Bệnh xương đái tháo đường một biến chứng đái tháo đường bị lãng quên
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái Tháo Đường (ĐTĐ) là tình trạng tăng
glucose máu kéo dài gây tổn thương, rối loạn
chức năng và suy yếu các cơ quan. Trên thế
giới hiện có 382 triệu người mắc bệnh ĐTĐ
và đến năm 2035 con số này sẽ tăng lên 592
triệu người. Ngoài ra hơn 316 triệu người
Tiền ĐTĐ và dự báo 471 triệu vào năm
2035.Số người mắc bệnh ĐTĐ týp 2 đang gia
tăng ở mọi quốc giađặc biệt trên đối tượng
người cao tuổi.
Khi nói đến ĐTĐ từ lâu người ta thương
quan tâm chủ yếu là tim mạch bao gồm biến
chứng mạch máu nhỏ như bệnh thận, bệnh
võng mạc, bệnh thần kinh ĐTĐ và bệnh mạch
máu lớn như bệnh mạch vành bệnh ĐM 2 chi
dưới, ĐM thận và mạch máu não. Tuy nhiên
tăng đường máu kéo dài và các yếu tố liên
quan bệnh ĐTĐ nói chung còn ảnh hưởng
đến chu chuyển xương và tính toàn vẹn
xương gây ra bệnh lý xương trên người bệnh
ĐTĐ được gọi bệnh xương đái tháo đường
(diabetic osteopathy) cũng là một biến
chứng nghiêm trọng mà từ lâu tại Việt Nam
thường ít quan tâm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bệnh xương đái tháo đường một biến chứng đái tháo đường bị lãng quên
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 3 BỆNH XƯƠNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG MỘT BIẾN CHỨNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG BỊ LÃNG QUÊN GS.TS. Nguyễn Hải Thủy Trường Đại học Y Dược Huế SUMMARY Diabetic Osteopathy: A diabetic complication often ignored Diabetes mellitus (DM) is associated with decreased bone strength as well as increased fracture risk. The link between diabetes and bone appears to be mediated by complex pathways, including the insulin-insulin growth factors system, accumulation of advanced glycation endproducts (AGEs) in bone collagen, microangiopathy, and increased bone marrow fat content.Bone mineral density (BMD)is decreased in type 1 diabetes, but bone fragility in type 2 diabetes mellitus (T2DM), depends on bone quality deterioration rather than bone mass reduction. Thus, surrogate markers and examination methods are needed to replace the insensitivity of BMD in assessing fracture risks of T2DM patients. Also, at least in T2DM, the classical diagnosis of osteoporosis by dual-energy X-ray absorptiometry and the fracture risk estimation by FRAX (fracture risk assessment tool) are only partially useful in assessing fracture risk. Trabecular bone score (TBS) and trabecular bone score- adjusted FRAX offer an enhanced estimation of fracture risk in these patients. One reason for the occurrence of more fractures despite higher bone density in T2D could be an increasedrisk of trauma, which is possibly linked to hypoglycemia or an increased number of falls because of complications from impaired eyesight, cerebral ischemia, and poor balance resulting from neuropathy. Adequate glycemic control is generally associated with decreased fracture risk, with the exception of specific antidiabetics (thiazolidinediones, canagliflozin) that have been shown to have a detrimental effect. Besides optimal glycemic control, general recommendations regarding adequate dietary calcium and Vit.D intake, regular exercise, adequate treatment for diabetes and avoidance of other potential risk factors should be given. Most currently used antiosteoporotic treatments seem equally effective in diabetic patients as compared with patients without diabetes, but clinical data regarding the reduction in fracture risk specifically in patients with diabetes mellitus are lacking. Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hải Thủy Ngày nhận bài: 14/11/2019 Ngày duyệt bài: 31/12/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đái Tháo Đường (ĐTĐ) là tình trạng tăng glucose máu kéo dài gây tổn thương, rối loạn chức năng và suy yếu các cơ quan. Trên thế giới hiện có 382 triệu người mắc bệnh ĐTĐ và đến năm 2035 con số này sẽ tăng lên 592 triệu người. Ngoài ra hơn 316 triệu người Tiền ĐTĐ và dự báo 471 triệu vào năm 2035.Số người mắc bệnh ĐTĐ týp 2 đang gia tăng ở mọi quốc giađặc biệt trên đối tượng người cao tuổi. Khi nói đến ĐTĐ từ lâu người ta thương quan tâm chủ yếu là tim mạch bao gồm biến chứng mạch máu nhỏ như bệnh thận, bệnh võng mạc, bệnh thần kinh ĐTĐ và bệnh mạch máu lớn như bệnh mạch vành bệnh ĐM 2 chi dưới, ĐM thận và mạch máu não. Tuy nhiên tăng đường máu kéo dài và các yếu tố liên quan bệnh ĐTĐ nói chung còn ảnh hưởng đến chu chuyển xương và tính toàn vẹn xương gây ra bệnh lý xương trên người bệnh ĐTĐ được gọi bệnh xương đái tháo đường (diabetic osteopathy) cũng là một biến chứng nghiêm trọng mà từ lâu tại Việt Nam thường ít quan tâm. Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 4 Biểu đồ 1. BMD đo tại cổ xương đùi và cột sống của bệnh nhân ĐTĐ cao hơn so với người không ĐTĐ Tất cả các thể bệnh ĐTĐ đều có tác động đến nguy cơ gãy xương liên quan đến loãng xương[1-2], trong đóbệnh nhân ĐTĐT2 thường có mật độ khoáng xương (BMD) bình thường hoặc cao. Vì vậy, bệnh ĐTĐcó thể liên quan đến việc giảm độ bền của xương nhưng không phản ánh hoàn toàn khi đo BMD[3]. Nhiều nghiên cứu ghi nhận ĐTĐT2 có liên quan đến tăng nguy cơ gãy xương đùi ở cả nam giới vớichỉ số nguy cơ tương đối (RR) 2.8 và nữ là 2.1. Kết quả phù hợp các nghiên cứu được thực hiện tại Hoa Kỳ và Châu Âu. Mối liên quan giữa thể bệnh ĐTĐ và gãy xương đùi trong ĐTĐ týp 1 với RR= 6.3, cao hơn so với ĐTĐ týp 2 với RR= 1.7 .Vestergaard và CS ước tính tỷ lệ nguy cơ ĐTĐ và gãy xương đùi là 1,38 đối với ĐTĐT2 và 6,94 đối với ĐTĐT1. Ngoài ra tăng nguy cơ gãy xương ngoài cột sống (nonspine fracture) cũng đã được ghi nhận ở ĐTĐT2 [4]. Nghiên cứu 109.983 Y tá trong độ tuổi 34- 59 và theo dõi 22 năm đối với biến chứng gãy xương đùi ghi nhận cả ĐTĐ týp 1 và typ 2 có liên quan đến tăng nguy cơ gãy xương đùi. Kết quả của nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết phải có chiến lược phòng chống gãy xương ở tất cả bệnh nhân ĐTĐ [5]. Bệnh xương ĐTĐ là một bệnh đồng mắc của bệnh nhân ĐTĐ và được đặc trưng bởi những thay đổi kiến trúc vi mô làm giảmchất lượng xương dẫn đến tăng nguy cơ gãy xương ở các týp ĐTĐ .Hiện nay, chẩn đoán loãng xương dựa trên đo mật độ khoáng xương (BMD) Đo hấp phụ năng lượng tia X kép (Dual Energy Xray Absorptiometry- DEXA, DXA).Kết quả được báo cáo có sự khác biệt, trong độ lệch chuẩn (SD), Khối lượng xương đỉnh (Peak Bone Mass) (T-score). Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa loãng xương khi chỉ số BMD < - 2,5 . Giảm BMDcó giá trị dự báo nguy cơ loãng xương . Tuy nhiên, mặc dù được sử dụng rộng rãi nhưng hạn chế chính của BMD làsự chồng chéo đáng kểvề BMD giữađối tượng có và không có gãy xương. giải thích cho điều này là BMD không phản ảnh tất cả các yếu tố góp phần vào độbền của xương. Trong số các yếu tố này là vi cấu trúc xương xốp (trabecular), cũng là một yếu tố quyết định đáng kể độ cứng của xương và bổ sung cho mật độ xương. Một hạn chế khác của phép đo BMD là đánh giá không tương xứng với vỏ xương tùy thuộc vào vị trí đo có tỷ lệ chu chuyển xương tương đối chậm. Trong quá trình quét DXA một số thông số khác có thể giúp xác định những bệnh nhân có nguy cơ gãy xương cao, như chiều dài cổ xương đùi, góc cổ thân, moment quán tính thời điểm cắt ngang và độ dày vỏ xương. Ngoài ra, chúng phản ánh hình thái hoặc cấu trúc đại thể, vốn chịu ảnh hưởng của BMD. Đặc biệt trên bệnh nhân ĐTĐ có nhiều yếu tố Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 5 nguy cơ vì thế tiêu chí phân loại loãng xương cần được sửa đổi bao gồm các yếu tố nguy cơ lâm sàng. 2. CƠ CHẾ BỆNH SINH Bệnh xương ĐTĐ Bệnh ĐTĐ tác động đến xương thông qua một số cơ chế, trong đó một số có thể có cơ chế tác động mâu thuẫn.Nhiều nghiên cứu ghi nhận nguy cơ gãy xương của ĐTĐT1do giảm BMD. Sự hình thành xương bị suy yếu này là kết quả của sự thiếu hụt insulin và yếu tố tăng trưởng giống insulin-1 (Insulin like Grow Factor-1), dẫn đến giảm khối lượng xương đỉnh (peakbone mass). Biểu đồ 2. Khối lượng xương đỉnh (peakbone mass) thay đổi theo tuổi và sinh lý Ngoài ra một số bệnh tự miễn khác đi kèm với ĐTĐT1có thể dẫn đến một yếu tố nguy cơ bổ sung cho loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương (loãng xương thứ phát) trong ĐTĐT1[6]. Ngược lại trong bệnhĐTĐT2, béo phì, tăng tải xương và kháng insulin làm tăng insulin máu dẫn đến tăng tạo xương. Vì thế trong ĐTĐT2 chất lượng xương giảm hơn là giảm BMD. Tuy nhiên trong các thể ĐTĐ ghi nhận xương kém chất lượng và độbền. Biều đồ 3. Các dạng liên kết chéo của collagen tại xương Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 6 2.1. Rối loạn trong hình thành liên kết chéo của Collagen (Alterations in Collagen Cross-Link Formation). Cơ chất xương bao gồm vật liệu hỗn hợp hai pha - pha khoáng (cung cấp độ cứng) và các sợi collagen (cung cấp độ bền, độ dẻo dai và biến dạng ) [7]. Sự liên kết chéo collagen đóng một vai trò quan trọng trong độ bền của xương [8]. Collagen liên kết chéo có thể được chia thành liên kết chéo hai chiều có enzyme chưa thành thục qua trung gan lysyl-hydroxylasea và lysyl-oxidase, liên kết chéo ba chiều thành thục và liên kết chéo Non-enzymatic do sự đường hóa (glycation) hoặc oxy hóa (AGEs) như là Pentosidine[9]. Các loại liên kết chéo này khác nhau về cơ chế hình thành và chức năng[10]. Không chỉ tăng đường huyết mà lại còn do Stress oxy hóa làm giảm sự liên kết chéo enzyme có lợi và tích tụ các AGE bất lợi trong xương. Biểu đồ 4. Liên kết chéo của collagen liên quan tăng glucose tại xương 2.2. Những thay đổi chất chỉ điểm chu chuyển xương (BTM). Chu chuyển xương là một mối quan hệ kép giữa quá trình hình thành xương bởi các tạo cốt bào (tạo xương mới) và quá trình hủy xương bởi các hủy cốt bào (loại bỏ xương cũ). Các chất chỉ điểm xương gồm 2 nhóm tạo xương và hủy xương. Các chất tạo xương bao gồm Osteocalcin (OCN), Phosphatase alkaline đặc hiệu xương (BAP), Phosphatase kiềm (AP), Procollagen type 1 amino terminal propeptide (P1NP), và Procollagen type 1 carboxyl terminal propeptide (P1CP), Các chỉ điểm hủy xương bao gồm N terminal cross-linked telopeptide of type-I collagen (NTX) và C-terminal cross-linked telopeptide of type-I collagen (CTX) Một số chất chỉ điểm như OC, CTX, và P1NP, cũng có thể thay đổi nồng độ đường máu hoặc thu nhận glucose, làm cho bệnh nhân ĐTĐ có ít chất chỉ điểm chu chuyển xương và có nhiều chất chỉ điểm rối loạn chuyển hóa glucose. Trong hầu hết các nghiên cứu về chỉ điểm chu chuyển xương, Osteocalcin, một chỉ điểm tạo xương bị giảm trong ĐTĐT2.[7]. Biểu đồ 5. Vai trò sinh lý của Osteocalcin Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 7 Osteocalcin (OC), một trong những protein tiết ra đặc trưng của tạo cốt bào có một số đặc tính nội tiết tố và được tiết ra trong tuần hoàn thông thường từ các tạo cốt bào . Các nghiên cứu trên động vật ghi nhận tác động của uncarboxylated Osteocalcin (ucOC) liên quan đến chuyển hóa xương và chuyển hóa glucose và khối lượng chất mỡ[8-9]. Pittas et al. ghi nhận nồng độ OC huyết thanh có tương quan nghịch với glucose huyết tương lúc đói, insulin đói, HOMA-IR, hsCRP, interleukin-6, BMI và mỡ cơ thể [10]. Tuy nhiên, các chỉ điểm tạo xương khác không nhất thiết khác nhau ở bệnh nhân đái tháo đường. Các chỉ điểm hủy xương được báo cáo là gia tăng, giảm hoặc không khác biệt ở người bệnh ĐTĐ. Biểu đồ 6. Vai trò sinh lý của Sclerostin Ngoài ra chức năng thận, có thể ảnh hưởng đến việc định lượng một số chất chỉ điểm sinh học của chu chuyển xương và cũng ảnh hưởng đến hình thái mô học cấu trúc của xương.Việc thiếu sự khác biệt trong các chỉ điểm chu chuyển xương chỉ ra rằng ĐTĐT1 và ĐTĐT2 không khác nhau về hiệu ứng trên các chất chỉ điểm xương, mặc dù trong ĐTĐT2nồng độ Sclerostin (Scl) cao hơn, đề xuất xương bị ảnh hưởng thông qua hiệu ứng đối kháng theo hướng chuyển hóa Wnt trong ĐTĐT2, nhưng trong ĐTĐT1 thì không[11]. 2.3. Osteoprotegerin và RANK (Receptor Activator of Nuclear factor Kappa B) Biểu đồ 7. Liên quan giữa Osteoprotegerinvà RANK Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 8 Nồng độ Osteoprotegerin (OPG) huyết thanh tăng đáng kể ở bệnh nhân ĐTĐ làm thúc đẩy nhiều nghiên cứu liên quan giữa sản xuất/giải phóng OPG và nồng độ đường huyết [12]. Biểu đồ 8. Liên quan giữa RANK và RANKL Osteoprotegerin là một protein thuộc họ thụ thể yếu tố hoại tử khối u (TNFR) có khả năng liên kết với RANKL (Receptor activator ofnuclear factor kappa B ligand), ngăn RANKL liên kết với RANKvà ức chế sự thành lập hủycốt bào. Gia tăng nồng độ Osteoprotegerin ở bệnh nhân ĐTĐT1có thể là do phản ứng của cơ thể đối tăng hủy xương . Nồng độ huyết thanh OPG cũng tăng đáng kể ở bệnh nhân ĐTĐT2 so với những người khỏe mạnh hiến máu [12]. 2.4. Đường dẫn tín hiệu Wnt. Tín hiệu Wnt cũng được cho là một tính năng gây bệnh loãng xương trong ĐTĐ.Tín hiệu WNT đã được chứng minh là một con đường điều tiết quan trọng trong sự biệt hóa về tạo xương của các tế bào gốc trung mô không chỉ trong sự phát triển của phôi mà còn trong việc duy trì và phân biệt tế bào gốc ở độtuổi trưởng thành. Kích hoạt con đường tín hiệu Wnt thúc đẩy sự tạo xương trong khi bất hoạt của con đường Wnt dẫn đến tình trạng loãng xương. Kích hoạt và bất hoạt tính quang sai lạc của đường tín hiệu Wnt chuẩn trong tạo xương gây xơ cứng và loãng xương. Biểu đồ 9. Đường dẫn tín hiệu Wnt Mani et al. đã chỉ ra rằng một đột biến đơn lẻ trong Protein 6 liên quan thụ thể LDL.(LDL.R), đồng thụ thể cho con đường tín hiệu Wnt, có liên quan về mặt di truyền với bệnh loãng xương cũng như ĐTĐ, rối loạn lipid máu và bệnh mạch vành. Ngoài ra, một số nghiên cứu đã ghi nhận rằng yếu tố phiên mã đặc hiệu tế bào T4 (TCF-40), đồng hành của þ-catenin trong con đường tín Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 9 hiệu WNT kinh điển, là gen nhạy cảm mạnh nhất ĐTĐT2[13]. 2.5. Yếu tố di truyền. Mật độ khoáng xương bị ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền. Sự đa hình gen A1-type-1- collagen (COL1A1) ở bệnh nhân ĐTĐT1 có liên quan với giảm BMD ở cổ xương đùi và giảm nồng độ vitamin D huyết thanh so với nhóm chứng [38]. Sự đa hình của gen thụ thể Vitamin D cũng ảnh hưởng trên BMD ở bệnh nhân ĐTĐ[14]. 3. YẾU TỐ NGUY CƠ Các yếu tố nguy cơ bất thường cho gãy xương do loãng xương được biết đến và chúng được liệt kê trong Bảng 1 như sau. Bảng 1. Các YTNC gãy xương do loãng xương ở bệnh ĐTĐ . Nguy cơ loãng xương Trực tiếp do bệnh ĐTĐ ĐTĐ týp 1 và týp 2 Kiểm soát đường huyết kém và tăng đường huyết Hạ đường huyết (do điều trị ĐTĐ) Biến chứng của bệnh ĐTĐ Bệnh thận và các bệnh thận khác Bệnh lý thần kinh Tiêu chảy trong đái tháo đường Bệnh kèm với bệnh đái tháo đường Rối loạn chức năng tuyến giáp (bệnh Graves) Các bệnh đường ruột và Celiac Sprue (không dung nạp gluten) Vô kinh Dậy thì muộn Rối loạn ăn uống Nguy cơ té ngã Các đợt hạ đường huyết do dùng thuốc (chủ yếu là Insulin) Chứng tiểu đêm (trong thời gian ĐTĐ không kiểm soát) Thị lực giảm do bệnh võng mạc hoặc đục thủy tinh thể Thăng bằng kém do bệnh thần kinh, loét bàn chân, hoặc cắt cụt bàn chân ĐTĐ Hạ huyết áp thế đứng (do bệnh lý thần kinh tự động tim) Giảm khả năng vận động của khớp do cứng khớp và bệnh khớp 3.1. Tăng đường huyết Tăng đường huyết tác động lên các tế bào mô xương làm tăng sản xuất Interleukin-6 (IL-6) trong dòng tạo cốt bào (osteoblast) và IL-6 kích thích hủy