Béo phì và 11 loại ung thư thường gặp Tổng quan y văn

Ung thư là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới, với 12,7 triệu trường hợp mới và 7,6 triệu ca tử vong do ung thư hàng năm.2 Trọng lượng cơ thể dư thừa có liên quan đến nguy cơ phát triển và tử vong do nhiều bệnh như ung thư, tiểu đường týp 2 và bệnh tim mạch.3 Béo phì đã trở thành một thách thức lớn về sức khoẻ cộng đồng,4 Tỷ lệ béo phì hiện tại trên toàn thế giới đã tăng gấp đôi trong số phụ nữ và tăng gấp ba trong số nam giới trong bốn thập kỷ qua.5 Số người thừa cân và béo phì đã tăng từ khoảng 857 triệu trong năm 1980 lên 2,1 tỷ người vào năm 2013.6 Một số phân tích gộp cho thấy có sự liên quan giữa béo phì và ung thư, nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa các nghiên cứu.7 Nhưng chúng cũng có thể sai sót, vì các sai sót trong nghiên cứu thường gặp như tồn tại sai lầm và Báo cáo có chọn lọc về kết quả dương tính có thể phóng đại tác động của chứng béo phì đối với ung thư.8- 11 Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng, mặc dù có chứng cứ mạnh mẽ về mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa bệnh đái tháo đường týp 2 và một số bệnh ung thư, nhưng chỉ có một phần (14%) trong 27 nghiên cứu có bằng chứng mạnh mẽ và không bị sai lầm

pdf 5 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Béo phì và 11 loại ung thư thường gặp Tổng quan y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Béo phì và 11 loại ung thư thường gặp Tổng quan y văn

Béo phì và 11 loại ung thư thường gặp Tổng quan y văn
37
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Béo phì và 11 loại ung thư thường gặp 
Tổng quan y văn 
Phan Văn Quyền* 
Giới thiệu 
Ung thư là nguyên nhân hàng đầu gây tử 
vong trên toàn thế giới, với 12,7 triệu 
trường hợp mới và 7,6 triệu ca tử vong do 
ung thư hàng năm.2 Trọng lượng cơ thể dư 
thừa có liên quan đến nguy cơ phát triển 
và tử vong do nhiều bệnh như ung thư, tiểu 
đường týp 2 và bệnh tim mạch.3 
 Béo phì đã trở thành một thách thức lớn 
về sức khoẻ cộng đồng,4 Tỷ lệ béo phì 
hiện tại trên toàn thế giới đã tăng gấp đôi 
trong số phụ nữ và tăng gấp ba trong số 
nam giới trong bốn thập kỷ qua.5 Số người 
thừa cân và béo phì đã tăng từ khoảng 857 
triệu trong năm 1980 lên 2,1 tỷ người vào 
năm 2013.6 
 Một số phân tích gộp cho thấy có sự liên 
quan giữa béo phì và ung thư, nhưng có sự 
khác biệt đáng kể giữa các nghiên cứu.7 
Nhưng chúng cũng có thể sai sót, vì các 
sai sót trong nghiên cứu thường gặp như 
tồn tại sai lầm và báo cáo có chọn lọc về 
kết quả dương tính có thể phóng đại tác 
động của chứng béo phì đối với ung thư.8-
11 Một nghiên cứu mới đây cho thấy rằng, 
mặc dù có chứng cứ mạnh mẽ về mối liên 
hệ có ý nghĩa thống kê giữa bệnh đái tháo 
đường týp 2 và một số bệnh ung thư, 
nhưng chỉ có một phần (14%) trong 27 
nghiên cứu có bằng chứng mạnh mẽ và 
không bị sai lầm.12 
 Để đánh giá các bằng chứng hiện có và 
chất lượng của các nghiên cứu này, từ năm 
2015 Maria Kyrgiou và cộng sự1 đã tiến 
hành xem xét lại các đánh giá có hệ thống 
và các phân tích gộp các khảo sát sự liên 
quan giữa các chỉ số béo phì và nguy cơ 
phát triển hoặc tử vong vì ung thư.12-19 
______________________________________________
* Hội Phụ Sản TP.HCM, DĐ: 0908221454, 
Email:[email protected], 
Phương pháp nghiên cứu 
Các tác giả thu thập dữ liệu trên PubMed, 
Embase và Cơ sở dữ liệu Cochrane của 
các nhận xét có hệ thống và sàng lọc thủ 
công các tài liệu tham khảo được tìm thấy 
từ khi bắt đầu cho đến tháng 5 năm 2015. 
