Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng
Bướu sợi (Desmoid tumor) hay bệnh sợi dạng bó sợi (Desmoid-Type fibromatosis) là một bướu có nguồn gốc từ các nguyên bào sợi cơ, không có khả năng di căn xa nhưng có khả năng xâm lấn tại chỗ và tái phát cao. Bệnh này hiếm gặp, chiếm tỉ lệ 0,03% trong tất cả các trường hợp tân sinh và 3% trong tất cả các bướu mô mềm. Tỉ lệ mới mắc khoảng 2-4 người/1 triệu người mỗi năm. Chúng tôi giới thiệu một trường hợp bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Bệnh nhân 35 tuổi, sờ thấy một khối u kích thước khoảng 2x3 cm ở thành bụng cạnh sát bên trái của vết mổ lấy thai tại thời điểm 1 năm sau mổ. Bệnh nhân được theo dõi. Sau đó 3 năm thấy u to nhanh và đau, được chẩn đoán là u lạc nội mạc trong cơ thành bụng. Bệnh nhân được điều trị nội tiết và sau đó được phẫu thuật lấy khối u. Chẩn đoán xác định bởi giải phẫu bệnh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng
22 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017 Bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Báo cáo ca lâm sàng Dương Ánh Kim*, Võ Minh Tuấn** Tóm tắt Bướu sợi (Desmoid tumor) hay bệnh sợi dạng bó sợi (Desmoid-type fibromatosis) là một bướu có nguồn gốc từ các nguyên bào sợi cơ, không có khả năng di căn xa nhưng có khả năng xâm lấn tại chỗ và tái phát cao. Bệnh này hiếm gặp, chiếm tỉ lệ 0,03% trong tất cả các trường hợp tân sinh và 3% trong tất cả các bướu mô mềm. Tỉ lệ mới mắc khoảng 2-4 người/1 triệu người mỗi năm. Chúng tôi giới thiệu một trường hợp bệnh sợi dạng bó sợi ở thành bụng sau mổ lấy thai. Bệnh nhân 35 tuổi, sờ thấy một khối u kích thước khoảng 2x3 cm ở thành bụng cạnh sát bên trái của vết mổ lấy thai tại thời điểm 1 năm sau mổ. Bệnh nhân được theo dõi. Sau đó 3 năm thấy u to nhanh và đau, được chẩn đoán là u lạc nội mạc trong cơ thành bụng. Bệnh nhân được điều trị nội tiết và sau đó được phẫu thuật lấy khối u. Chẩn đoán xác định bởi giải phẫu bệnh. Giới thiệu Bướu sợi có nguồn gốc từ sự tăng sinh đơn dòng các nguyên bào sợi của mô mềm ở sâu và đặc trưng bởi khả năng xâm lấn tại chỗ và tái phát nhưng không có khả năng di căn xa.15 Vị trí bướu có thể chia 3 nhóm chính là ở thành bụng (49%), ngoài ổ bụng (43%), và trong ổ bụng(8%).21 Mặc dù không di căn xa nhưng vẫn có thể gây nguy hiểm do khả năng xâm lấn tại chỗ và tái phát cao nên có thể gây chèn ép cơ quan xung quanh đặc biệt nếu bướu ở vùng cổ, đầu hay ngực. Tỉ lệ hiện mắc khoảng 2-4 người/1 triệu _________________________________________ * Đại học Y Dược TP HCM ** Đại học Y Dược TP HCM, Email: [email protected] người mỗi năm, chiếm tỉ lệ 0,03% trong tất cả các trường hợp tân sinh và 3% trong tất cả các bướu mô mềm.21 Bệnh này có thể xảy ra ở bất kì độ tuổi nào nhưng thường gặp là từ 10 đến 40 tuổi, đỉnh điểm là khoảng 30 tuổi. Ở trẻ con, tần suất xảy ra bệnh như nhau ở cả hai giới và vị trí thường gặp là bướu ngoài ổ bụng. Từ khi dậy thì đến khoảng 40 tuổi thì bệnh đa số gặp ở nữ, vị trí ở thành bụng chiếm ưu thế. Sau 40 tuổi thì lại có sự cân bằng về giới cũng như về vị trí giữa bướu ở thành bụng và ngoài ổ bụng.24 Bệnh nguyên do nhiều yếu tố như về gene (đột biến gen, bệnh đa polyp có