Bệnh gan ở thai phụ
Bệnh gan ở thai phụ là một vấn đề khá phức tạp làm cho bác sĩ điều trị nhiều phen bối rối! Thực tế cho thấy phần lớn bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa-Gan mật không thường xuyên tiếp xúc với thai phụ, trong khi đó bác sĩ sản phụ khoa lại ít gặp bệnh gan. Mặt khác, bệnh gan có nhiều liên hệ với thai kỳ, đồng thời phụ nữ mắc bệnh gan nặng lại ít khi mang thai. Thai kỳ là trạng thái sinh lý có nhiều chỉ số sinh học thay đổi so với một phụ nữ không mang thai. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của một con người thứ hai, đó chính là thai nhi.1 Một số bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ, không xảy ra ở phụ nữ không mang thai. Một số bệnh gan khác có thể gặp ở tất cả mọi người, không kể có thai hay không, nhưng lại có khuynh hướng diễn tiến nặng, phức tạp lúc có thai
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bệnh gan ở thai phụ

20 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 Bệnh gan ở thai phụ Nguyễn Hữu Chí * * BS.CKII - Bộ môn Nhiễm Đại Học Y Dược TP HCM Email: [email protected], DĐ: 0903742130 Bệnh gan ở thai phụ là một vấn đề khá phức tạp làm cho bác sĩ điều trị nhiều phen bối rối! Thực tế cho thấy phần lớn bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa-gan mật không thường xuyên tiếp xúc với thai phụ, trong khi đó bác sĩ sản phụ khoa lại ít gặp bệnh gan. Mặt khác, bệnh gan có nhiều liên hệ với thai kỳ, đồng thời phụ nữ mắc bệnh gan nặng lại ít khi mang thai. Thai kỳ là trạng thái sinh lý có nhiều chỉ số sinh học thay đổi so với một phụ nữ không mang thai. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của một con người thứ hai, đó chính là thai nhi.1 Một số bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ, không xảy ra ở phụ nữ không mang thai. Một số bệnh gan khác có thể gặp ở tất cả mọi người, không kể có thai hay không, nhưng lại có khuynh hướng diễn tiến nặng, phức tạp lúc có thai.2 Trước những phức tạp này, chăm sóc điều trị cho phụ nữ trẻ đang mang thai rất quan trọng, không những giúp họ ổn định sức khỏe trong thai kỳ mà còn giúp họ chuyển dạ và sanh con (càng bình thường càng tốt), mau bình phục sau sanh. Trong những năm gần đây nhờ vào tiến bộ khoa học, một số bệnh gan liên quan đến thai kỳ được biết nghiên cứu nhiều hơn, giúp chúng ta thiết kế được các bước tiếp cận hợp lý khi chăm sóc điều trị cho bệnh nhân. Lá gan của thai phụ Những thay đổi về cơ cấu gan và chức năng gan đã được tổng kết từ nhiều năm qua3,4. Sao mạch, bàn tay son thường xuất hiện trong thai kỳ và có khuynh hướng biến mất sau sanh. Vào ba tháng cuối của thai kỳ, tử cung to khiến cho việc khám gan trở nên khó khăn hơn. Siêu âm gan không phát hiện đường mật dãn, nhưng kích thước của túi mật lúc đó có thể to hơn, nhất là thể tích tồn đọng sau khi co bóp. Cấu tạo mô học của gan cũng không có gì bất thường trong thai kỳ.1 Huyết động học có nhiều thay đổi trong thai kỳ. Thể tích huyết tương tăng (khoảng 50%) từ tuần 6 đến 36, thể tích hồng cầu cũng tăng nhẹ (khoảng 20%) và xuất hiện muộn. Vì vậy, thể tích máu toàn phần tăng nhưng máu lại bị pha loãng, phản ánh bằng dung tích hồng cầu giảm. Sau sanh thể tích huyết tương và thể tích hồng cầu giảm do mất máu lúc sanh. Cung lượng tim tăng dần khi bắt đầu thai kỳ cho đến khoảng ba tháng giữa, nhưng sau đó giảm dần, gần như bình thường vào lúc sanh. Lưu lượng máu đến gan có thể không thay đổi nhưng tỉ lệ phần trăm tính theo cung lượng tim có giảm. Ở phụ nữ không mang thai, lượng máu qua gan chiếm khoảng 35% cung lượng tim, nhưng khi có thai, lượng máu đến gan chỉ còn 28%. Sự thay đổi này do một khối lượng máu được bắc cầu chạy qua nhau thai.2 Nồng độ albumin trong máu giảm vào ba tháng đầu và tiếp tục giảm trong thai kỳ. Tuy nhiên, một số protein khác lại