Các tác giả đã tìm kiếm các tài liệu tham 
khảo của các bài tổng quan có hệ thống và 
phân tích gộp và các cuộc họp của các hội 
nghị liên quan cho các bài báo bị bỏ qua 
do tìm kiếm điện tử và các dữ liệu chưa 
được công bố. 
 Qua nghiên cứu các chỉ số béo phì được 
quan sát gồm có: chỉ số khối cơ thể (BMI), 
vòng eo, chu vi hông, tỉ lệ eo / hông, trọng 
lượng, tăng cân, và giảm cân do phẫu 
thuật. 
 Phân tích chính tập trung vào các nghiên 
cứu thuần tập khám phá các tương quan để 
đo liên tục sự béo phì. Bằng chứng đã 
được phân loại thành mạnh, gợi ý vừa, gợi 
ý, hoặc yếu sau khi áp dụng các tiêu chí 
bao gồm ý nghĩa thống kê của ước tính 
tóm tắt hiệu quả ngẫu nhiên và nghiên cứu 
lớn nhất trong phân tích gộp, số trường 
hợp ung thư, sự không đồng nhất giữa các 
nghiên cứu,25 Khoảng thời gian dự đoán, 
các hiệu ứng nghiên cứu nhỏ, xu hướng 
nhiễu vượt quá ý nghĩa, và phân tích độ 
nhạy với mức độ tin cậy. 
38
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
Kết quả 
 Kết quả 204 phân tích gộp phân tích 
mối liên quan giữa 7 chỉ số béo phì và phát 
triển hoặc tử vong từ 36 ung thư nguyên 
phát và các phân loại phụ. Trong số 95 
phân tích gộp bao gồm nghiên cứu thuần 
tập và sử dụng một thang đo liên tục để đo 
độ béo phì, chỉ có 12 nghiên cứu (13%) 
trong 9 trường hợp ung thư có bằng chứng 
mạnh mẽ. 
 Sự gia tăng BMI có liên quan đến nguy 
cơ phát triển cao hơn các u ác tính thực 
quản; ung thư đại trực tràng ở nam giới; u 
hệ thống đường mật và ung thư tuyến tụy; 
ung thư nội mạc tử cung ở phụ nữ tiền 
mãn kinh; ung thư thận; và đa u tủy 
(multiple myeloma). 
 Tăng cân và tỷ số vòng eo / hông có liên 
quan đến nguy cơ ung thư vú sau mãn kinh 
cao hơn ở những phụ nữ chưa bao giờ sử 
dụng liệu pháp thay thế hormon và ung thư 
nội mạc tử cung. Sự gia tăng nguy cơ phát 
triển ung thư tăng theo với mỗi mức tăng 5 
kg / m2 của BMI. 
 Nguy cơ ung thư vú sau mãn kinh ở phụ 
nữ chưa từng sử dụng hormone thay thế 
(HRT) tăng 11% đối với mỗi 5 kg tăng cân 
ở tuổi trưởng thành (1,11; 1,09 đến 1,13), 
và nguy cơ ung thư nội mạc tử cung tăng 
21% khi tỷ lệ eo/hông tăng mỗi 10% (1,21; 
1,13 đến 1,29). 
 Nghiên cứu cũng cho thấy có bằng 
chứng mạnh mẽ tương quan giữa: tăng cân 
với ung thư đại trực tràng; tương quan 
giữa BMI với u túi mật, cuống dạ dày, và 
ung thư buồng trứng; và tử vong do đa u 
tủy. 