cốt bào (osteoclasts)gây hủy xương. Tăng đường máu làm tăng sự tích lũy của các sản phẩm đường hóa bậc cao (AGEs) trong collagen dẫn đến giảm chất lượng xương và độ bền xương. Hơn nữa, collagen gắn đường sẽ gây ức chế sự biểu hiện các tạo cốt bào[15]. Mối liên quan giữa tăng đường huyết và nguy cơ gãy xương dường như không tuyến tính. Các nghiên cứu đã báo cáo không tăng nguy cơ, hoặc thậm chí giảm nguy cơ , khi so sánh những người có rối loạn dung nạp glucose với những người có đường huyết bình thường. Bên cạnh đo tăng thải glucose niệu còn có một tác dụng gián tiếp khác của tăng đường huyết, gây tăng đào thải calci niệu, dẫn đến giảm khố ... p (kết nối thấp, số lượng xương xốp thấp và không gian rộng giữa bè xương xốp). Nếu chiếu cấu trúc này lên mặt phẳng, sẽ có được một hình ảnh chứa số lượng biến thể giá trị pixel thấp, nhưng biên độ của các biến thể này cao. Số lượng xương xốp bị mất trong quá trình lão hóa ở phụ nữ và nam giới là tương tự hoặc chỉ hơi ít ở nam giới hơn so với phụ nữ . Sức bền của đốt sống bị tổn hại nhiều hơnbằng cách mất kết nối hơn bởi xương xốp mõng. TBS đo mức độ suy thoái của cấu trúc xương xốp. Nghiên cứu hồi cứu lớn với hơn 29.000 phụ nữ sau mãn kinh cho thấy TBS dự đoán độc lập gãy xương ở một nhóm bệnh nhân ĐTĐ [32]. Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu sử dụng kết quả BMD từ cơ quan đăng ký lâm sàng. Đánh giá khả năng của TBS cột sống thắt lưng để tăng nguy cơ gãy xương ở T2DM ở 56 phụ nữ mãn kinh sau bệnh nhân ĐTĐ typ 2 và 61 bệnh nhân nữ không có DM hoặc IGT. T2DM có liên quan với BMD cao hơn (1,155 so với 1,048 g / cm 2 trung bình, P<0,05) ở tất cả các vị trí nhưng cột sống thắt lưng TBS thấp hơn (1,211 so với 1,295 ở mức trung bình, P<0,05). Tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh (aOR) cho phép đo ở mức thấp nhất so với cao nhất là dưới 1 đối với BMD (P<0,05) nhưng tăng lên TBS cột sống thắt lưng (aOR 2,39, khoảng tin cậy 95% (CI) 2,22–2,81). Cũng theo những kết quả này cột sống thắt lưng TBS dự đoán gãy xương ở những người bị tiểu đường và chiếm một phần lớn nguy cơ gãy xương do tiểu đường hơn BMD [33]. Bảng 2. Trình bày nguyên tắc của chỉ số xương xốp (TBS) và một số ví dụ trong đó TBS dường như độc lập với BMD. Phía trên là các hình ảnh BMD và TBS của một phụ nữ 73 tuổi, với chỉ số BMI 24,2, BMD cột sống là 0,972 g / cm 2 và TBS là 1,459. Phía dưới là hình ảnh BMD và TBS của một phụ nữ 74 tuổi, với chỉ số BMI là 24,3 , BMD cột sống là 0,969 g/cm2 và TBS là 1,243. Chứng minh nguyên tắc giá trị TBS cao khi nhiều xương xốp được kết nối và ít thưa xương, trong khi số lượng xương xốp ít và kết nối kém và thưa Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 15 xương hơn với khi giá trị TBS thấp. Về phương diện lâm sàng, TBS có thể dự báo nguy cơ gãy xương. Sử dụng TBS có thể tăng số lượng bệnh nhân có nguy cơ được xác định, cải thiện việc quản lý bệnh nhân trong đó chất lượng xương có tác động lớn hơn so với số lượng xương. TBS giúp theo dõi sự tiến hóa của cấu trúc xương xốp của bệnh nhân theo thời gian và theo dõi các tác động của điều trị thuốc chống loãng xương hoặc đồng hóa. Trên bệnh nhân ĐTĐ, TBS có thể được sử dụng như một phương tiện chẩn đoán và sử dụng để đánh giá hiệu quả điều trị. TBS không thay thế hoàn toàn các thăm dò hiện có mà giúp bổ sung và hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng quyết định. BMD và TBS là hai tham số độc lập phản ánh các đặc tính xương khác nhau: số lượng và chất lượng. Cả BMD và TBS đều rất quan trọng trong việc đánh giá sức mạnh của xươngcũng như đưa ra quyết định về loại điều trị . 