tăng như α2-macroglobulin, ceruloplasmin, fibrinogen. Cholesterol, triglyceride tăng, nhưng ít khi được thực hiện trong thai kỳ vì lợi ích không rõ ràng. Thời gian prothrombin không thay đổi nhưng nồng độ fibrinogen lại tăng vào cuối thai kỳ.1 Hiểu biết về những thay đổi sinh học trong thai kỳ giúp chúng ta đọc và phân tích kết 21 TỔNG QUAN Y VĂN quả xét nghiệm gan được thực hiện cho thai phụ. Nồng độ phosphatase kiềm trong huyết thanh tăng vào giai đoạn cuối của thai kỳ, hậu quả của việc hình thành các isoenzym ở nhau và xương. Như vậy, ở thai phụ nồng độ phosphatase kiềm tăng chưa hẳn là do bệnh gan.1 Trong phần lớn tài liệu đã công bố cho thấy nồng độ AST và ALT bình thường trong thai kỳ. GGT (γ-glutamyltransferase) giảm vào ba tháng cuối của thai kỳ. Bilirubin toàn phần, trực tiếp và gián tiếp giảm trong thai kỳ. 5’-nucleotidase bình thường hoặc tăng nhẹ vào ba tháng giữa và cuối của thai kỳ. Nồng độ acid mật toàn phần trong huyết thanh lúc đói trong giới hạn bình thường. Xét nghiệm này hiện nay vẫn còn hữu dụng để chẩn đoán tắc mật trong thai kỳ một khi các xét nghiệm thường quy về gan khác bình thường. Như vậy, khi thai phụ có AST, ALT, bilirubin, acid mật tăng nghĩa là họ có một bệnh lý cần được khảo sát.1 Các bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ Một số bệnh gan chỉ xảy ra ở thai phụ được kể đến là thai tiên phát ở vùng gan (primary hepatic pregnancy), ói mửa lúc mang thai (hyperemesis gravidarum = HEG), tắc mật trong gan lúc mang thai (intrahepatic cholestasis of pregnancy = ICP), bệnh gan tiền sản giật (liver disorders of pre-eclampsia) như hội chứng HELLP, gan hóa mỡ cấp trong thai kỳ. Tuổi thai vào thời điểm xuất hiện triệu chứng rất quan trọng để chẩn đoán phân biệt. Ói mửa lúc mang thai xuất hiện rất sớm, thường vào ba tháng đầu của thai kỳ, ICP chỉ gặp vào ba tháng giữa và cuối. Tiền sản giật được ghi nhận vào nửa giai đoạn cuối của thai kỳ, hội chứng HELLP chỉ xảy ra vào ba tháng cuối.2 Thai tiên phát ở vùng gan Đây là trường hợp cực kỳ hiếm. Mặt dưới gan phải có thể là vị trí đậu thai bất thường. Bệnh nhân thường có dấu hiệu xuất huyết trong phúc mạc. Nếu thai kỳ tiến triển, bệnh nhân thường có một khối to ở vùng gan. Thai tiên phát ở vùng gan được chẩn đoán bằng siêu âm hoặc CT scan. Chấm dứt thai kỳ bằng cách mở ổ bụng để giảm nguy cơ xuất huyết do vỡ túi thai.1 Ói mửa lúc mang thai (HEG) Trong ba tháng đầu của thai kỳ, nôn ói là dấu hiệu xuất hiện sớm và thường gặp, có thể xảy ra trong gần 50% thai phụ. Nguyên nhân có thể do co thắt dạ dày bất thường nhanh hơn lúc chưa mang thai.5 Tuy nhiên, HEG lại ít gặp (0,5-1%). Ranh giới giữa dấu hiệu thông thường và dấu hiệu bệnh nặng không rõ ràng. HEG được định nghĩa là ói mửa kéo dài, sụt cân > 5% thể trọng, tiểu ra ketones. HEG gây mất nước nặng cần phải nhập viện.6 Tổn thương gan cũng được nhiều tác giả ghi nhận.7,8 Tuy nhiên, HEG hiếm khi được xác định bằng sinh thiết gan. Nếu có thực hiện sinh thiết, người ta ghi nhận không có phản ứng viêm, một số tế bào gan bị hoại tử, hiếm khi thấy tắc mật.2 Nôn ói xuất hiện vào tuần 4-10 của thai kỳ, rất khó điều trị nhưng tự biến mất sau 20 tuần không cần điều trị gì đặc biệt. Thể bệnh nặng (ói mửa kéo dài, sụt cân, vàng da-niêm chỉ gặp với tỉ lệ khoảng 1-20/1.000 trường hợp mang thai).9 HEG thường gặp ở phụ nữ mang thai lần đầu nhiều hơn so với phụ nữ sanh nhiều lần, hiếm khi có vàng da-niêm (trong lịch sử văn học Pháp, Charlotte Bronte, tác giả quyển sách nổi tiếng Jane Eyre, chết năm 1855 vì ói mửa, vàng da-niêm lúc bà mang thai lần đầu độ bốn tháng).1 Một khi gan bị tổn thương, dấu hiệu nổi bật nhất là ALT và AST tăng (thường ALT tăng nhiều hơn AST, thường không quá 250 IU/L),9 nhưng trong những trường hợp nặng có khi vượt quá 1.000 IU/L kèm theo bilirubin tăng. Vì