 Mối liên quan giữa béo phì với nguy cơ 
ung thư đã được nghiên cứu rộng rãi có 
bằng chứng mạnh mẽ, các tương quan chỉ 
gặp trong 11 loại ung thư bao gồm: ung 
thư biểu mô thực quản, đa u tủy và ung thư 
tử cung, đại tràng, trực tràng, hệ thống 
đường mật, tuyến tụy, vú, nội mạc tử cung, 
buồng trứng và thận. Cũng có thể còn 
có các tương quan khác nhưng chưa đủ 
chứng cứ. 
 Béo phì đang trở thành một trong những 
vấn đề lớn nhất trong sức khỏe cộng đồng. 
Bằng chứng mạnh mẽ của các nguy cơ béo 
phì liên quan đến các loại ung thư có thể 
cho phép lựa chọn tốt hơn những người có 
nguy cơ cao ung thư, những người có thể 
được nhắm mục tiêu cho các chiến lược 
phòng ngừa ung thư. 
Bàn luận 
Maria Kyrgiou và cộng sự đã xem xét 204 
phân tích gộp để đánh giá bằng chứng hiện 
tại cho mối liên hệ giữa bảy chỉ số béo phì 
và nguy cơ phát triển hoặc tử vong từ 36 
trường hợp ung thư ban đầu và các phân 
nhóm của họ. Các liên quan, bắt nguồn từ 
các nghiên cứu đoàn hệ sử dụng các biện 
pháp đo lường mỡ máu liên tục, đã có 
được các bằng chứng mạnh mẽ, có ý nghĩa 
thống kê mạnh mẽ và không thiên vị. 
 Các liên kết chủ yếu là giữa BMI và các 
khối u ác tính của các cơ quan tiêu hóa 
(ung thư biểu mô thực quản và ung thư 
tuyến tiền liệt, u ở hệ thống đường mật và 
tuyến tụy), các ung thư liên quan đến 
hormon (như phụ nữ sau mãn kinh ở 
những phụ nữ chưa bao giờ dùng HRT), 
ung thư nội mạc tử cung giai đoạn tiền 
mãn kinh và ung thư nội mạc tử cung 
chung, ung thư thận và đa u tủy. 
 Các chỉ số béo phì còn cho thấy năm 
loại ung thư khác có tương quan với chứng 
cứ mạnh mẽ, đó là tăng cân với nguy cơ 
ung thư đại trực tràng và tăng BMI có 
nguy cơ u túi mật, ung thư dạ dày và ung 
thư buồng trứng và tử vong nhiều do đa u 
tủy. 
 Tác động của chỉ số béo phì lên tỷ lệ 
ung thư và tử vong do ung thư được ghi 
nhận6,21,24 và có chứng cứ rõ ràng trong 
nghiên cứu của Maria Kyrgiou và cộng sự, 
với khoảng 77% các phân tích gộp với giá 
trị có ý nghĩa thống kê. 
 Maria Kyrgiou và cộng sự đã sử dụng 
các kiểm tra thống kê và phân tích độ nhạy 
để loại bỏ bằng chứng nhiễu. Khi các 
ngưỡng giá trị P thấp hơn (P <10-6) được 
sử dụng, tỷ lệ các liên quan đã giảm xuống 
39
THÔNG TIN CẬP NHẬT
đáng kể còn 37%. Sự không đồng nhất lớn 
(I2 ≥ 50%) đã được quan sát thấy ở 37% 
các phân tích gộp. Khi các tác giả tính các 
khoảng dự đoán 95%, điều này làm mất 
tính không đồng nhất, các tác giả thấy 
rằng giá trị null được loại trừ chỉ trong 
khoảng một phần ba các mối liên kết. Hơn 
nữa, một số phân tích gộp có bằng chứng 
về các hiệu ứng nghiên cứu nhỏ hoặc xu 
hướng quan trọng hóa quá mức. Hầu hết 
các phân tích gộp (53%) đều có ý nghĩa. 
