Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng

 Bướu sợi (Desmoid tumor) hay bệnh sợi dạng bó sợi (Desmoid-Type fibromatosis) là một bướu có nguồn gốc từ các nguyên bào sợi cơ, không có khả năng di căn xa nhưng có khả năng xâm lấn tại chỗ và tái phát cao. Bệnh này hiếm gặp, chiếm tỉ lệ 0,03% trong tất cả các trường hợp tân sinh và 3% trong tất cả các bướu mô mềm. Tỉ lệ mới mắc khoảng 2-4 người/1 triệu người mỗi năm. Chúng tôi giới thiệu một trường hợp bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Bệnh nhân 35 tuổi, sờ thấy một khối u kích thước khoảng 2x3 cm ở thành bụng cạnh sát bên trái của vết mổ lấy thai tại thời điểm 1 năm sau mổ. Bệnh nhân được theo dõi. Sau đó 3 năm thấy u to nhanh và đau, được chẩn đoán là u lạc nội mạc trong cơ thành bụng. Bệnh nhân được điều trị nội tiết và sau đó được phẫu thuật lấy khối u. Chẩn đoán xác định bởi giải phẫu bệnh

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng

Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng
22
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy 
thai. Báo cáo ca lâm sàng 
Dương Ánh Kim*, Võ Minh Tuấn** 
Tóm tắt 
Bướu sợi (Desmoid tumor) hay bệnh sợi 
dạng bó sợi (Desmoid-type fibromatosis) 
là một bướu có nguồn gốc từ các nguyên 
bào sợi cơ, không có khả năng di căn xa 
nhưng có khả năng xâm lấn tại chỗ và tái 
phát cao. Bệnh này hiếm gặp, chiếm tỉ lệ 
0,03% trong tất cả các trường hợp tân sinh 
và 3% trong tất cả các bướu mô mềm. Tỉ 
lệ mới mắc khoảng 2-4 người/1 triệu người 
mỗi năm. Chúng tôi giới thiệu một trường 
hợp bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng 
sau mổ lấy thai. Bệnh nhân 35 tuổi, sờ 
thấy một khối u kích thước khoảng 2x3 cm 
ở thành bụng cạnh sát bên trái của vết mổ 
lấy thai tại thời điểm 1 năm sau mổ. Bệnh 
nhân được theo dõi. Sau đó 3 năm thấy u 
to nhanh và đau, được chẩn đoán là u lạc 
nội mạc trong cơ thành bụng. Bệnh nhân 
được điều trị nội tiết và sau đó được phẫu 
thuật lấy khối u. Chẩn đoán xác định bởi 
giải phẫu bệnh. 
Giới thiệu 
Bướu sợi có nguồn gốc từ sự tăng sinh đơn 
dòng các nguyên bào sợi của mô mềm ở 
sâu và đặc trưng bởi khả năng xâm lấn tại 
chỗ và tái phát nhưng không có khả năng 
di căn xa.15 Vị trí bướu có thể chia 3 nhóm 
chính là ở thành bụng (49%), ngoài ổ bụng 
(43%), và trong ổ bụng(8%).21 Mặc dù 
không di căn xa nhưng vẫn có thể gây 
nguy hiểm do khả năng xâm lấn tại chỗ và 
tái phát cao nên có thể gây chèn ép cơ 
quan xung quanh đặc biệt nếu bướu ở 
vùng cổ, đầu hay ngực. 
 Tỉ lệ hiện mắc khoảng 2-4 người/1 triệu 
_________________________________________
* Đại học Y Dược TP HCM 
** Đại học Y Dược TP HCM, 
 Email: [email protected] 
người mỗi năm, chiếm tỉ lệ 0,03% trong tất 
cả các trường hợp tân sinh và 3% trong tất 
cả các bướu mô mềm.21 Bệnh này có thể 
xảy ra ở bất kì độ tuổi nào nhưng thường 
gặp là từ 10 đến 40 tuổi, đỉnh điểm là 
khoảng 30 tuổi. Ở trẻ con, tần suất xảy ra 
bệnh như nhau ở cả hai giới và vị trí 
thường gặp là bướu ngoài ổ bụng. Từ khi 
dậy thì đến khoảng 40 tuổi thì bệnh đa số 
gặp ở nữ, vị trí ở thành bụng chiếm ưu thế. 