5. BIỆN PHÁP CAN THIỆP BỆNH XƯƠNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG Những cân nhắc điều trị ở những bệnh nhân ĐTĐ bị loãng xương là những khuyến nghị từ thực hành lâm sàng tốt hơn là nghiên cứu dựa trên bằng chứng (Bảng 3). Bảng 3: Quản lý chung loãng xương ở bệnh nhân ĐTĐ. (i) Tránh nhóm Glitazones (ii) Kiểm soát đường huyết tốt (iii) Giảm thiểu các cơn hạ đường huyết (iv) Phòng ngừa biến chứng ĐTĐ, đặc biệt là bệnh thận (v) Để đánh giá và dự phòng té ngã (vi) Bổ sung canxi và vitamin D (vii) Thuốc chống loãng xương đặc hiệu (điều trị chống hủy xương hoặc điều trị đồng hóa xương) Tất cả bệnh nhân ĐTĐ cần được tư vấn về nguy cơ loãng xương và gãy xương. Bệnh nhân nên được tư vấn về lượng calci đủ (ít nhất 100-1200mg/ngày) và lượng vitamin D (800–1000 IU / ngày). Khi bệnh nhân đáp ứng các hướng dẫn điều trị, có một số lựa chọn bao gồm các thuốc chống loãng xương như bisphosphonates, denosumab (ức chế RANK Ligand), SERM, tác nhân đông hóa và Teriparatide (PTH) . Không có dữ liệu lâu dài về hiệu quả của một trong những loại thuốc này ở bệnh nhân ĐTĐ[34]. Việc kiểm soát đường huyết đầy đủ ở những bệnh nhân ĐTĐ đặc biệt quan trọng vì có dữ liệu cho thấy các biến chứng vi mạch của ĐTĐ, như bệnh võng mạc và bệnh thần kinh, phát sinh từ sự kiểm soát đường huyết chưa đạt lý tưởng, có thể dẫn đến việc té ngã và gãy xương tiếp theo. 6. KẾT LUẬN Dựa trên các dữ liệu hiện tạicho thấy bệnh nhân ĐTĐ có nguy cơ cao bị gãy xương, vì vậy sàng lọc loãng xương trên bệnh nhân ĐTĐlà hợp lý. Hướng dẫn sàng lọc loãng xương có thể được sử dụng cho bệnh nhân T1DM và T2DM, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là ĐTĐ là yếu tố nguy cơ loãng xương và gãy xương và gãy xương có thể xảy ra ở mật độ BMD cao hơn ở bệnh nhân DM [108] ]. Kết quả của sự thiếu hiệu quả của BMD trong việc đánh giá nguy cơ gãy xương trong ĐTĐT2, các vấn đề lâm sàng chính là làm thế nào để đánh giá rủi ro và khi nào bắt đầu điều trị để ngăn ngừa gãy xương trong thực hành hàng ngày. Mặc dù có những chất chỉ điểm tiềm năng (osteocalcin, AGEs và insulin) cho những mục đích như vậy, không rõ liệu có thể tiên đoán được sự xuất hiện gãy xương mới ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 hay không và có thể sử dụng trong thực hành hàng ngày. Một quy trình đơn giản và được khuyến cáo cho tất cả các bác sĩ tham gia điều trị T2DM là đặt câu hỏi cho bệnh nhân về tiền sử gãy xương của họ. Khoảng một nửa trong số họ sẽ được xác định là những người có khả năng xương và cần điều trị loãng xương để phòng ngừa gãy xương. Ngoài ra nếu bệnh nhân ĐTĐT2 trải qua xét nghiệm cột sống X quang chúng ta nên trực tiếp tìm kiếm gãy xương sống. Gần đây, thuật toán đánh giá nguy cơ gãy xương (FRAX) đã được phát triển bởi WHO, có thể Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 16 đánh giá nguy cơ gãy xương của một cá nhân ngay cả khi không đo được BMD. Thuật toán này tích hợp ảnh hưởng của một số yếu tố nguy cơ được xác định tốt cho gãy xương độc lập với BMD và do đó nó có thể hữu ích cho chiến lược phát hiện trường hợp xác định bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ gãy xương cao. TBS là một tham số mới, được xác định từ phân tích cấp độ xám của hình ảnh DXA. TBS đáp ứng nhu cầu về một phương pháp không xâm lấn để đánh giá vi kiến trúc xương - yếu tố quyết định sức mạnh của xương.Ngoài ra, TBS có thể được ước tính rất đơn giản, sử dụng các máy DXA có sẵn rộng rãi và trong cùng một quy trình như phép đo BMD. TBS là một giá trị định lượng, có thể tái sản xuất và dễ xử lý. REFERENCES 1. S. Kurra and E. Siris, “Diabetes and bone health: the relationship between diabetes and osteoporosis-associated fractures,”Diabetes/Metabolism Research and Reviews,vol.27,no.5,pp.430–435, 2011. 2. M.Janghorbani,R.M.van Dam,W.C.Willett,and F.B.Hu,“Systematic review of type 1 and type 2 diabetes mellitus and risk of fracture,”American Journal of Epidemiology,vol.166,no. 5, pp. 495–505, 2007. 3. P. Vestergaard, “Discrepancies in bone mineral density and fracture risk in patients with type 1 and type 2 diabetes— a metaanalysis,”Osteoporosis International,vol.18,no.4,pp.427–444, 2007. 