vậy, xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán viêm gan rất cần thiết để xác định nguyên nhân. Biến chứng tạm thời của 22 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 HEG được ghi nhận là cường giáp.10 Bệnh nhân mắc HEG thường không ăn uống được, cần bồi hoàn nước-điện giải- năng lượng qua đường tĩnh mạch hoặc qua ống thông mũi-dạ dày. Khẩu phần ăn cần có nhiều carbohydrate, ít mỡ. Nên bổ sung thêm sinh tố B1. Lưu ý những thai phụ ói mửa kéo dài trong nhiều tuần, có thể bị biến chứng (rất hiếm) như bệnh não Wernicke, tràn khí trung thất, xuất huyết não.9 Các thuốc chống ói mửa như kháng histamine (promethazine, cyclizine, doxylamine, dimenhydrinate), metoclopamide tương đối an toàn và có thể sử dụng cho thai phụ.11 Ondansetron cũng được đề nghị.12 Corticosteroids tĩnh mạch hiện chưa được thống nhất, do đó chỉ nên dành cho những trường hợp quá nặng.13 Tình trạng ói mửa dữ dội có thể ảnh hưởng đến cân nặng, tuy nhiên không ảnh hưởng nhiều đến trẻ sơ sinh. Cân nặng, tuổi thai, bất thường lúc sanh của trẻ sơ sinh cũng không khác biệt với trẻ có mẹ không mắc HEG. Nguyên nhân của HEG không rõ. Cơ chế sinh bệnh chưa được chứng minh cụ thể. Liên quan giữa HEG với bệnh gan và tuyến giáp có thể là thứ phát, chưa hẳn là liên quan nhân quả.1,2 Tắc mật trong gan lúc mang thai (ICP) Tắc mật trong gan lúc mang thai thường xảy ra vào ba tháng giữa và cuối của thai kỳ, biến mất tự nhiên sau sanh. Tỉ lệ ICP thay đổi theo từng quốc gia, cao nhất ở Chi-lê. Theo thống kê của nước này, trong thời gian 1974-1975, tỉ lệ ICP trung bình là 15,5%, thay đổi từ 11,8% đến 27,7% tùy theo sắc tộc. Trong những năm gần đây, tỉ lệ ICP giảm còn khoảng 4% đến 6,5%. Ở Hoa kỳ, tỉ lệ ICP vào khoảng 0,3% đến 5,6%, ở Châu Âu vào khoảng 0,5% đến 1,5%, tùy theo từng sắc tộc. ICP thường gặp ở phụ nữ mang song thai.14,15 Chẩn đoán ICP thường không cần đến sinh thiết gan. Qua những trường hợp có sinh thiết gan, người ta ghi nhận tắc mật rõ ràng, một số trường hợp ghi nhận mật đóng cục trong tế bào gan, trong những ống mật nhỏ, nhưng không có viêm nhiễm hoại tử, các khoảng cửa còn nguyên vẹn không bị tổn thương. Biểu hiện lâm sàng chính của ICP là ngứa, xuất hiện ở bàn tay bàn chân. Ngứa gây khó chịu, mất ngủ. Tuy nhiên, ngứa có thể biến mất tự nhiên một vài ngày sau sanh. Khám lâm sàng thường không phát hiện được gì ngoài các vết gãi trên mặt da. Sốt cũng ít gặp, thường kèm theo nhiễm trùng đường tiểu. 10% có vàng da-niêm. Siêu âm thường không phát hiện dãn đường dẫn mật, đôi khi có sỏi túi mật.16 ALT tăng là dấu hiệu nổi bật trong ICP, cần làm thêm xét nghiệm huyết thanh về viêm gan siêu vi để chẩn đoán phân biệt. Sinh thiết gan không ghi nhận viêm nhiễm hoại tử, vì vậy ALT tăng có thể do gia tăng tính thấm của màng tế bào. GGT bình thường hoặc tăng nhẹ. Nồng độ acid mật trong huyết thanh tăng, đây có thể là dấu hiệu đầu tiên và duy nhất trong ICP. Liên quan giữa nồng độ acid mật với bất thường thai nhi đã được ghi nhận, tuy nhiên lợi ích của xét nghiệm này trong sản phụ khoa chưa được đánh giá đầy đủ. Hiện nay, người ta cũng chưa ghi nhận được liên quan giữa acid mật với các xét nghiệm gan khác. Về nguyên tắc, ALT và acid mật giảm và trở về bình thường trong vòng một vài tuần sau sanh. Thời gian prothrombin bình thường, kéo dài trong các trường hợp tắc mật nặng, có thể do thiếu sinh tố K. Bất thường này cần điều trị để ngăn ngừa nguy cơ xuất huyết. Gần đây, glutathione-S-transferase (chỉ điểm của sự toàn vẹn tế bào gan) được đề nghị để phân biệt ICP với những trường hợp ngứa thông thường trong thai kỳ.17 ICP thường có khuynh hướng tái phát trong các lần mang thai sau. Tiên lượng lâu dài của bệnh này ở thai phụ thường tốt. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu đoàn hệ trên một số lượng bệnh nhân Phần Lan18 khiến chúng ta suy nghĩ lại về tiên lượng tốt của bệnh này. 23 TỔNG QUAN Y VĂN Nhóm 10.504 bệnh nhân có tiền sử ICP trong thời gian 1972-2000 được chọn vào nghiên cứu, so sánh với 10.504 thai phụ khác (nhóm chứng) không có tiền sử ICP. Hai nhóm bệnh nhân được chọn và liên kết theo tuổi, thời điểm sanh, địa điểm sanh. Kết quả: ICP có liên quan đến nhiều loại bệnh gan như VGSV C, sỏi mật, viêm tụy không do rượu, sỏi mật, viêm túi mật, viêm tụy không do rượu, xơ gan tiên phát do mật... Nghiên cứu này khẳng định sự liên quan giữa VGSV C và ICP, vì vậy người ta đề nghị nên làm xét nghiệm VGSV (nhât là VGSV C) cho bất kỳ thai phụ nào có ALT tăng.19,20 ICP có thể gây bất lợi cho thai nhi. Biến chứng quan trọng nhất là sanh sớm. Tỉ lệ sanh sớm thay đổi theo từng nghiên cứu khác nhau, có khuynh hướng gia tăng ở phụ nữ sanh nhiều lần. Một biến chứng khác được đề cập là chết đột ngột. Tỉ lệ vào khoảng 1%, thường xảy ra vào tháng cuối của thai kỳ.21 Phụ nữ có tiền sử ICP khi uống thuốc ngừa thai hiếm khi xảy ra tắc mật, vì vậy ICP chưa phải là chống chỉ định sử dụng thuốc ngừa thai. Thuốc ngừa thai có thể bắt đầu khi xét nghiệm gan trở về bình thường. Nguyên nhân của ICP không rõ. Nhiều nghiên cứu dịch tễ và lâm sàng trước đây cho thấy yếu tố di truyền, kích tố, kể cả một số yếu tố ngoại lai giữ vai trò nhất định trong sinh bệnh học của ICP. Nhiều biến thể di truyền như đột biến, đa hình ở các gien mã hóa cho các chất dẫn truyền (transporters) ở hệ gan-mật, được ghi nhận ở bệnh nhân ICP. Gien ABCB4 mã hóa cho 3P-glycoprotein đa kháng (MDR 3P-glycoprotein) hoặc ABCB4, một loại translocator của phosphatidyl-choline xuyên qua màng tế bào ống mật nhỏ để vào mật. Một khi không có phospholipids trong mật, acid mật gây tổn thương màng tế bào ống mật, gây ra tắc mật. Đột biến ở gien ABCB4 được ghi nhận ở trẻ em và người lớn.22 Vai trò của estrogens đã được xác định trong ICP. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm trên thú vật đã chứng minh estrogens, đặc biệt là ethynyl estradiol là chất gây tắc mật. Rối loạn di truyền thường dẫn đến phản ứng bất thường của tế bào gan với estrogens hoặc rối loạn chức năng chuyển hóa estrogens. Bất thường về chuyển hóa progesterone cũng có liên quan đến ICP, vì vậy điều trị bằng progesterone nên tránh ở phụ nữ mang thai, nhất là phụ nữ mang thai có tiền sử ICP. Một số yếu tố ngoại lai khác được ghi nhận có liên quan đến ICP như tình trạng sanh nhiều lần (60-70%), thay đổi theo mùa, địa dư (nổi bật ở Chi-Lê), thiếu selenium.23 Hydroxyzine 25-50 mg/ngày có thể rút ngắn thời gian bị ngứa. Cholestyramine 8-16 g/ ngày làm giảm hấp thụ và gia tăng bài tiết muối mật qua đường phân, nhưng hiệu quả làm giảm ngứa ở bệnh nhân ICP rất hạn chế. Hiệu quả của S-adenosyl-L-methionine vẫn còn nhiều tranh cãi.24 Gần đây, hiệu quả nhất có lẽ là ursodeoxycholic acid: giảm bớt ngứa, ngăn ngừa sanh non, cải thiện chức năng gan, không gây bất lợi cho mẹ và con. Liều dùng là 15 mg/kg/ngày, hoặc 500 mg x 2 lần/ ngày khá an toàn cho thai phụ, giúp cải thiện xét nghiệm chức năng gan và giảm tắc mật. Cơ chế tác dụng của ursodeoxycholic acid chưa hoàn toàn được hiểu hết, nhưng có thể được giải thích trên cơ sở cấu tạo hóa học. Ursodeoxycholic acid là một acid mật ái thủy (hydrophilic), giảm tắc mật bằng cách bảo vệ tế bào gan chống lại tác dụng gây độc gan của các acid mật kỵ thủy (hydrophobic), cải thiện sự di chuyển muối mật qua nhau.25,26,27 Một vấn đề khó khăn được đặt ra là quyết định chọn thời điểm tốt nhất để sanh vì hiện tại chúng ta chưa có một đồng thuận nào rõ ràng về vấn đề này, cũng không có một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên nào tốt nhất về những can thiệp sản khoa. Đối với thai phụ có vàng da-niêm nặng, thời điểm sanh được chọn khi