Sau 40 tuổi thì lại có sự cân bằng về giới 
cũng như về vị trí giữa bướu ở thành bụng 
và ngoài ổ bụng.24 
 Bệnh nguyên do nhiều yếu tố như về 
gene (đột biến gen, bệnh đa polyp có tính 
gia đình, hội chứng Gardner (đa polyp 
ruột, bướu xương, bướu sợi, các nang biểu 
bì)), nội tiết (trong thời gian có thai hay 
sau khi có thai, uống thuốc ngừa thai), hay 
các yếu tố thể chất (chấn thương mô mềm, 
tiền căn phẫu thuật). 
 Bệnh nhân bị bướu sợi khoảng 85% là 
đột biến liên quan tới protein beta-catein 
(được mã hóa bởi gene CTNNB1), số ít thì 
liên quan tới đột biến gene APC 
(Adenomatous Poliposis Coli).10 Khoảng 
5-15 % bệnh nhân bị bướu sợi có kèm theo 
bệnh đa polyp có tính gia đình.1 Khoảng 8-
23 % bệnh nhân bị đa polyp tính gia đình 
có kèm bướu sợi, thường ở vị trí trong ổ 
bụng (mạc treo) hay một số ít ở thành 
bụng, đặc biệt là nữ có đột biến APC và 
tiền căn phẫu thuật.17 Đột biến điểm hay 
mất đoạn trên nhánh dài của nhiễm sắc thể 
số 5 gây bất hoạt gen đè nén u APC là yếu 
tố khởi đầu cho sự phát triển bướu sợi.Tuy 
nhiên sự bất hoạt gen APC này lại chủ yếu 
gặp ở những bệnh nhân bị bướu sợi và bị 
đa polyp tính gia đình hơn là ở những 
trường hợp bướu sợi đơn độc. APC là yếu 
23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
tố điều hòa âm tính với sự ổn định của 
beta-catein trong bào tương, nên khi không 
có sự hoạt động của APC sẽ dẫn đến sự 
hoạt hóa của beta-catein.10 Protein APC 
kết hợp với beta-catein đóng một vai trò 
quan trọng, làm thoái hóa beta-catein và 
làm ức chế chuỗi tín hiệu tế bào của con 
đường Wnt. Những bướu sợi đơn độc có 
thể có đột biến liên quan tới beta-catein. 
Sự đột biến này làm ảnh hưởng đến tác 
động của APC lên sự thoái giáng beta-
catein.15 Dù đột biến liên quan đến APC 
hay beta-catein thì hậu quả cuối cùng sẽ là 
làm tăng lượng protein beta-catein trong 
bào tương, sau đó được chuyển vào nhân 
và kích thích sự phiên mã. Beta-catein có 
vai trò quan trọng trong điều hòa kích 
thước của vết thương ở da thông qua điều 
hòa TGF β (Transforming Growth Factor). 
TGF β sẽ kích thích sự tăng sinh của các 
nguyên bào sợi.9 
 Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vị trí 
bướu. Bướu ngoài ổ bụng (như ở vai, lưng, 
ngực, đùi, cổ,..) thường xuất hiện khối giới 
hạn kém, chắc, nằm sâu, đau nhẹ hoặc 
không đau, đôi khi có thể làm giới hạn 
biên độ vận động của khớp hoặc ảnh 
hưởng tới thần kinh, thường là một vị trí 
nhưng đôi khi có thể cùng lúc ở nhiều chỗ. 
Bướu ở thành bụng thường được phát hiện 
sớm, có thể đau nhẹ hoặc không đau. 