So sánh với các nghiên cứu của 
Quỹ Nghiên cứu Ung thư Thế giới 
(WCRF) và Cơ quan Nghiên cứu 
Ung thư Quốc tế (IARC) 
Việc phân loại chứng cứ của Maria 
Kyrgiou và cộng sự phần lớn phù hợp với 
các phân tích có hệ thống về tài liệu do 
Quỹ Nghiên cứu Ung thư Thế giới 
(WCRF) và Cơ quan Nghiên cứu Ung thư 
Quốc tế (IARC) thực hiện.7,22,23 
 WCRF đã liệt kê 7 loại ung thư cho thấy 
có bằng chứng thuyết phục liên quan với 
bệnh béo phì (ung thư biểu mô thực quản 
và ung thư tuyến tụy, đại tràng, ung thư vú 
hậu mãn kinh, nội mạc tử cung, thận và 
gan). Maria Kyrgiou và cộng sự cũng tìm 
thấy bằng chứng rõ rang tương tự, béo phì 
làm tăng nguy cơ 11 loại ung thư, ngoại 
trừ ung thư gan. 
 Sự liên quan giữa chứng béo phì và năm 
bệnh ung thư khác (túi mật, ung thư vú dạ 
dày, ung thư vú, ung thư vú tiến triển tiền 
mãn kinh) được đánh giá là có thể do 
WCRF lượng giá có bằng chứng thấp hơn 
trong phân tích chính của Maria Kyrgiou 
và cộng sự . 
 IARC đã tìm thấy đủ bằng chứng về sự 
kết hợp giữa béo phì và 13 trong số 24 loại 
ung thư gồm ung thư thực quản, ung thư 
dạ dày, đại tràng, gan, túi mật, tụy, ung thư 
vú hậu mãn kinh, nội mạc tử cung, buồng 
trứng, thận, tuyến giáp và đa u tủy.22 
 Các kết quả của Maria Kyrgiou và cộng 
sự tương tự như báo cáo của IARC đối 
với hầu hết các bệnh ung thư, ngoại trừ 
ung thư dạ dày, gan, buồng trứng, ung thư 
tuyến giáp. Các loại ung thư này có bằng 
chứng tương quan thấp hơn trong phân 
tích Maria Kyrgiou và cộng sự. 
 WCRF và IARC đã sử dụng các nhóm 
chuyên gia và tiêu chuẩn tương tự như các 
tiêu chí của Bradford Hill để đánh giá sự 
liên quan giữa chứng béo phì và nguy cơ 
mắc bệnh ung thư nguyên phát. Trong khi 
Maria Kyrgiou và cộng sự đánh giá tính 
mạnh mẽ của bằng chứng sử dụng các 
phân tích độ nhạy và các bài kiểm tra 
thống kê để đánh giá 36 trường hợp ung 
thư nguyên phát và các phân týp, được xác 
định bởi vị trí giải phẫu, mô học và trạng 
thái thụ thể. Maria Kyrgiou và cộng sự 
cũng lưu ý các tương quan tiềm năng khác 
(như tình dục, giai đoạn mãn kinh, tình 
trạng hút thuốc và sử dụng HRT). 
 Những kết quả của Maria Kyrgiou và 
cộng sự đã phù hợp với các kết quả 
nghiên cứu của WCRF và IARC. 
 Sự khác biệt trong đánh giá bằng chứng 
tương quan giữa ung thư nội mạc tử cung 
tiền mãn kinh và sau mãn kinh có lẽ là liên 
quan đến tính không đồng nhất do sử dụng 
HRT lúc mãn kinh. Sự liên quan giữa BMI 
hoặc tăng cân và ung thư nội mạc tử cung 
sau mãn kinh có ý nghĩa thống kê mạnh 
hơn ở người chưa bao giờ sử dụng HRT so 
với những người đã sử dụng HRT nhưng 
các phân tích gộp liên quan chỉ có 2 tới 6 
nghiên cứu và dưới 1.000 trường hợp ung 
thư, vì vậy chứng cứ đã được xem là yếu. 