thai vào khoảng 36 tuần, có thể lúc này phỗi của thai nhi đã hoàn chỉnh.1,2 24 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 Bệnh gan tiền sản giật Trong thai kỳ, bệnh gan thường gặp nhất là bệnh gan có liên quan đến tiền sản giật. Tiền sản giật lại là biến chứng thường gặp nhất trong thai kỳ (2-7% phụ nữ đang mang thai lần đầu) và là một bệnh lý có liên quan rất nhiều đến sức khỏe của mẹ và con28. Người ta nghĩ rằng bệnh nà ... ba tháng cuối của thai kỳ, một số ít xảy ra trong thời kỳ hậu sản. Trong một nghiên cứu của BM Sibai và cộng sự34 trên 437 phụ nữ bị hội chứng HELLP với 442 lần mang thai: 70% xảy ra trước khi sanh, 11% được phát hiện trước 27 tuần, 18% sau 37 tuần. Hầu hết, không phải là tất cả, có cao huyết áp, protein-niệu (điển hình của tiền sản giật). Chẩn đoán thường dựa vào bệnh cảnh lâm sàng, xét nghiệm hình ảnh (CT hoặc MRI) giúp chúng ta phát hiện biến chứng hoại tử gan, bướu máu hoặc vỡ. Diễn tiến cuối cùng ở người mẹ thường tốt, tuy nhiên cần lưu ý khi có biến chứng trầm trọng. Tỉ lệ tử vong vào khoảng 1,1%. Nguy cơ chính cho thai nhi là sanh non.35 Điều trị chủ yếu là hỗ trợ, bao gồm hỗ trợ hô hấp, chạy thận. Điều trị chủ yếu là cho bệnh nhân sanh sớm với những nỗ lực hồi sức vào giai đoạn trước 34 tuần để giảm nguy cơ cho mẹ và thai nhi. Sau sanh cần theo dõi lâu dài, vì nguy cơ tái xuất hiện hội chứng HELLP trong những lần mang thai sau. Bướu máu ở gan và vỡ Trong một số hiếm thai phụ có bướu máu xuất hiện dưới bao Glisson, có thể còn nguyên hoặc vỡ vào lớp bao gan, xuất huyết trong ổ bụng. Vỡ bướu máu có thể xảy ra trong bệnh cảnh của hội chứng HELLP, một số khác không hề có tiểu cầu giảm (thường 25 TỔNG QUAN Y VĂN gặp trong tiền sản giật). Về lâm sàng, bệnh nhân than đau bụng, bụng căng to, sốc. ALT tăng, đôi khi lên đến 4.000-5.000 IU/L. Siêu âm, CT, hoặc MRI có thể phát hiện được các tổn thương vừa nêu. Điều trị bướu máu ở gan thường mang tính hỗ trợ, một khi vỡ được xác định, phải can thiệp bằng ngoại khoa. Bệnh nhân sống sót không có hậu quả gì nặng nề, vẫn có thể mang thai tiếp vào các lần sau36. Gan hóa mỡ cấp trong thai kỳ Gan hóa mỡ cấp trong thai kỳ (acute fatty liver of pregnancy = AFLP) được ghi nhận là một bệnh riêng lẻ có liên quan đến thai kỳ vào năm 1940. Đây là bệnh rất hiếm xảy ra với tỉ lệ 1/7.000 đến 1/20.000 trường hợp mang thai.37,38 Sinh thiết gan là phương cách tốt nhất để chẩn đoán AFLP, tuy nhiên đây là thủ thuật xâm lấn, không phải lúc nào cũng được thực hiện. Hiện nay, chúng ta có nhiều cách không xâm lấn để chẩn đoán AFLP, không nhất thiết phải dùng đến sinh thiết gan. Trên sinh thiết, cấu trúc gan không thay đổi. Nhiều hạt mỡ nhỏ ứ đọng trong tế bào gan, tập trung ở trung tâm chung quanh nhân, làm cho các tế bào này phình to lên, có hình như bọt nước. Tẩm nhuận mỡ hạt nhỏ chủ yếu ở vùng trung thùy, không ảnh hưởng đến vùng quanh cửa gan. Hình ảnh tắc mật với sự hiện diện của khối mật trong tế bào gan khá phổ biến, kèm theo phản ứng viêm nhiễm. Hoại tử với các thể ăn màu acid hoặc hoại tử lan rộng (thường gặp trong viêm gan tối cấp) không ghi nhận trong AFLP. Trên kính hiển vi điện tử xác nhận có ứ đọng mỡ, với những thay đổi không đặc hiệu về kích thước và hình dạng ty thể. Nhuộm màu chuyên biệt bằng dầu đỏ O giúp phát hiện các hạt mở trong tế bào gan, hoặc sử dụng kính hiển vi điện tử, cả hai rất hữu ích để chẩn đoán mô học AFLP đối với bệnh nhân có tế bào gan phình to, nhưng hiện tượng hóa không bào không rõ ràng. Thông thường các bất thường về mô học phục hồi khá nhanh chóng sau sanh, vì vậy AFLP hiếm khi diễn tiến sang xơ gan.39,40 AFLP là bệnh của ba tháng cuối thai kỳ, tuy nhiên một số ít xảy ra vào tuần 22 đến 26.41 Tỉ lệ mắc bệnh gia tăng đối với các trường hợp sanh đôi (14-19% so với 1% ở dân số thường) và sanh ba (khoảng 7%).42 Triệu chứng khởi đầu thường gặp nhất là nôn ói, đau vùng thượng vị, chán ăn, vàng da-niêm. Kích thước gan bình thường. Ngứa thường hiếm gặp. Khoảng phân nửa bệnh nhân có cao huyết áp, protein-niệu, những triệu chứng chính của tiền sản giật. Cần lưu ý một số bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng, một số có những biểu hiện bệnh não, động tác bất thường (asterixis). Một số ít bệnh nhân có biểu hiện viêm tụy, viêm thực quản, hội chứng Mallory-Weiss, xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết sinh dục. Báng bụng liên quan đến hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa, tiểu nhiều-ăn nhiều liên quan đến tiểu đường cũng được ghi nhận trong AFLP.43 Xét nghiệm cho thấy ALT tăng nhưng không quá cao như trong viêm gan siêu vi cấp, bilirubin tăng, thời gian prothrombin kéo dài, nồng độ fibrinogen giảm, rối loạn đông máu, tiểu cầu giảm. Siêu âm cho thấy độ phản âm của gan tăng. CT scan ghi nhận độ đặc của gan (liver density) giảm (bằng hoặc kém hơn độ đặc của lách).44 Trước năm 1970, tỉ lệ tử vong của thai phụ bị AFLP rất cao, lên đến gần 90%. Tuy nhiên, gần đây tiên lượng đã được cải thiện nhiều nhờ vào những tiến bộ về hồi sức cấp cứu các trường hợp nặng, chẩn đoán được thêm nhiều trường hợp có mức nguy kịch thấp, cho bệnh nhân sanh sớmTỉ lệ tử vong giảm chỉ còn khoảng 10% hoặc thấp hơn. Hầu hết bệnh nhân phục hồi hoàn toàn sau sanh không để lại dư chứng.45 AFLP có thể tái xuất hiện vào các lần mang thai sau, vì vậy thai phụ có tiền sử AFLP cần được thông báo về nguy cơ này và nên được 26 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 theo dõi thường xuyên về lâm sàng và xét nghiệm (chức năng gan, acid uric, tiểu cầu), khoảng 2 lần/tháng trong ba tháng cuối của thai kỳ. Vào giữa thập niên 80, tỉ lệ tử vong của thai nhi, con của bà mẹ bị AFLP còn rất cao (khoảng 50%). Tuy nhiên, sau đó khi cho thai phụ sanh sớm, nguy cơ tử vong của trẻ sơ sinh đã giảm, số trẻ sanh sống tăng lên. Tuy nhiên, cần lưu ý tình trạng thiếu bẩm sinh các men oxid hóa acid béo ở trong ty thể, vì vậy các trẻ này cần được theo dõi sát ngay từ lúc mới sanh.1 Nguyên nhân gây AFLP hiện nay vẫn chưa rõ, tuy nhiên người ta đã tìm thấy sự liên quan giữa AFLP với các bất thường di truyền về oxid hóa acid béo. Vào những năm đầu của thập niên 90, Schoeman và cộng sự46, kế đến Wilcken và cộng sự47 đã xác nhận sự liên quan này. Tiếp theo, một em bé 4 tháng tuổi, có mẹ bị AFLP và hội chứng HELLP vào thai kỳ 36 tuần được phát hiện thiếu 3-hydroxyacyl coenzyme A dehydroxygenase chuỗi dài (LCHAD). Cha mẹ em bé đều bị LCHAD dị hợp tử.48 Sau khi trường hợp này được phát hiện, nhiều nghiên cứu tiếp theo đã chứng minh được sự liên hệ di truyền này.49 Đột biến ở gien mã hóa cho LCHAD cũng được ghi nhận, thường gặp nhất là c.1528G>C. Gần đây, người ta ghi nhận thiếu carnitine palmitoyltransferase cũng có liên quan đến AFLP.50 AFLP phải được xem là một khẩn cấp sản khoa! Bệnh này thường không tự khỏi trước khi sanh và nếu để thai phụ sanh muộn, nhiều biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra như xuất huyết, thai chết lưu. Điều trị cơ bản AFLP vẫn là cho bệnh nhân sanh sớm. Chọn lựa con đường sanh là quyết định của bác sĩ sản khoa, có thể thay đổi theo từng tình huống lâm sàng. Thông thường, nếu thai phụ chuyển dạ trong điều kiện tốt, không có dấu hiệu cho mẹ và con, bệnh nhân có thể sanh qua ngả âm đạo và phải theo dõi sát mẹ và con trong lúc và sau sanh. Đối với bệnh nhân nặng, cần xem xét mổ bắt con sau khi điều chỉnh các rối loạn đông máu, nhất là khi tiểu cầu giảm.51 Nguyên nhân của AFLP chưa rõ, vì vậy hiện nay không có một điều trị đặc hiệu nào được đề nghị. Viêm thực quản được điều trị triệu chứng, ngăn chận xuất huyết. Theo dõi đường huyết, nếu có giảm đường