi để có các biện pháp phòng bệnh tích cực. Vắc-xin phòng viêm phổi: Vắc-xin hướng tới phòng viêm phổi do Streptococcus và cúm (influenzae) đang còn là trụ cột trong chiến lược phòng viêm phổi. Tất cả những người có nguy cơ nhiễm cao, những người có nguy cơ biến chứng do cúm, cần tiêm vắc-xin cúm bất hoạt và tiêm nhắc lại hàng năm (6,28). Cần tiêm vắc-xin phòng bệnh do phế cầu dạng PPV (pneumococcal polysaccharide vaccine) cho những người có nguy cơ cao viêm phổi, tuổi từ 65 trở lên nếu mũi tiêm lần đầu trước 65 tuổi hoặc những người cắt lách, suy giảm miễn dịch (6,29,30). Để có xử trí vắc-xin phù hợp, đánh giá tình trạng tiêm vắc-xin khi bệnh nhân nhập viện là cần thiết. Cần tiêm vắc-xin cho bệnh nhân khi có chỉ định lúc ra viện hoặc trong quá trình theo dõi điều trị ngoại trú (6). Những biện pháp dự phòng viêm phổi khác cần được lưu ý như hướng dẫn bệnh nhân, người nhà bệnh nhân hay nhân viên chăm sóc y tế cộng đồng bao gồm: bỏ hút thuốc lá, dinh dưỡng và vệ sinh cơ thể đầy đủ, vận động trị liệu, vệ sinh răng miệng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Grant W. Waterer; Jordi Rello; Richard G. Wunderink. Management of Community-acquired Pneumonia in Adults (Concise Clinical Review). Am J Respir Crit Care Med Vol 183. Pp 157-164, 2011 2. Richard G. Wunderink; Grant W. Waterer. Community-Acquired Pneumonia. N Engl J Med 2014; 370:543-51. 3. Hội Lao và bệnh phổi Việt Nam. Hướng dẫn xử trí các bệnh nhiễm trùng hô hấp dưới không do lao. Y học 2012; 11-140. 4. M. Woodhead, F. Blasi, S. Ewig et al. Guidelines for the management of adult lower respiratory tract infections - full version. Clin Microbiol Infect 2011; 17(Suppl. 6): E1-E59 5. Daniel M. Musher; Anna R. Thorner. Community- Acquired Pneumonia. N Engl J Med 2014; 371:1619-28. 6. Lionel A. Mandell; Richard G. Wunderink; Antonio Anzueto et al. Infectious Diseases Society of America/American Thoracic Society Consensus Guidelines on the Management of Community- Acquired Pneumonia in Adults. Clinical Infectious Diseases 2007; 44:S27-72 7. W S Lim; M M van der Eerden; R Laing; et al. Defining community acquired pneumonia severity on presentation to hospital: an international derivation and validation study. Thorax 2003; 58:377-382 8. James D. Chalmers; Joanne K. Taylor; Pallavi Mandal; et al. Validation of the Infectious Diseases Society of America/American Thoratic Society Minor Criteria for Intensive Care Unit Admission in Community-Acquired Pneumonia Patients Without Major Criteria or Contraindications to Intensive Care Unit Care. Clinical Infectious Diseases 2011; 53(6):503-511 TOÅNG QUAN 29 Hoâ haáp soá 11/2017 BIEÂN BAÛN ÑOÀNG THUAÄN BAN CHUYEÂN GIA 9. 2015 - Annotated BTS Guideline for the management of CAP in adults (2009) Summary of recommendations. Thorax 2009; 64:iii1-iii55 10. National Institute for Health and Care Excellence 2014. Pneumonia in adults: diagnosis and management. Nice.org.uk/guidance/cg191 11. Gavin Falk; Tom Fahey. C-reactive protein and community-acquired pneumonia in ambulatory care: systematic review of diagnostic accuracy studies. Family Practice. 2008; 26 (1): 10-21. 12. Jacob MR. Optimizing of antimicrobial therapy using pharmacokinetic and pharmacodynamic characters. Clin. Microbiol. Infect. 2001; 7: 589-596. 13. White AR. et al. Amox/Clav (amoxicillin/clavulanate) in the treatment of community-acquired respiratory tract infection: a review of the continuing development of an innovative antimicrobial agent. Journal of Antimicrobial Chemotherapy. 