Bướu trong ổ bụng (thường gặp ở vùng 
chậu, mạc treo) thường được phát hiện trễ 
hơn. Nếu bướu ở vùng chậu lâm sàng có 
thể nhầm với bướu buồng trứng. Bướu ở 
mạc treo có thể gây xuất huyết tiêu hóa, 
đau bụng cấp thứ phát do thủng ruột, tắc 
ruột.15 
 Bên cạnh vai trò của chẩn đoán hình ảnh 
thì sinh thiết mô để có chẩn đoán trước khi 
có kế hoạch điều trị là rất quan trọng. Nếu 
đã chẩn đoán xác định trước phẫu thuật, 
thì trong lúc mổ nên cắt bỏ rộng xung 
quanh khối u ít nhất là 3cm.6 Vì nếu cắt bỏ 
khối bướu không hoàn toàn hoặc ngay sát 
bờ phẫu thuật thì nguy cơ tái phát cao. 
Nhưng để đạt được điều đó đôi khi rất khó 
khăn và nguy cơ yếu thành bụng nhiều. 
Khi bóc tách nhiều mô nên cân nhắc tới 
việc đặt tấm lưới polyprolene để hạn chế 
thoát vị thành bụng. Tuy nhiên, một số 
nghiên cứu gần đây cho rằng bờ cắt phẫu 
thuật không còn là yếu tố liên quan tới tái 
phát.13 
 Ngoài hướng điều trị là phẫu thuật thì 
còn có các cách điều trị khác như theo dõi, 
dùng nội tiết, kháng viêm không steroid, 
hóa trị, xạ trị. 
Bệnh án 
Bệnh nhân 35 tuổi, PARA 0111, mổ lấy 
thai năm 2012 tại BV Từ Dũ vì thai 35 
tuần, ối vỡ, giục sanh thất bại, hậu phẫu 
ổn, bé hiện khỏe. Tiền căn phụ khoa chưa 
ghi nhận lạc nội mạc tử cung, không thống 
kinh, chu kì kinh nguyệt đều mỗi 28-30 
ngày, hành kinh 3 ngày. Chưa ghi nhận 
tiền căn bản thân và gia đình về bệnh lý 
polyp đường tiêu hóa. 
 Sau mổ lấy thai 1 năm, bệnh nhân sờ 
thấy 1 khối ở thành bụng trước, sát phía 
bên (T) của vết mổ, kích thước khoảng 
2x3cm, không đau. Bệnh nhân đi siêu âm 
và được hướng dẫn theo dõi thêm. 
 Sau mổ lấy thai 3 năm, thấy khối u tăng 
dần kích thước, đau mỗi khi hành kinh. 
Bệnh nhân thấy u tăng kích thước chậm và 
đau chịu đựng được nên không đi khám. 
Sau mổ lấy thai 4 năm, thấy khối u to 
nhanh lên, sờ thấy khoảng 7x4 cm nên đi 
khám và điều trị ngoại trú tại bệnh viện Từ 
Dũ cụ thể như sau. 
Bảng 1. Tóm tắt điều trị 
Thời gian Lâm sàng Siêu âm CA125 Xử trí 
19/5/2016 Bên (T) vết 
mổ có khối 
chắc 4x7 cm 
Trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) 
có khối echo kém, giới hạn rõ, 
81x41x66 mm. 
KL: Lạc nội mạc trong cơ thành 
bụng vết mổ bên (T) 
9.92U/ml Uống Mercilon (3 vỉ) 
24
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
Thời gian Lâm sàng Siêu âm CA125 Xử trí 
2/8/2016 Vẫn còn đau 
âm ỉ tại vị trí 
khối u 
Trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) 
có khối echo kém, 47x87x64 mm. 
KL: Lạc nội mạc trong cơ thành 
bụng vết mổ bên (T) 
 Chích Zoladex 3 tháng 
(3/10, 31/10, 
30/11/2016) 
30/11/2016 Bớt đau 
nhưng u vẫn 
tăng kích 
thước 
Trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) 
có khối echo hỗn hợp, tăng sinh 
mạch máu, 45x97x78mm. 
KL: Lạc nội mạc trong cơ thành 
bụng vết mổ bên (T) 
8 U/ml Hẹn nhập viện mổ 
Khám lúc nhập viện (5/12/2016): thành 
bụng có vết mổ cũ mổ lấy thai ngang trên 
vệ, lệch về phía trái vết mổ này có khối 
kích thước 7x9 cm ở thành bụng, mật độ 
chắc, giới hạn rõ, di động kém, không đau. 