 WCRF cũng phát hiện ra rằng có mối 
liên hệ giữa chu vi vòng eo hoặc tỉ lệ eo / 
hông với ung thư nội mạc tử cung, điều 
này cũng phù hợp với phát hiện của Maria 
Kyrgiou và cộng sự. 
 Các kết luận tương tự đã được WCRF 
và IARC phát hiện, kết luận rằng độ béo 
phì tăng lên có thể làm tăng nguy cơ ung 
thư biểu mô thực quản.22 Một nghiên cứu 
ngẫu nhiên Mendelian hỗ trợ sự liên kết 
này.24 Ung thư tế bào biểu mô thực quản 
không thấy thực sự có liên quan chặt chẽ 
với hút thuốc lá và uống rượu so với ung 
thư biểu mô tuyến thực quản, Maria 
Kyrgiou và cộng sự cũng không có chứng 
40
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
cứ rõ ràng của ảnh hưởng của việc hút 
thuốc lá và rượu trong các mối liên hệ giữa 
chứng béo phì và ung thư biểu mô thực 
quản vì các phân tích gộp đã không báo 
cáo các phân nhóm này.20 
 Vì thế cần có các nghiên cứu tiền cứu 
trong tương lai đánh giá các tương quan 
theo tình trạng hút thuốc với các loại bệnh 
khác nhau 
 Hơn nữa, Maria Kyrgiou và cộng sự 
thấy rằng mối liên kết giữa BMI và đa u 
tủy và ung thư của hệ thống đường mật, 
tuyến tụy, và thận được hỗ trợ bởi bằng 
chứng mạnh mẽ phù hợp với WCRF và 
IARC, ngoại trừ WCRF đã không nghiên 
cứu nhiều đa u tủy.22,23 
 Các tương quan khác với các khối ung 
thư ít phổ biến hơn có số liệu hạn chế và 
cho thấy sự không đồng nhất đáng kể giữa 
các nghiên cứu; cần có nghiên cứu tiền 
cứu để mô tả tốt hơn các mối liên hệ này. 
Kết luận 
Sự liên quan giữa béo phì và nguy cơ phát 
triển hoặc chết vì ung thư đã được nghiên 
cứu rộng rãi. Các tác giả tìm thấy bằng 
chứng mạnh mẽ cho thấy có mối liên kết 
giữa chứng béo phì và 11 trong số 36 vị trí 
ung thư và các phân týp mà các tác giả 
khảo sát, chủ yếu là ung thư của các cơ 
quan tiêu hóa và các khối u ác tính liên 
quan đến hormon ở phụ nữ. Chưa bằng 
chứng chắc chắn đối với các loại ung thư 
khác. 
 Để có kết luận chính xác hơn, chúng ta 
cần các nghiên cứu tiền cứu và các liên 
quan lớn với đánh giá tốt hơn về tính chất 
thay đổi của lượng mỡ cơ thể và với việc 
báo cáo các phân tích được chuẩn hóa toàn 
diện. 
 Khi chứng béo phì trở thành một trong 
những vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn nhất 
trên thế giới, bằng chứng mạnh mẽ của 
mối liên hệ giữa chứng béo phì và ung thư 
có thể cho phép lựa chọn tốt hơn những 
người có nguy cơ cao, những người có thể 
được lựa chọn cho các chiến lược phòng 
ngừa đầu tiên và sau này. 
Tham khảo 
1. Maria Kyrgiou, Ilkka Kalliala , Georgios 
Markozannes, Marc J Gunter, Evangelos 
Paraskevaidis, Hani Gabra, Pierre Martin-
Hirsch, Konstantinos K Tsilidis, Adiposity and 
cancer at major anatomical sites: umbrella 
review of the literature, BMJ 2017; 356 doi: 
https://doi.org/10.1136/bmj.j477 (Published 28 
February 2017)Cite this as: BMJ 2017;356:j477 
2. Ferlay J, Shin HR, Bray F, Forman D, Mathers 
C, Parkin DM. Estimates of worldwide burden 
of cancer in 2008: GLOBOCAN 2008. Int J 
Cancer2010;356:2893-917. 