tính gia đình, hội chứng Gardner (đa polyp ruột, bướu xương, bướu sợi, các nang biểu bì)), nội tiết (trong thời gian có thai hay sau khi có thai, uống thuốc ngừa thai), hay các yếu tố thể chất (chấn thương mô mềm, tiền căn phẫu thuật). Bệnh nhân bị bướu sợi khoảng 85% là đột biến liên quan tới protein beta-catein (được mã hóa bởi gene CTNNB1), số ít thì liên quan tới đột biến gene APC (Adenomatous Poliposis Coli).10 Khoảng 5-15 % bệnh nhân bị bướu sợi có kèm theo bệnh đa polyp có tính gia đình.1 Khoảng 8- 23 % bệnh nhân bị đa polyp tính gia đình có kèm bướu sợi, thường ở vị trí trong ổ bụng (mạc treo) hay một số ít ở thành bụng, đặc biệt là nữ có đột biến APC và tiền căn phẫu thuật.17 Đột biến điểm hay mất đoạn trên nhánh dài của nhiễm sắc thể số 5 gây bất hoạt gen đè nén u APC là yếu tố khởi đầu cho sự phát triển bướu sợi.Tuy nhiên sự bất hoạt gen APC này lại chủ yếu gặp ở những bệnh nhân bị bướu sợi và bị đa polyp tính gia đình hơn là ở những trường hợp bướu sợi đơn độc. APC là yếu 23 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC tố điều hòa âm tính với sự ổn định của beta-catein trong bào tương, nên khi không có sự hoạt động của APC sẽ dẫn đến sự hoạt hóa của beta-catein.10 Protein APC kết hợp với beta-catein đóng một vai trò quan trọng, làm thoái hóa beta-catein và làm ức chế chuỗi tín hiệu tế bào của con đường Wnt. Những bướu sợi đơn độc có thể có đột biến liên quan tới beta-catein. Sự đột biến này làm ảnh hưởng đến tác động của APC lên sự thoái giáng beta- catein.15 Dù đột biến liên quan đến APC hay beta-catein thì hậu quả cuối cùng sẽ là làm tăng lượng protein beta-catein trong bào tương, sau đó được chuyển vào nhân và kích thích sự phiên mã. Beta-catein có vai trò quan trọng trong điều hòa kích thước của vết thương ở da thông qua điều hòa TGF β (Transforming Growth Factor). TGF β sẽ kích thích sự tăng sinh của các nguyên bào sợi.9 Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vị trí bướu. Bướu ngoài ổ bụng (như ở vai, lưng, ngực, đùi, cổ,..) thường xuất hiện khối giới hạn kém, chắc, nằm sâu, đau nhẹ hoặc không đau, đôi khi có thể làm giới hạn biên độ vận động của khớp hoặc ảnh hưởng tới thần kinh, thường là một vị trí nhưng đôi khi có thể cùng lúc ở nhiều chỗ. Bướu ở thành bụng thường được phát hiện sớm, có thể đau nhẹ hoặc không đau. Bướu trong ổ bụng (thường gặp ở vùng chậu, mạc treo) thường được phát hiện trễ hơn. Nếu bướu ở vùng chậu lâm sàng có thể nhầm với bướu buồng trứng. Bướu ở mạc treo có thể gây xuất huyết tiêu hóa, đau bụng cấp thứ phát do thủng ruột, tắc ruột.15 Bên cạnh vai trò của chẩn đoán hình ảnh thì sinh thiết mô để có chẩn đoán trước khi có kế hoạch điều trị là rất quan trọng. Nếu đã chẩn đoán xác định trước phẫu thuật, thì trong lúc mổ nên cắt bỏ rộng xung quanh khối u ít nhất là 3cm.6 Vì nếu cắt bỏ khối bướu không hoàn toàn hoặc ngay sát bờ phẫu thuật thì nguy cơ tái phát cao. Nhưng để đạt được điều đó đôi khi rất khó khăn và nguy cơ yếu thành bụng nhiều. Khi bóc tách nhiều mô nên cân nhắc tới việc đặt tấm lưới polyprolene để hạn chế thoát vị thành bụng. Tuy nhiên, một số nghiên cứu gần đây cho rằng bờ cắt phẫu thuật không còn là yếu tố liên quan tới tái phát.13 Ngoài hướng điều trị là phẫu thuật thì còn có các cách điều trị khác như theo dõi, dùng nội tiết, kháng viêm không steroid, hóa trị, xạ trị. Bệnh án Bệnh nhân 35 tuổi, PARA 0111, mổ lấy thai năm 2012 tại BV Từ Dũ vì thai 35 tuần, ối vỡ, giục sanh thất bại, hậu phẫu ổn, bé hiện khỏe. Tiền căn phụ khoa chưa ghi nhận lạc nội mạc tử cung, không thống kinh, chu kì kinh nguyệt đều mỗi 28-30 ngày, hành kinh 3 ngày. Chưa ghi nhận tiền căn bản thân và gia đình về bệnh lý polyp đường tiêu hóa. Sau mổ lấy thai 1 năm, bệnh nhân sờ thấy 1 khối ở thành bụng trước, sát phía bên (T) của vết mổ, kích thước khoảng 2x3cm, không đau. Bệnh nhân đi siêu âm và được hướng dẫn theo dõi thêm. Sau mổ lấy thai 3 năm, thấy khối u tăng dần kích thước, đau mỗi khi hành kinh. Bệnh nhân thấy u tăng kích thước chậm và đau chịu đựng được nên không đi khám. Sau mổ lấy thai 4 năm, thấy khối u to nhanh lên, sờ thấy khoảng 7x4 cm nên đi khám và điều trị ngoại trú tại bệnh viện Từ Dũ cụ thể như sau. Bảng 1. Tóm tắt điều trị Thời gian Lâm sàng Siêu âm CA125 Xử trí 19/5/2016 Bên (T) vết mổ có khối chắc 4x7 cm Trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) có khối echo kém, giới hạn rõ, 81x41x66 mm. KL: Lạc nội mạc trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) 9.92U/ml Uống Mercilon (3 vỉ) 24 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017 Thời gian Lâm sàng Siêu âm CA125 Xử trí 2/8/2016 Vẫn còn đau âm ỉ tại vị trí khối u Trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) có khối echo kém, 47x87x64 mm. KL: Lạc nội mạc trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) Chích Zoladex 3 tháng (3/10, 31/10, 30/11/2016) 30/11/2016 Bớt đau nhưng u vẫn tăng kích thước Trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) có khối echo hỗn hợp, tăng sinh mạch máu, 45x97x78mm. KL: Lạc nội mạc trong cơ thành bụng vết mổ bên (T) 8 U/ml Hẹn nhập viện mổ Khám lúc nhập viện (5/12/2016): thành bụng có vết mổ cũ mổ lấy thai ngang trên vệ, lệch về phía trái vết mổ này có khối kích thước 7x9 cm ở thành bụng, mật độ chắc, giới hạn rõ, di động kém, không đau. Sau nhập viện bệnh nhân được siêu âm và làm các xét nghiệm tiền phẫu và các marker u buồng trứng (kết quả trong giới hạn bình thường). Bảng 2. Marker u buồng trứng CA125 8 <35 U/ml HE4 37,4 <100 ƿmol/l ROMA VALUE 3,73 <7,4 % AFP 0,96 <7,75 ng/ml Siêu âm (30/11/2016): Tử cung ngả trước, đường kính trước sau 28mm, nội mạc 5mm, mật độ đều. Buồng trứng 2 bên bình thường. Cơ thành bụng bên (T) vết mổ lấy thai có khối echo hỗn hợp, đường kính 45x97x78 mm,tăng sinh mạch máu. Kết luận: Theo dõi lạc nội mạc tử cung ở vết mổ thành bụng (T). Hình 1,2,3. Hình 1. Hình siêu âm khối u trước mổ Bệnh nhân được mổ hở cắt khối u lạc nội mạc tử cung thành bụng, đặt dẫn lưu (8/12/2016). Rạch da theo đường ngang trên vệ, cắt bỏ sẹo mổ cũ. Qua lớp cân thấy có 1 khối cứng chắc, kích thước # 10x6x8 cm (chiều dài x ngang x sâu),nằm giữa lớp phúc mạc và cơ thành bụng, dính chặt vào các màng cân ở xương mu bên (T). Khối này ăn lan vào cơ thắng bụng, cơ tháp, cơ chéo bé của thành bụng (T) (hình 4, 5, 6). Vào ổ bụng thám sát thấymặt sau phúc mạc thành vẫn trơn láng, bàng quang và