 Sau nhập viện bệnh nhân được siêu âm 
và làm các xét nghiệm tiền phẫu và các 
marker u buồng trứng (kết quả trong giới 
hạn bình thường). 
Bảng 2. Marker u buồng trứng 
CA125 8 <35 U/ml 
HE4 37,4 <100 ƿmol/l 
ROMA VALUE 3,73 <7,4 % 
AFP 0,96 <7,75 ng/ml 
 Siêu âm (30/11/2016): Tử cung ngả 
trước, đường kính trước sau 28mm, nội 
mạc 5mm, mật độ đều. Buồng trứng 2 bên 
bình thường. Cơ thành bụng bên (T) vết 
mổ lấy thai có khối echo hỗn hợp, đường 
kính 45x97x78 mm,tăng sinh mạch máu. 
Kết luận: Theo dõi lạc nội mạc tử cung ở 
vết mổ thành bụng (T). Hình 1,2,3. 
Hình 1. Hình siêu âm khối u trước mổ 
 Bệnh nhân được mổ hở cắt khối u lạc 
nội mạc tử cung thành bụng, đặt dẫn lưu 
(8/12/2016). 
Rạch da theo đường ngang trên vệ, cắt bỏ 
sẹo mổ cũ. Qua lớp cân thấy có 1 khối 
cứng chắc, kích thước # 10x6x8 cm (chiều 
dài x ngang x sâu),nằm giữa lớp phúc mạc 
và cơ thành bụng, dính chặt vào các màng 
cân ở xương mu bên (T). Khối này ăn lan 
vào cơ thắng bụng, cơ tháp, cơ chéo bé của 
thành bụng (T) (hình 4, 5, 6). Vào ổ bụng 
thám sát thấymặt sau phúc mạc thành vẫn 
trơn láng, bàng quang và các quai ruột 
không dính vào khối u này. Tử cung, 2 
phần phụ, ruột, dạ dày, gan, mạc nối lớn 
chưa ghi nhận bất thường. 
 Tiến hành: bóc tách phần cơ tháp, cơ 
chéo bé, cơ thẳng bụng còn lành, không 
có mô lạc nội mạc thâm nhiễm ra khỏi 
bướu. Ghi nhận mất khá nhiều cơ thẳng 
bụng và cơ chéo bé. Cắt lấy trọn khối 
bướu gởi giải phẫu bệnh (hình 7,8). Đóng 
phúc mạc. Khâu ráp các cơ còn lại vào bó 
cơ thẳng bụng đối bên nếu có thể. Đặt dẫn 
lưu Hemovac vùng bẹn (T). Máu mất tổng 
cộng 100 ml. 
Hình 2. Mặt trước khối u, đã bóc tách một phần 
cơ thẳng bụng. 
25
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
Hình 3: Mặt bên ngoài khối u Hình 4: Mặt sau khối u 
Hình 5: Mặt trong khối u đã xẻ Hình 5: Mặt ngoài khối u 
Bảng 3. Kết quả giải phẫu bệnh lý (12/12/2016) 
Mô tả đại thể A,B: khối mô #9x7x6 cm,bị xẻ một phần, mặt cắt trắng, đặc, dai 
Mô tả vi thể A,B: Mô u gồm các tế bào hình thoi dạng nguyên bào sợi, hạt nhân rõ,chất nhiễm sắc tăng 
sắc, to nhỏ không đều, có khi có 2 hay 3 nhân, các tế bào này xếp dạng bó, đan chéo vào 
nhau và xen lẫn vào mô cơ vân, có ít phân bào 
Kết luận Bệnh sợi dạng bó sợi (Desmoid type fibromatosis) 
Hậu phẫu 5 ngày ổn, xuất viện, được 
chuyển qua bệnh viện Ung Bướu điều trị 
theo dõi tiếp. 