nên dùng glucose qua đường tĩnh mạch. Bệnh nhân có biểu hiện viêm gan tối cấp cần được điều trị cấp cứu và theo dõi sát trước và sau sanh. Một số bệnh nhân quá nặng, nên xem xét việc ghép gan.52■ (Xem tiếp kỳ sau). Tài liệu tham khảo 1. Bacq Y. The liver in Pregnancy. In: Schiff ER, Maddrey WC, Sorrell MF (Eds). Schiff’s Diseases of the Liver. Wiley-Blackwell, 11th Edition, 2012:pp 271-293 2. Burroughs AK, Heathcote EJ. The liver in Pregnancy. In: Dooley JS, Lok ASF, Burroughs AK, Heathcote EJ (Eds). Sherlock’s Diseases of the Liver and Biliary System. Wiley-Blackwell, 12th Edition, 2011:pp 602-614 3. Bacq Y, Zarka O. Le foie au cours de la grossesse. Gastroenterol Clin Biol 1994;18:767-74 4. Bacq Y, et al. Liver function tests in normal pregnancy: a prospective study of 103 pregnant women and 103 matched controls. Hepatology 1996;23:1030-4 5. Maes BD, et al. Gastric emptying in hyperemesis gravidarum and non-dyspeptic pregnancy. Aliment. Pharmacol. Ther 1999;13:237-243 6. Fell DB, et al. Risk factor for hyperemesis gravidarum requiring hospital admission during pregnancy. Obstet. Gynecol.2006;197:277-284 7. Goodwin TM. Hyperemesis gravidarum. Clin Obstet Gynecol 1998;41:597-605 8. Abell TL, Reily CA. Hyperemesis gravidarum. Gastroenterol Clin North Am 1992;21:835-49 9. Kuscu NK, Koyuncu F. Hyperemesis gravidarum: current concepts and management. Postgrad. Med. J. 2002;78:76-79 10. Goodwin TM, Montoro M, Mestman JH. Transient hyperthyroidism and hyperemesis gravidarum: clinical aspects. Am J Gynecol 1992;167:648-52 11. Bottomley C, Bourne T. Management strategies for hyperemesis. Best Pract Res Clin Obstet Gynecol 2009;23:549-64 12. Sullivan CA, et al. A pilot study of intravenous ondansetron for hyperemesis gravidarum. Am J Obstet Gynecol 1996:174:1565-8 13. Safari HR, et al. The efficacy of methylprednisolone in the treatment of hyperemesis gravidarum: a randomized, double-blind, controlled study. Am. J. Obstet. Gynecol 1998;179:921-24 14. Bacq Y. Intrahepatic cholestasis of pregnancy. Clin Liver Dis 1999;3:1-13 15. Geenes V, Williamson C. Intrahepatic cholestasis of 27 TỔNG QUAN Y VĂN pregnancy. World J Gastroenterol 2009;15:2049-66 16. Bacq Y, et al. Intrahepatic cholestasis of pregnancy: a French prospective study. Hepatology 1997;26:358-64 17. Dann AT, et al. Glutathion-S-transferase and liver function in intrahepatic cholestasis of pregnancy and pruritus gravidarum. Hepatology 2004;40:1406-14 18. Ropponen A, et al. Intrahepatic cholestasis of pregnancy as an indicator of liver and biliary diseases: a population- based study. Hepatology 2006;43:723-8 19. Reyes H. The spectrum of liver and gastrointestinal disease seen in cholestasis of pregnancy. Gastroenterol Clin North Am 1992;21:905-21 20. Paternoster DM, et al. Intrahepatic cholestasis of pregnancy in hepatitis C virus infection. Acta Obstet Gynecol Scand 2002;81:99-103 21. Favre N, et al. Unusual presentation of severe intrahepatic cholestasis of pregnancy leading to fetal death. Obstet Gynecol 2009;114:491-3 22. Bacq Y, et al. ABCB4 gene mutations and single- nucleotide polymorphisms in women with intrahepatic cholestasis of pregnancy. J Med Genet 2009;46:711-15 23. Reyes H, et al. Selenium, zinc, and copper plasma levels in intrahepatic cholestasis of pregnancy, in normal pregnancies and in healthy individuals in Chile. J Hepatol 2000;32:542-9 24. Roncaglia N, et al. A randomised controlled trial of ursodeoxycholic acid and S-adenosyl-methionine in the treatment of gestational cholestasis. Br J Obstet Gynecol 2004;111:17-21 25. Kondrackiene J, Beuers U, Kupciskas L. Efficacy and safety of ursodeoxycholic acid versus cholestyramine in intrahepatic cholestasis of pregnancy. Gastroenterology 2005;129:894-901 26. Zapata R, et