các quai ruột không dính vào khối u này. Tử cung, 2 phần phụ, ruột, dạ dày, gan, mạc nối lớn chưa ghi nhận bất thường. Tiến hành: bóc tách phần cơ tháp, cơ chéo bé, cơ thẳng bụng còn lành, không có mô lạc nội mạc thâm nhiễm ra khỏi bướu. Ghi nhận mất khá nhiều cơ thẳng bụng và cơ chéo bé. Cắt lấy trọn khối bướu gởi giải phẫu bệnh (hình 7,8). Đóng phúc mạc. Khâu ráp các cơ còn lại vào bó cơ thẳng bụng đối bên nếu có thể. Đặt dẫn lưu Hemovac vùng bẹn (T). Máu mất tổng cộng 100 ml. Hình 2. Mặt trước khối u, đã bóc tách một phần cơ thẳng bụng. 25 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Hình 3: Mặt bên ngoài khối u Hình 4: Mặt sau khối u Hình 5: Mặt trong khối u đã xẻ Hình 5: Mặt ngoài khối u Bảng 3. Kết quả giải phẫu bệnh lý (12/12/2016) Mô tả đại thể A,B: khối mô #9x7x6 cm,bị xẻ một phần, mặt cắt trắng, đặc, dai Mô tả vi thể A,B: Mô u gồm các tế bào hình thoi dạng nguyên bào sợi, hạt nhân rõ,chất nhiễm sắc tăng sắc, to nhỏ không đều, có khi có 2 hay 3 nhân, các tế bào này xếp dạng bó, đan chéo vào nhau và xen lẫn vào mô cơ vân, có ít phân bào Kết luận Bệnh sợi dạng bó sợi (Desmoid type fibromatosis) Hậu phẫu 5 ngày ổn, xuất viện, được chuyển qua bệnh viện Ung Bướu điều trị theo dõi tiếp. Bàn luận Bướu sợi và thai kì (xuất hiện trong thai kì và trong vòng 3 năm sau sanh) được mô tả lần đầu vào năm 1832 bởi Macfarlene ở một phụ nữ trẻ trong giai đoạn hậu sản và được phẫu thuật cắt bỏ khối bướu ở thành bụng. Vị trí thường gặp xuất phát từ các cấu trúc cân cơ của thành bụng, đặc biệt là của cơ thẳng bụng và cơ chéo trong cơ thẳng bụng hoặc sẹo mổ lấy thai, nhất là bên phải có lẽ do căng giãn do cử động thai hoặc sự chấn thương trong lúc mổ.22 Bệnh thường ảnh hưởng độ tuổi từ 10 đến 40, đỉnh là 30 tuổi, 87% xảy ra ở nữ trong độ tuổi này, 95% bệnh nhân có 1 con.18 Vị trí bướu ở cơ thành bụng trong độ tuổi sinh đẻ vẫn thường gặp nhất, có thể gặp trong thai kì hoặc sau sanh (nhất là trong vòng 1 năm sau sanh) trung bình là 15,4±8,3 tháng.20,15 Trường hợp này bệnh nhân 35 tuổi, Para 1011. Bệnh nhân này sờ thấy khối bướu lần đầu là 1 năm sau khi mổ lấy thai.Vì ở thành bụng nên bướu thường được phát hiện sớm khi bướu còn nhỏ. Triệu chứng có thể đau nhẹ hoặc không có triệu chứng gì. Bệnh nhân này lúc đầu khi mới phát hiện khối bướu thì hoàn toàn không đau. Sau đó bệnh nhân thấy đau khi có kinh và hết đau khi hết kinh. Con đường Wnt/beta-catein sẽ làm tăng phiên mã gene COX2 từ đó làm tăng protein COX 2 (Cyclooxygenase 2), tăng tạo prostaglandins.2,3,13 Nghiên cứu cho thấy sự bài tiết COX 2 từ dưỡng bào sẽ điều hòa cảm giác đau trong bướu sợi.12 Đau bụng kinh do nhiều nguyên nhân 26 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017 trong đó có liên quan tới prostaglandin. Trước đây, khi có kinh bệnh nhân không bị đau. Sau này mới đau khối bướu khi hành kinh. Điều này có lẽ dó sự tăng thêm của prostaglandin do bản thân khối bướu phối hợp với prostaglandin khi hành kinh. Chính vì triệu chứng này mà trên lâm sàng bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm là u lạc nội mạc trong cơ thành bụng sau mổ lấy thai mặc dù CA125 không cao.Với những trường hợp có khối u ở mô mềm, nếu nghi ngờ sarcoma (khối u to trên 5 cm, lớn nhanh, đau, nằm sâu dưới mô dưới da, tái phát tại vị trí mổ cũ) thì nên được làm chẩn đoán hình ảnh như MRI, sinh thiết lõi và chuyển đến chuyển khoa.18 Điều trị Vai trò của phẫu thuật được tranh luận nhiều vì nguy cơ khi mổ, suy giảm chức năng, ảnh hưởng chất lượng cuộc sống, cũng như nguy cơ tái phát sau này. Đối với bướu ở những vị trí khó phẫu thuật thì việc cố gắng cắt bỏ khối bướu hoàn toàn đôi khi lại gây những tai biến nguy hiểm. Hơn nữa khả năng tái phát sau mổ cũng cao, tùy thuộc nhiều yếu tố. Với vị trí bướu ở thành bụng khả năng tái phát là thấp nhất (khoảng 8%) so với bướu trong ổ bụng (13%) và bướu ngoài ổ bụng (39- 79%).8 Ngoài ra, tỉ lệ tái phát tăng dần nếu cắt bỏ khối bướu không đủ rộng, tỉ lệ tái phát lần lượt là 67%, 50%,0% tương ứng với bờ phẫu thuật là R0, R1, R2.19 Trong khi nếu không phẫu thuật , chỉ theo dõi sát thì tỉ lệ bệnh không tiến triển trong 3 năm, 5 năm lần lượt là 90%, 50%.19 Tỉ lệ bướu thoái triển tự nhiên khoảng 20-28%.13 Do vậy, hiện một số trung tâm với bướu ở thành bụng nếu không triệu chứng, không tăng nhanh kích thước và bướu dưới 7 cm thì lựa chọn đầu tiên là theo dõi chứ không nên phẫu thuật.8,25 Thường sẽ quan sát trong vòng 1 tới 2 năm đầu. Quyết định can thiệp phụ thuộc nhiều yếu tố như kích thước bướu, tốc độ phát triển, vị trí bướu, mức độ chèn ép, nguy cơ mất chức năng khi mổ. Khi mổ cắt khối u, có thể dùng siêu âm trong lúc mổ để đánh giá lại giới hạn bướu, bề sâu bướu, hướng dẫn đường rạch để bộc lộ khối bướu tốt nhất7. Trường hợp này bướu cũng khá to, tăng nhanh kích thước, làm bệnh nhân đau, hơn nữa vì ở thành bụng nên việc tiếp cận cũng ít nguy cơ hơn so với các trong ổ bụng nên việc xem xét phẫu thuật là hợp lý. Trong trường hợp này do mức độ tổn thương cơ thành bụng khá nhiều nên có lẽ xem xét đặt mesh để hạn chế yếu thành bụng. Có lẽ do sự thay đổi nội tiết và miễn dịch trong thai kì nên bướu sợi có thể sẽ tự thoái triển sau thai kì. Điều này cho thấy vai trò của việc điều trị kháng estrogen. Biểu hiện thụ thể của ⍺ estrogen dương tính lên tới 90%. Tuy nhiên chưa có bằng chứng về mối liên quan giữa hiện diện thụ thể estrogen và khả năng đáp ứng với điều trị kháng estrogen. Dùng nội tiết phối hợp với NSAIDs (sulindac, indomethacine, celecoxib, meloxicam) như dùng liều cao tamoxifen 120 mg phối hợp với Sulindac 300mg mỗi ngày như điều trị đầu tay.16 Sự phối hợp thuốc này sẽ có đáp ứng (không tiến triển, không tử vong) tốt hơn nếu chưa phẫu thuật trước đó 92,5% so với 81,5%.16,20 Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê p=0,08.20 Nếu thất bại với điều trị kháng estrogen và NSAIDs có thể xem xét hóa trị (doxorubicin đơn hay phối hợp) có tỉ lệ đáp ứng khá cao và giảm đau.18 Xạ trị có hiệu quả với những bướu đang hoạt động mạnh. Tuy nhiên cần cân nhắc kĩ giữa lợi ích và nguy cơ ( bệnh lý ác tính thứ phát, tác dụng phụ do xạ trị) vì bệnh tiên lượng sống còn tốt, đa số bệnh nhân trẻ, nguy cơ di căn xa hiếm. Do vậy, chỉ xem xét xạ trị khi không thể phẫu thuật hoặc thất bại với các điều trị khác và bướu đang đe dọa tính mạng người bệnh. Hướng xử trí tiếp theo cho trường hợp này theo khuyến cáo của NCCN sẽ là theo dõi sát bằng chẩn đoán hình ảnh và lâm sàng mỗi 3-6 tháng trong 2 -3 năm đầu, 27 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC sau đó hằng năm.4 Vai trò của chẩn đoán hình ảnh (nhất là MRI) trong chẩn đoán và theo dõi rất quan trọng. Khi có biểu hiện tái phát có thể bắt đầu sử dụng thuốc hoặc mổ lại. Bệnh nhân nên được đi soi đại trực tràng.5 Khoảng 5-15 % bệnh nhân bị bướu sợi sẽ kèm theo bệnh đa polyp có tính gia đình.1 Một số nghiên cứu gần đây cho rằng bờ cắt phẫu thuật không còn là yếu tố liên quan tới tái phát.13,11 Các yếu tố liên quan tới tái phát là vị trí bướu, tuổi bệnh nhân và kích thước bướu.11 Tuổi trẻ, bướu ngoài thành bụng, bướu to trên 10 cm thì khả năng tái phát sẽ rất cao. Bệnh nhân này bờ phẫu thuật không đạt được R0 nhưng bệnh nhân 35 tuổi, bướu ở thành bụng, kích thước bướu 9x7x6 cm nên nhìn chung nguy cơ tái phát sẽ không cao. Việc có thai kì tiếp theo, dù là yếu tố nguy cơ phơi nhiễm với nội tiết nhưng không ảnh hưởng tới sự tái phát dù bệnh nhân này có đa polyp gia đình hay không.22 Hơn nữa, bướu sợi cũng không làm tăng nguy cơ sản khoa nên không có chống chỉ định cho việc mang thai lần tới.14 Kết luận Bướu sợi ở phụ nữ thường liên quan tới thai kì và sau sanh. Vị trí thường gặp nhất là ở thành bụng. Quan điểm điều trị thay đổi nhiều trong vài thập kỉ qua từ chỗ phẫu thuật là lựa chọn đầu tay thì hiện nay nhiều nơi có xu hướng điều trị không phẫu thuật, theo dõi sát.18 Tiên lượng cho bướu sợi ở thành bụng là tốt nhất so với các vị trí khác. Tài liệu tham khảo 1. Nieuwenhuis M. H., Casparie M., Mathus- Vliegen L. M., Dekkers O. M., Hogendoorn P. C., et al. (2011), "A nation-wide study comparing sporadic and familial adenomatous polyposis-related desmoid-type fibromatoses". Int J Cancer, 129 (1), pp. 256-61. 2. Nunez F., Bravo S., Cruzat F., Montecino M., De Ferrari G. V. (2011), "Wnt/beta-catenin signaling enhances cyclooxygenase-2 (COX2) transcriptional activity in gastric cancer cells". PLoS One, 6 (4), pp. e18562. 3. Poon R., Smits R., Li C., Jagmohan-Changur S., Kong M., et al. (2001), "Cyclooxygenase- two (COX-2) modulates proliferation in aggressive fibromatosis (desmoid tumor)". Oncogene, 20 (4), pp. 451-60. 4. (NCCN) National Comprehensive Cancer Network. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology: Soft Tissue Sarcoma (Ver 1.2017). 2017 08/01/2017 cited 2017; Available from: https://www.nccn.org/professionals/physician_g ls/pdf/sarcoma.pdf. 5. (NCCN) National Comprehensive Cancer Network NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology: Colorectal Cancer Screening (Ver. 2.2016). 2016 cited 2017; Available from: https://www.nccn.org/professionals/physician_g ls/pdf/colorectal_screening.pdf. 6. Arshad Ahmad Ridzwan, Normala Basiron (2008), "Surgical Management of Large Desmoid Tumour of the Anterior Abdominal Wall". Asian Journal of Surgery, 31 (2), pp. 90-95. 7. Bolzon Stefano, Vagliasindi Alessio, Zanzi Federico, Negri Marco, Guerrini Gian Piero, et al. (2015), "Abdominal wall desmoid tumors: A proposal for US-guided resection". International Journal of Surgery Case Reports, 9, pp. 19-22. 