4. L. J. Melton III, C. L. Leibson, S. J. Achenbach, T. M. Therneau, and S. Khosla, “Fracture risk in type 2 diabetes: update of a population-based study,”Journal of Bone and Mineral Research, vol.23, no.8, pp.1334– 1342,2008. 5. M. Janghorbani, D. Feskanich, W. C. Willett, and F. Hu, “Prospective study of diabetes and risk of hip fracture,”Diabetes Care,vol.29,no.7,pp.1573–1578,2006. 6. S. A. Brown and J. L. Sharples, “Osteoporosis: an underappreciated complication of diabetes,”Clinical Diabetes,vol.22,no. 1, pp. 10–20, 2004. 7. J. M. Kindblom, C. Ohlsson, O. Ljunggren et al., “Plasma osteocalcin is inversely related to fat mass and plasma glucose in elderly Swedish men,”Journal of Bone and Mineral Research, vol.24,no.5,pp.785–791,2009. 8. N. K. Lee, H. Sowa, E. Hinoi et al., “Endocrine regulation of energy metabolism by the skeleton,”Cell,vol.130,no.3,pp.456–469, 2007. 9. M.Ferron,E.Hinoi,G.Karsenty,andP.Ducy, “Osteocalcin differentially regulatesþcell and adipocyte gene expression and affects the development of metabolic diseases in wild-type mice,”Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America,vol.105,no.13,pp.5266– 5270,2008. 10. A.G.Pittas,S.S.Harris,M.Eliades,P.Stark,a ndB.DawsonHughes, “Association between serum osteocalcin and markers of metabolic phenotype,”JournalofClinicalEndocrinolo gyand Metabolism,vol.94,no.3,pp.827– 832,2009. 11. L. Gennari, D. Merlotti, R. Valenti et al., “Circulating Sclerostin levels and bone turnover in type1 and type2diabetes,”Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, vol.97 , no.5,pp.1737–1744, 2012. 12. P. Secchiero, F. Corallini, A. Pandolfi et al., “An increased osteoprotegerin serum release characterizes the early onset of diabetes mellitus and may contribute to endothelial cell dysfunction ,”American Journal of Pathology,vol.169,no.6,pp.2236–2244, 2006. 13. T. Jin, “The WNT signalling pathway and diabetes Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 17 mellitus,”Diabetologia,vol.51,no.10,pp.17 71–1780,2008. 14. H. Bid, R. Konwar, C. Aggarwal et al., “Vitamin D receptor (FokI, BsmI and TaqI) gene polymorphisms and type 2 diabetes mellitus : a North Indian Study,”Indian Journal of Medical Sciences ,vol.63 ,no.5, pp.187–194,2009. 15. S. Yamagishi, K. Nakamura, and H. Inoue, “Possible participation of advanced glycation end products in the pathogenesis of osteoporosis in diabetic patients,”Medical Hypotheses,vol.65, no. 6, pp. 1013–1015, 2005. A. R¨ akel, O. Sheehy, E. Rahme, and J. LeLorier, “Osteoporosis among patients with type 1 and type 2 diabetes,”Diabetes and Metabolism,vol.34,no.3,pp.193– 205,2008. 16. M. A. Soroc´ eanu,D.Miao,X.- Y.Bai,H.Su,D.Goltzman, and A. C. Karaplis, “Rosiglitazone impacts negatively on bone by promoting osteoblast/osteocyte apoptosis,”Journal of Endocrinology, vol.183, no.1, pp.203– 216,2004. 17. J. Payer, P. Jackuliak, and Z. Killinger, “Risk of osteoporotic fractures in diabetic patients treated with glitazones treatment,” Osteologicky Bulletin,vol.15,no.2,pp.57–60,2010. 18. K. K. Nicodemus and A. R. Folsom, “Type 1 and type 2 diabetes and incident hip fractures in postmenopausal women,”Diabetes Care,vol.24,no.7,pp.1192–1197,2001. 19. B. Nuche-Berenguer, P. Moreno, P. Esbrit et al., “Effect of GLP-1 treatment on bone turnover in normal, type 2 diabetic, and insulin-resistant states,” Calcified Tissue International,vol.84, no. 6, pp. 453–461, 2009. 20. K. Bu´ can, M. Ivaniˇsevi´ c, T. Zemunik et al., “Retinopathy and nephropathy in type 1 diabetic patients—association with polymorphysms of vitamin D-receptor, TNF, Neuro-D and Il-1 receptor 1 genes,”Collegium Antropologicum, vol.33,no.2,pp. 99–105, 2009. 