Bàn luận 
Bướu sợi và thai kì (xuất hiện trong thai kì 
và trong vòng 3 năm sau sanh) được mô tả 
lần đầu vào năm 1832 bởi Macfarlene ở 
một phụ nữ trẻ trong giai đoạn hậu sản và 
được phẫu thuật cắt bỏ khối bướu ở thành 
bụng. Vị trí thường gặp xuất phát từ các 
cấu trúc cân cơ của thành bụng, đặc biệt là 
của cơ thẳng bụng và cơ chéo trong cơ 
thẳng bụng hoặc sẹo mổ lấy thai, nhất là 
bên phải có lẽ do căng giãn do cử động 
thai hoặc sự chấn thương trong lúc mổ.22 
 Bệnh thường ảnh hưởng độ tuổi từ 10 
đến 40, đỉnh là 30 tuổi, 87% xảy ra ở nữ 
trong độ tuổi này, 95% bệnh nhân có 1 
con.18 Vị trí bướu ở cơ thành bụng trong 
độ tuổi sinh đẻ vẫn thường gặp nhất, có thể 
gặp trong thai kì hoặc sau sanh (nhất là 
trong vòng 1 năm sau sanh) trung bình là 
15,4±8,3 tháng.20,15 Trường hợp này bệnh 
nhân 35 tuổi, Para 1011. Bệnh nhân này sờ 
thấy khối bướu lần đầu là 1 năm sau khi 
mổ lấy thai.Vì ở thành bụng nên bướu 
thường được phát hiện sớm khi bướu còn 
nhỏ. Triệu chứng có thể đau nhẹ hoặc 
không có triệu chứng gì. Bệnh nhân này 
lúc đầu khi mới phát hiện khối bướu thì 
hoàn toàn không đau. Sau đó bệnh nhân 
thấy đau khi có kinh và hết đau khi hết 
kinh. Con đường Wnt/beta-catein sẽ làm 
tăng phiên mã gene COX2 từ đó làm tăng 
protein COX 2 (Cyclooxygenase 2), tăng 
tạo prostaglandins.2,3,13 Nghiên cứu cho 
thấy sự bài tiết COX 2 từ dưỡng bào sẽ 
điều hòa cảm giác đau trong bướu sợi.12 
Đau bụng kinh do nhiều nguyên nhân 
26
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
trong đó có liên quan tới prostaglandin. 
Trước đây, khi có kinh bệnh nhân không 
bị đau. Sau này mới đau khối bướu khi 
hành kinh. Điều này có lẽ dó sự tăng thêm 
của prostaglandin do bản thân khối bướu 
phối hợp với prostaglandin khi hành kinh. 
Chính vì triệu chứng này mà trên lâm sàng 
bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm là u lạc nội 
mạc trong cơ thành bụng sau mổ lấy thai 
mặc dù CA125 không cao.Với những 
trường hợp có khối u ở mô mềm, nếu nghi 
ngờ sarcoma (khối u to trên 5 cm, lớn 
nhanh, đau, nằm sâu dưới mô dưới da, tái 
phát tại vị trí mổ cũ) thì nên được làm 
chẩn đoán hình ảnh như MRI, sinh thiết lõi 
và chuyển đến chuyển khoa.18 
Điều trị 
Vai trò của phẫu thuật được tranh luận 
nhiều vì nguy cơ khi mổ, suy giảm chức 
năng, ảnh hưởng chất lượng cuộc sống, 
cũng như nguy cơ tái phát sau này. Đối 
với bướu ở những vị trí khó phẫu thuật thì 
việc cố gắng cắt bỏ khối bướu hoàn toàn 
đôi khi lại gây những tai biến nguy hiểm. 
Hơn nữa khả năng tái phát sau mổ cũng 
cao, tùy thuộc nhiều yếu tố. Với vị trí 
bướu ở thành bụng khả năng tái phát là 
thấp nhất (khoảng 8%) so với bướu trong ổ 
bụng (13%) và bướu ngoài ổ bụng (39-
79%).8 Ngoài ra, tỉ lệ tái phát tăng dần nếu 
cắt bỏ khối bướu không đủ rộng, tỉ lệ tái 
phát lần lượt là 67%, 50%,0% tương ứng 
với bờ phẫu thuật là R0, R1, R2.19 Trong 
khi nếu không phẫu thuật , chỉ theo dõi sát 
thì tỉ lệ bệnh không tiến triển trong 3 năm, 
5 năm lần lượt là 90%, 50%.19 Tỉ lệ bướu 
thoái triển tự nhiên khoảng 20-28%.13 Do 
vậy, hiện một số trung tâm với bướu ở 
thành bụng nếu không triệu chứng, không 
tăng nhanh kích thước và bướu dưới 7 cm 
thì lựa chọn đầu tiên là theo dõi chứ không 
nên phẫu thuật.8,25 Thường sẽ quan sát 
trong vòng 1 tới 2 năm đầu. Quyết định 
can thiệp phụ thuộc nhiều yếu tố như kích 
thước bướu, tốc độ phát triển, vị trí bướu, 
mức độ chèn ép, nguy cơ mất chức năng 
khi mổ. Khi mổ cắt khối u, có thể dùng 
siêu âm trong lúc mổ để đánh giá lại giới 
hạn bướu, bề sâu bướu, hướng dẫn đường 
rạch để bộc lộ khối bướu tốt nhất7. Trường 
hợp này bướu cũng khá to, tăng nhanh 
kích thước, làm bệnh nhân đau, hơn nữa vì 
ở thành bụng nên việc tiếp cận cũng ít 
nguy cơ hơn so với các trong ổ bụng nên 
việc xem xét phẫu thuật là hợp lý. Trong 
trường hợp này do mức độ tổn thương cơ 
thành bụng khá nhiều nên có lẽ xem xét 
đặt mesh để hạn chế yếu thành bụng. 
 Có lẽ do sự thay đổi nội tiết và miễn 
dịch trong thai kì nên bướu sợi có thể sẽ tự 
thoái triển sau thai kì. Điều này cho thấy 
vai trò của việc điều trị kháng estrogen. 
Biểu hiện thụ thể của ⍺ estrogen dương 
tính lên tới 90%. Tuy nhiên chưa có bằng 
chứng về mối liên quan giữa hiện diện thụ 
thể estrogen và khả năng đáp ứng với điều 
trị kháng estrogen. Dùng nội tiết phối hợp 
với NSAIDs (sulindac, indomethacine, 
celecoxib, meloxicam) như dùng liều cao 
tamoxifen 120 mg phối hợp với Sulindac 
300mg mỗi ngày như điều trị đầu tay.16 
Sự phối hợp thuốc này sẽ có đáp ứng 
(không tiến triển, không tử vong) tốt hơn 
nếu chưa phẫu thuật trước đó 92,5% so với 
81,5%.16,20 Tuy nhiên, sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê p=0,08.20 
 Nếu thất bại với điều trị kháng estrogen 
và NSAIDs có thể xem xét hóa trị 
(doxorubicin đơn hay phối hợp) có tỉ lệ 
đáp ứng khá cao và giảm đau.18 
 Xạ trị có hiệu quả với những bướu đang 
hoạt động mạnh. Tuy nhiên cần cân nhắc 
kĩ giữa lợi ích và nguy cơ ( bệnh lý ác tính 
thứ phát, tác dụng phụ do xạ trị) vì bệnh 
tiên lượng sống còn tốt, đa số bệnh nhân 
trẻ, nguy cơ di căn xa hiếm. Do vậy, chỉ 
xem xét xạ trị khi không thể phẫu thuật 
hoặc thất bại với các điều trị khác và bướu 
đang đe dọa tính mạng người bệnh. 