8. Bonvalot S., Ternes N., Fiore M., Bitsakou G., Colombo C., et al. (2013), "Spontaneous regression of primary abdominal wall desmoid tumors: more common than previously thought". Ann Surg Oncol, 20 (13), pp. 4096- 102. 9. Cheon S. S., Wei Q., Gurung A., Youn A., Bright T., et al. (2006), "Beta-catenin regulates wound size and mediates the effect of TGF- beta in cutaneous healing". FASEB J, 20 (6), pp. 692-701. 10. Crago A. M., Chmielecki J., Rosenberg M., O'Connor R., Byrne C., et al. (2015), "Near universal detection of alterations in CTNNB1 and Wnt pathway regulators in desmoid-type fibromatosis by whole-exome sequencing and genomic analysis". Genes Chromosomes Cancer, 54 (10), pp. 606-15. 11. Crago A. M., Denton B., Salas S., Dufresne A., Mezhir J. J., et al. (2013), "A prognostic nomogram for prediction of recurrence in desmoid fibromatosis". Ann Surg, 258 (2), pp. 347-53. 12. Emori Makoto, Kaya Mitsunori, Mitsuhashi Tomoko, Asanuma Hiroko, Yamashita Toshihiko (2014), "Desmoid tumor-associated pain is dependent on mast cell expression of cyclooxygenase-2". Diagnostic Pathology, 9, pp. 14-14. 13. Fiore M., MacNeill A., Gronchi A., Colombo C. (2016), "Desmoid-Type Fibromatosis: Evolving Treatment Standards". Surg Oncol Clin N Am, 25 (4), pp. 803-26. 14. Fiore M., Coppola S., Cannell A. J., Colombo C., Bertagnolli M. M., et al. (2014), "Desmoid- type fibromatosis and pregnancy: a multi- 28 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017 institutional analysis of recurrence and obstetric risk". Ann Surg, 259 (5), pp. 973-8. 15. Fletcher C. D. M. , Krishnan Unni K., Mertens F., Eds., Pathology and Genetics of Tumours of Soft Tissue and Bone (IARC WHO Classification of Tumours)3rd edition, 2006. 16. Hansmann A., Adolph C., Vogel T., Unger A., Moeslein G. (2004), "High-dose tamoxifen and sulindac as first-line treatment for desmoid tumors". Cancer, 100 (3), pp. 612-20. 17. Kane E., Garforth E., Heath R., Fryer A., Rooney P. (2016), "Desmoid tumours and familial adenomatous polyposis: Our royal experience". International Journal of Surgery, 36, Supplement 1, pp. S62. 18. Otero S., Moskovic E. C., Strauss D. C., Benson C., Miah A. B., et al. (2015), "Desmoid- type fibromatosis". Clin Radiol, 70 (9), pp. 1038-45. 19. Park J. S., Nakache Y. P., Katz J., Boutin R. D., Steffner R. J., et al. (2016), "Conservative management of desmoid tumors is safe and effective". J Surg Res, 205 (1), pp. 115-20. 20. Quast D. R., Schneider R., Burdzik E., Hoppe S., Moslein G. (2016), "Long-term outcome of sporadic and FAP-associated desmoid tumors treated with high-dose selective estrogen receptor modulators and sulindac: a single- center long-term observational study in 134 patients". Fam Cancer, 15 (1), pp. 31-40. 21. 21. Reitamo J. J., Hayry P., Nykyri E., Saxen E. (1982), "The desmoid tumor. I. Incidence, sex-, age- and anatomical distribution in the Finnish population". Am J Clin Pathol, 77 (6), pp. 665-73. 22. 22. Robinson W. A., McMillan C., Kendall A., Pearlman N. (2012), "Desmoid tumors in pregnant and postpartum women". Cancers (Basel), 4 (1), pp. 184-92.
File đính kèm:
benh_soi_dang_bo_soi_o_thanh_bung_sau_mo_lay_thai_bao_cao_ca.pdf