al. Ursodeoxycholic acid in the treatment of intrahepatic cholestasis of pregnancy. A 12-year experience. Liver Int 2005;25:548-54 27. Mays JK. The active management of intrahepatic cholestasis of pregnancy. Curr Opin Obstet Gynecol 2010;22:100-3 28. Sibai B, Dekker J, Kupferminc M. Pre-eclampsia. Lancet 2005;365:785-99 29. Roberts JM, Copper DW. Pathogenesis and genetics of pre-eclampsia. Lancet 2001;357:53-6 30. Duckitt K, Harrington D. Risk factors for pre-eclampsia at antenatal booking:systemic review of controlled studies. BR Med J 2005;330:565 31. Barton JR, Sibai BM. Gastrointestinal complications of pre-eclampsia. Semin Perinatol 2009;33:179-88 32. Weinstein L. Syndrome of hemolysis, elevated liver enzymes, and low platelets count: a severe consequence of hypertension in pregnancy. Am J Obstet Gynecol 1982;142:159-67 33. Halim A, et al. Immunohistological study in cases of HELLP syndrome (hemolysis, elevated liver enzymes, and low platelets) and acute fatty liver of pregnancy. Gynecol Obstet Invest 1996;41:106-12 34. Sibai BM, et al. Maternal morbidity and mortality in 442 pregnancies with hemolysis, elevated liver enzymes and low platelets (HELLP syndrome). Am J Obstet Gynecol 1993;169:1000-6 35. Sibai BM, et al. Pregnancies complicated by HELLP syndrome (hemolysis, elevated liver enzymes and low platelets): subsequent pregnancy outcome and long-term prognosis. Am J obstet Gynecol 1995;172:125-9 36. Scwartz ML, Lien JM. Spontaneous liver hematoma in pregnancy not clearly associated with pre-eclampsia: a case presentation and litterature review. Am J Obstet Gynecol 1997;176:1328-32 37. Castro MA, et al. Reversible peripartum liver failure: a new perspective on the diagnosis, treatment, and cause of acute fatty liver of pregnancy, based on 28 consecutive cases. Am J Obstet Gynecol 1999;181:389-95 38. Knight M, et al. A prospective national study of acute fatty liver of pregnancy in the UK. Gut 2008;57:951-6 39. Rolfes DB, Ishak KG. Acute fatty liver of pregnancy: a clinicopathologic study of 35 cases. Hepatology 1985;5:1149-58 40. Riely CA. Acute fatty liver of pregnancy. Semin Liver Dis 1987;7:47-5 41. Buytaert IM, et al. Early occurrence of acute fatty liver in pregnancy. Am J Gastroenterol 1996;96;91:603-4 42. Malone FD, et al. Maternal morbidity associated with triplet pregnancy. Am J Perinatol 1998;15:73-7 43. Vanjak D, et al. Intrahepatic cholestasis of pregnancy and acute fatty liver of pregnancy: An unsual but favorable association? Gastroenterology 1991;100:1123-5 44. Castro MA, et al. Radiologic studies in acute fatty liver of pregnancy. A review of the litterature and 19 new cases. J Reprod Med 1996;41:839-43 45. Mjahed K, et al. Acute fatty liver of pregnancy. Arch Gynecol Obstet 2006;274:349-53 46. Schoeman MN, et al. Recurrent acute fatty liver of pregnancy associated with a fatty acid oxidation defect in the off-spring. Gastroenterol 1991;100:544-8 47. Wilcken B, et al. Pregnancy and fetal long-chain 3-hydroxyacyl coenzyme A dehydrogenase deficiency. Lancet 1993;341:407-8 48. Treem WR, et al. Acute fatty liver of pregnancy and long-chain 3-hydroxyacyl-coenzyme A dehydrogenase deficiency. Hepatology 1994;19:339-45 49. Ibdah JA, et al. A fetal fatty-acid oxidation disorder as a cause of liver disease in pregnant women. N Engl J Med 1999;340:1723-31 50. Innes AM, et al. Hepatic carnitine palmotoyl-transferase I deficiency presenting as maternal illness in pregnancy. Pediatr Res 2000;47:43-5 51. Mabie WC. Acute fatty liver of pregnancy. Gastroenterol Clin North Am 1992;21:951-60 52. Ockner SA, et al. Fulminant hepatic failure caused by acute fatty liver of pregnancy treated by orthotopic liver transplantation. Hepatology 1990;11:59-64.
File đính kèm:
benh_gan_o_thai_phu.pdf