 Hướng xử trí tiếp theo cho trường hợp 
này theo khuyến cáo của NCCN sẽ là theo 
dõi sát bằng chẩn đoán hình ảnh và lâm 
sàng mỗi 3-6 tháng trong 2 -3 năm đầu, 
27
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
sau đó hằng năm.4 Vai trò của chẩn đoán 
hình ảnh (nhất là MRI) trong chẩn đoán và 
theo dõi rất quan trọng. Khi có biểu hiện 
tái phát có thể bắt đầu sử dụng thuốc hoặc 
mổ lại. Bệnh nhân nên được đi soi đại trực 
tràng.5 Khoảng 5-15 % bệnh nhân bị bướu 
sợi sẽ kèm theo bệnh đa polyp có tính gia 
đình.1 
 Một số nghiên cứu gần đây cho rằng bờ 
cắt phẫu thuật không còn là yếu tố liên 
quan tới tái phát.13,11 Các yếu tố liên quan 
tới tái phát là vị trí bướu, tuổi bệnh nhân 
và kích thước bướu.11 Tuổi trẻ, bướu ngoài 
thành bụng, bướu to trên 10 cm thì khả 
năng tái phát sẽ rất cao. Bệnh nhân này bờ 
phẫu thuật không đạt được R0 nhưng bệnh 
nhân 35 tuổi, bướu ở thành bụng, kích 
thước bướu 9x7x6 cm nên nhìn chung 
nguy cơ tái phát sẽ không cao. 
 Việc có thai kì tiếp theo, dù là yếu tố 
nguy cơ phơi nhiễm với nội tiết nhưng 
không ảnh hưởng tới sự tái phát dù bệnh 
nhân này có đa polyp gia đình hay 
không.22 Hơn nữa, bướu sợi cũng không 
làm tăng nguy cơ sản khoa nên không có 
chống chỉ định cho việc mang thai lần 
tới.14 
Kết luận 
Bướu sợi ở phụ nữ thường liên quan tới 
thai kì và sau sanh. Vị trí thường gặp nhất 
là ở thành bụng. Quan điểm điều trị thay 
đổi nhiều trong vài thập kỉ qua từ chỗ phẫu 
thuật là lựa chọn đầu tay thì hiện nay nhiều 
nơi có xu hướng điều trị không phẫu thuật, 
theo dõi sát.18 Tiên lượng cho bướu sợi ở 
thành bụng là tốt nhất so với các vị trí 
khác. 
Tài liệu tham khảo 
1. Nieuwenhuis M. H., Casparie M., Mathus-
Vliegen L. M., Dekkers O. M., Hogendoorn P. 
C., et al. (2011), "A nation-wide study 
comparing sporadic and familial adenomatous 
polyposis-related desmoid-type fibromatoses". 
Int J Cancer, 129 (1), pp. 256-61. 
2. Nunez F., Bravo S., Cruzat F., Montecino M., 
De Ferrari G. V. (2011), "Wnt/beta-catenin 
signaling enhances cyclooxygenase-2 (COX2) 
transcriptional activity in gastric cancer cells". 
PLoS One, 6 (4), pp. e18562. 
3. Poon R., Smits R., Li C., Jagmohan-Changur 
S., Kong M., et al. (2001), "Cyclooxygenase-
two (COX-2) modulates proliferation in 
aggressive fibromatosis (desmoid tumor)". 
Oncogene, 20 (4), pp. 451-60. 
4. (NCCN) National Comprehensive Cancer 
Network. NCCN Clinical Practice Guidelines in 
Oncology: Soft Tissue Sarcoma (Ver 1.2017). 
2017 08/01/2017 cited 2017; Available from: 
https://www.nccn.org/professionals/physician_g
ls/pdf/sarcoma.pdf. 
5. (NCCN) National Comprehensive Cancer 
Network NCCN Clinical Practice Guidelines in 
Oncology: Colorectal Cancer Screening (Ver. 
2.2016). 2016 cited 2017; Available from: 
https://www.nccn.org/professionals/physician_g
ls/pdf/colorectal_screening.pdf. 
6. Arshad Ahmad Ridzwan, Normala Basiron 
(2008), "Surgical Management of Large 
Desmoid Tumour of the Anterior Abdominal 
Wall". Asian Journal of Surgery, 31 (2), pp. 
90-95. 
7. Bolzon Stefano, Vagliasindi Alessio, Zanzi 
Federico, Negri Marco, Guerrini Gian Piero, et 
al. (2015), "Abdominal wall desmoid tumors: A 
proposal for US-guided resection". International 
Journal of Surgery Case Reports, 9, pp. 19-22. 
8. Bonvalot S., Ternes N., Fiore M., Bitsakou G., 
Colombo C., et al. (2013), "Spontaneous 
regression of primary abdominal wall desmoid 
tumors: more common than previously 
thought". Ann Surg Oncol, 20 (13), pp. 4096-
102. 