2004; 53(S1): i3-i20 14. Niclas Johansson; Mats Kalin; Annika Tiveljung- Lindell; et al. Etiology of Community-Acquired Pneumonia: Increased Microbiological Yield with New Diagnostic Methods. Clinical Infectious Diseases 2010; 50:202-9 15. Kensuke Takahashi; Motoi Suzuki; Le Nhat Minh et al. The incidence and aetiology of hospitalized community-acquired pneumonia among Vietnamese adults: a prospective surveillance in Central Vietnam. BMC Infectious Diseases 2013; 13:296 16. Saito A; Kohno S; Matsushima T; Watanabe A et al. Prospective multicenter study of the causative organisms of community-acquired pneumonia in adults in Japan. J Infect Chemother. 2006; 12(2):63- 9 (ISSN: 1341-321X) 17. W S Lim, S V Baudouin, R C George et al. British Thoracic Society guidelines for the management of community acquired pneumonia in adults: update 2009. Thorax 2009; 64(Suppl III):iii1-iii55 18. Antonella F. Simonetti, Diego Viasus et al. Management of community-acquired pneumonia in older adults. Ther Adv Infect Dis. 2014; 2(1) 3-16 19. Van P.H. et al. The multicenter study in Vietnam on the antibiotic resistance S. pneumoniae - The results from 204 clinical isolates. Hochiminh City Medicine. 2007; 11: Supplement 3, 67-77 20. PH Vân; PT Bình; ĐM Phương và cs. Tình hình đề kháng kháng sinh của S.pneumoiae và H.influenzae phân lập từ NKHH cấp - Kết quả nghiên cứu đa trung tâm thực hiện tại Việt Nam (SOAR) 2010- 2011. YHTH 85512, 2012. 6-11 21. Van P.H. et al. Haemophilus influenzae with beta- lactamase - Results from the multicenter study on 248 strains isolated from Viet Nam. Hochiminh City Medicine. 2007; 11: Supplement 3, 47-55 22. Prina E, Ranzani OT, Polverino E, et al. Risk factors associated with potentially antibiotic-resistant pathogens in community-acquired pneumonia. Ann Am Thorac Soc 2015; 12(2): 153-60. 23. Andre C. Kalil; Mark L. Metersky; Michael Klompas et al. Management of Adults With Hospital-acquired and Ventilator-associated Pneumonia: 2016 Clinical Practice Guidelines by the Infectious Diseases Society of America and the American Thoracic Society. Clinical Infectious Diseases Advance 2016. DOI: 10.1093/cid/ciw353 24. Grant W. Waterer. Are macrolides now obligatory in severe community-acquired pneumonia?. Intensive Care Medicine. 2010; Volume 36, Issue 4, pp 562- 564 25. Emmet O’Brien M; Restrepo MI; Martin-Loeches I. Update on the combination effect of macrolide antibiotics in community-acquired pneumonia. Respir Investig. 2015; 53(5):201-9. 26. Benjamin P. Westley; Philip A. Chan. Questions remain regarding mandatory use of macrolides in community-acquired pneumonia. Intensive Care Med. 2010; 36:1787 27. Luís Coelho, Pedro Póvoa, Eduardo Almeida, Antero Fernandes, Rui Mealha, Pedro Moreira and Henrique Sabino. Usefulness of C-reactive protein in monitoring the severe community-acquired pneumonia clinical course. Critical Care 2007; 11: R92 (doi:10.1186/cc6105) 28. WHO: Vaccines against influenza WHO position paper - November 2012. Wkly Epidemiol Rec. 87 (46): 461-76. Nov 23, 2012; PMID 23210147. 29. Centers for disease control and prevention. Pneumococcal Disease | Prevention Through Vaccination 30. Esposito S; Principi N. Pneumococcal vaccines and the prevention of community-acquired pneumonia. Pulm Pharmacol Ther. 2015; 32:124-9.
File đính kèm:
bien_ban_dong_thuan_ban_chuyen_gia_viem_phoi_cong_dong_o_vie.pdf