3. Dixon JB. The effect of obesity on health 
outcomes. Mol Cell Endocrinol2010;356:104-
8.doi:10.1016/j.mce.2009.07.008 pmid:196280
19. 
4. Stevens GA, Singh GM, Lu Y, et al. Global 
Burden of Metabolic Risk Factors of Chronic 
Diseases Collaborating Group (Body Mass 
Index). National, regional, and global trends in 
adult overweight and obesity 
prevalences. Popul Health 
Metr2012;356:22.doi:10.1186/1478-7954-10-
22 pmid:23167948. 
5. NCD Risk Factor Collaboration (NCD-RisC). 
Trends in adult body-mass index in 200 
countries from 1975 to 2014: a pooled analysis 
of 1698 population-based measurement 
studies with 19·2 million 
participants. Lancet2016;356:1377-
96.doi:10.1016/S0140-6736(16)30054-
X pmid:27115820. 
6. Ng M, Fleming T, Robinson M, et al. Global, 
regional, and national prevalence of overweight 
and obesity in children and adults during 1980-
2013: a systematic analysis for the Global 
Burden of Disease Study 
2013. Lancet2014;356:766-
81.doi:10.1016/S0140-6736(14)60460-
8 pmid:24880830. 
7. Marmot M, Atinmo T, Byers T, et al. Food, 
nutrition, physical activity, and the prevention of 
cancer: a global perspective.World Cancer 
Research Fund/ American Institute for Cancer 
Research, 2007. 
8. Ioannidis JP. Why most discovered true 
associations_are_inflated. Epidemiology2008;3
56:640 
9. Ioannidis JP. Why most published research 
findings are false. PLoS Med2005;356: 
e124.doi:10.1371/journal.pmed.0020124 pmid:
16060722. 
10. Dwan K, Gamble C, Williamson PR, Kirkham J
J, Reporting Bias G. Reporting Bias Group. 
Systematic review of the empirical evidence of 
study publication bias and outcome reporting 
bias - an updated review. PLoSOne 2013;356: 
e66844. 
11. Boffetta P, McLaughlin JK, LaVecchia C, Taron
e RE, Lipworth L, Blot WJ.False-positive results 
in cancer epidemiology: a plea for 
41
THÔNG TIN CẬP NHẬT
epistemological modesty. J Natl Cancer 
Inst2008;356:988-95. 
12. Tsilidis KK, Kasimis JC, Lopez DS, Ntzani EE, I
oannidis JP. Type 2 diabetes and cancer: 
umbrella review of meta-analyses of 
observational 
13. Ioannidis JP. Integration of evidence from 
multiple meta-analyses: a primer on umbrella 
reviews, treatment networks and multiple 
treatments meta-
analyses. CMAJ2009;356:488-93. 
14. Markozannes G, Tzoulaki I, Karli D, et al. Diet, 
body size, physical activity and risk of prostate 
cancer: An umbrella review of the 
evidence. Eur J Cancer2016;356:61-
9. doi:10.1016/j.ejca.2016.09.026 pmid:278168
33. 
15. Belbasis L, Savvidou MD, Kanu C, Evangelou 
E, Tzoulaki I. Birth weight in relation to health 
and disease in later life: an umbrella review of 
systematic reviews and meta-analyses. BMC 
Med2016;356:147. doi:10.1186/s12916-016-
0692-5 pmid:27677312. 
16. Bellou V, Belbasis L, Tzoulaki I, Evangelou E, I
oannidis JP. Environmental risk factors and 
Parkinson’s disease: An umbrella review of 
meta-analyses. Parkinsonism Relat 
Disord2016;356:1-
9. doi:10.1016/j.parkreldis.2015.12.008 pmid:2
6739246. 