21. V. A. Diaz, A. G. Mainous III, P. J. Carek, A. M. Wessell, and C. J. Everett, “The association of vitamin D deficiency and insufficiency with diabetic nephropathy: implications for health disparities, ”Journal of the American Board of Family Medicine,vol. 22, no. 5, pp. 521– 527, 2009. 22. D.T.Felson,Y.Zhang,M.T.Hannan,andJ.J. Anderson,“Effects of weight and body mass index on bone mineral density in men and women: the Framingham Study,”Journal of Bone and Mineral Research, vol.8, no.5,pp.567–573,1993. 23. J.Compston,J.Flahive,D.W.Hosmeretal.,“ Relation ship of weight, height and body mass index with fracture risk at different sites in postmenopausal women: the Global Longitudinal Study of Osteoporosis in Women (GLOW),”Journal of Bone Mineral Research, vol.29, no.2,pp.487–493,2014. 24. K. Suzuki, C. Sugimoto, M. Takizawa et al., “Correlations between bone mineral density and circulating bone metabolic markers in diabetic patients,”Diabetes Research and Clinical Practice, vol.48, no.3, pp.185–191,2000. 25. S. Volpato, S. G. Leveille, C. Blaum, L. P. Fried, and J. M. Guralnik, “Risk factors for falls in older disabled women with diabetes: the Women's Health and Aging Study,”The Journals of Gerontology A: Biological Sciences and Medical Sciences,vol.60, no.12,pp.1539– 1545,2005. 26. J. A. Kanis, A. Oden, O. Johnell et al., “The use of clinical risk factors enhances the performance of BMD in the prediction of hip and osteoporotic fractures in men and women,”Osteoporosis International, vol. 18, no. 8, pp. 1033–1046, 2007. 27. M. L. Bouxsein, “Bone quality: where do we go from here?” Osteoporosis International, vol. 14, supplement 5, pp. S118–S127, 2003. Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 18 28. J. P. Roux, J. Wegrzyn, and S. Boutroy, “Relationship between Trabecular Bone Score (TBS), Bone Mass and Microarchitecture in Human vertebrae: an ex vivo study,” Osteoporosis International, vol. 23, supplement 2, pp. S385–S386, 2012. 29. D. Hans, N. Barthe, S. Boutroy, L. Pothuaud, R. Winzenrieth,and M.-A. Krieg, “Correlations between trabecular bone score, measured using anteroposterior dual-energy X-ray absorptiometry acquisition, and 3- dimensional parameters of bone microarchitecture: an experimental study on human cadaver vertebrae,”Journal of Clinical Densitometry,vol.14,no.3,pp. 302–312, 2011. 30. J. Wegrzyn, J.-P. Roux, M. E. Arlot et al., “Role of trabecular microarchitecture and its heterogeneity parameters in the mechanical behavior of ex vivo human L3 vertebrae,”Journal of Bone and Mineral Research,vol.25,no.11,pp.2324– 2331,2010. 31. W. D. Leslie, B. Aubry-Rozier, O. Lamy, and D. Hans, “TBS (trabecular bone score) and diabetes-related fracture risk,”Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, vol. 98, no. 2, pp. 602– 609, 2013. 32. P. Jackuliak and J. Payer, “Fracture Risk in Type 2 Diabetes and Trabecular Bone Score,” Accepted for a Poster Presentation at the American Diabetes Association’s 74th Scientific Sessions, San Francisco, Calif, USA, June 2014. 33. J. A. Kanis, E. V. McCloskey, H. Johansson, C. Cooper, R. Rizzoli, and J.- Y. Reginster, “European guidance for the diagnosis and management of osteoporosis in postmenopausal women,”Osteoporosis International,vol.24,no.1,pp.23–57,2013 34. Zibar K, Cuc´a JK, Blaslov K, Bulum T & Smircic-Duvnjak L. Difference in glucagon-like peptide-1 concentrations between C-peptide negative type 1 diabetic mellitus patients and healthy controls.Annals of Clinical Biochemistry201552220–225 35. Schacter GI, Leslie WD. 2017 DXA- based measurements and risk of fractures in type 2 diabetes: results from the in diabetes: can they predict fracture risk? Calcif Tissue Int TECOS trial. Diabetes Obes Metab 19:78–86. .
File đính kèm:
benh_xuong_dai_thao_duong_mot_bien_chung_dai_thao_duong_bi_l.pdf