9. Cheon S. S., Wei Q., Gurung A., Youn A., 
Bright T., et al. (2006), "Beta-catenin regulates 
wound size and mediates the effect of TGF-
beta in cutaneous healing". FASEB J, 20 (6), 
pp. 692-701. 
10. Crago A. M., Chmielecki J., Rosenberg M., 
O'Connor R., Byrne C., et al. (2015), "Near 
universal detection of alterations in CTNNB1 
and Wnt pathway regulators in desmoid-type 
fibromatosis by whole-exome sequencing and 
genomic analysis". Genes Chromosomes 
Cancer, 54 (10), pp. 606-15. 
11. Crago A. M., Denton B., Salas S., Dufresne A., 
Mezhir J. J., et al. (2013), "A prognostic 
nomogram for prediction of recurrence in 
desmoid fibromatosis". Ann Surg, 258 (2), pp. 
347-53. 
12. Emori Makoto, Kaya Mitsunori, Mitsuhashi 
Tomoko, Asanuma Hiroko, Yamashita 
Toshihiko (2014), "Desmoid tumor-associated 
pain is dependent on mast cell expression of 
cyclooxygenase-2". Diagnostic Pathology, 9, 
pp. 14-14. 
13. Fiore M., MacNeill A., Gronchi A., Colombo C. 
(2016), "Desmoid-Type Fibromatosis: Evolving 
Treatment Standards". Surg Oncol Clin N Am, 
25 (4), pp. 803-26. 
14. Fiore M., Coppola S., Cannell A. J., Colombo 
C., Bertagnolli M. M., et al. (2014), "Desmoid-
type fibromatosis and pregnancy: a multi-
28
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017
institutional analysis of recurrence and obstetric 
risk". Ann Surg, 259 (5), pp. 973-8. 
15. Fletcher C. D. M. , Krishnan Unni K., Mertens 
F., Eds., Pathology and Genetics of Tumours 
of Soft Tissue and Bone (IARC WHO 
Classification of Tumours)3rd edition, 2006. 
16. Hansmann A., Adolph C., Vogel T., Unger A., 
Moeslein G. (2004), "High-dose tamoxifen and 
sulindac as first-line treatment for desmoid 
tumors". Cancer, 100 (3), pp. 612-20. 
17. Kane E., Garforth E., Heath R., Fryer A., 
Rooney P. (2016), "Desmoid tumours and 
familial adenomatous polyposis: Our royal 
experience". International Journal of Surgery, 
36, Supplement 1, pp. S62. 
18. Otero S., Moskovic E. C., Strauss D. C., 
Benson C., Miah A. B., et al. (2015), "Desmoid-
type fibromatosis". Clin Radiol, 70 (9), pp. 
1038-45. 
19. Park J. S., Nakache Y. P., Katz J., Boutin R. 
D., Steffner R. J., et al. (2016), "Conservative 
management of desmoid tumors is safe and 
effective". J Surg Res, 205 (1), pp. 115-20. 
20. Quast D. R., Schneider R., Burdzik E., Hoppe 
S., Moslein G. (2016), "Long-term outcome of 
sporadic and FAP-associated desmoid tumors 
treated with high-dose selective estrogen 
receptor modulators and sulindac: a single-
center long-term observational study in 134 
patients". Fam Cancer, 15 (1), pp. 31-40. 
21. 21. Reitamo J. J., Hayry P., Nykyri E., Saxen 
E. (1982), "The desmoid tumor. I. Incidence, 
sex-, age- and anatomical distribution in the 
Finnish population". Am J Clin Pathol, 77 (6), 
pp. 665-73. 
22. 22. Robinson W. A., McMillan C., Kendall A., 
Pearlman N. (2012), "Desmoid tumors in 
pregnant and postpartum women". Cancers 
(Basel), 4 (1), pp. 184-92. 

File đính kèm:

  • pdfbenh_soi_dang_bo_soi_o_thanh_bung_sau_mo_lay_thai_bao_cao_ca.pdf