17. Belbasis L, Bellou V, Evangelou E, Ioannidis J
P, Tzoulaki I. Environmental risk factors and 
multiple sclerosis: an umbrella review of 
systematic reviews and meta-analyses. Lancet 
Neurol2015;356:263-73. doi:10.1016/S1474-
4422(14)70267-4 pmid:25662901. 
18. Theodoratou E, Tzoulaki I, Zgaga L, Ioannidis J
P. Vitamin D and multiple health outcomes: 
umbrella review of systematic reviews and 
meta-analyses of observational studies and 
randomised 
trials. BMJ2014;356:g2035.doi:10.1136/bmj.g2
035 pmid:24690624. 
19. Bellou V, Belbasis L, Tzoulaki I, Middleton LT, I
oannidis JP, Evangelou E. Systematic 
evaluation of the associations between 
environmental risk factors and dementia: An 
umbrella review of systematic reviews and 
meta-analyses. Alzheimers ement2016;S1552-
5260(16)32853-9.pmid:27599208. 
20. Renehan AG, Tyson M, Egger M, Heller RF, Z
wahlen M. Body-mass index and incidence of 
cancer: a systematic review and meta-analysis 
of prospective observational studies. Lancet 
2008;356:569-78. doi:10.1016/S0140-
6736(08)60269-X pmid:18280327. 
21. Singh S, Sharma AN, Murad MH, et al. Central 
adiposity is associated with increased risk of 
esophageal inflammation, metaplasia, and 
adenocarcinoma: a systematic review and 
meta-analysis. Clin Gastroenterol 
Hepatol2013;356:1399-1412.e7. 
22. LaubySecretan B, Scoccianti C, Loomis D, Gro
sse Y, Bianchini F, Straif K. International 
Agency for Research on Cancer Handbook 
Working Group. Body Fatness and Cancer--
Viewpoint of the IARC Working Group. N Engl 
J Med2016;356:794-8. 
23. World Cancer Research Fund 
CUP. 
fund/continuous-update-project-cup. 
24. Gao C, Patel CJ, Michailidou K, et al. on behalf 
of: the Colorectal Transdisciplinary Study 
(CORECT); Discovery, Biology and Risk of 
Inherited Variants in Breast Cancer (DRIVE); 
Elucidating Loci Involved in Prostate Cancer 
Susceptibility (ELLIPSE); Follow-up of Ovarian 
Cancer Genetic Association and Interaction 
Studies (FOCI); and Transdisciplinary 
Research in Cancer of the Lung (TRICL). 
Mendelian randomization study of adiposity-
related traits and risk of breast, ovarian, 
prostate, lung and colorectal cancer. Int J 
Epidemiol2016;356:896-908. 
25. Baer HJ, Colditz GA, Rosner B, et al. Body 
fatness during childhood and adolescence and 
incidence of breast cancer in premenopausal 
women: a prospective cohort study. Breast 
Cancer Res2005;356:R314-25 
26. Thrift AP, Shaheen NJ, Gammon MD, et al. 
Obesity and risk of esophageal 
adenocarcinoma and Barrett’s esophagus: a 
Mendelian randomization study. J Natl Cancer 
Inst2014;356:dju252. doi:10.1093/jnci/dju252 p
mid:25269698. 
27. 107 World Cancer Research Fund International 
/American Institute for Cancer Research. Food, 
Nutrition, Physical Activity, and the Prevention 
of Cancer: A Global Perspective.AICR, 2007. 
28. Carreras-Torres R, Haycock PC, Relton CL, et 
al. The causal relevance of body mass index in 
different histological types of lung cancer: A 
Mendelian randomization study. Sci 
Rep2016;356:31121. doi:10.1038/srep31121 p
mid:27487993

File đính kèm:

  • pdfbeo_phi_va_11_loai_ung_thu_thuong_gap_tong_quan_y_van.pdf