Bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình vùng mỏm thất trái: Một trường hợp trẻ tuổi sống sót sau cơn nhịp nhanh thất
Bệnh nhân nam giới 25 năm 11 tháng tuổi không có tiền sử bệnh tật gì, đột ngột xuất hiện cơn nhịp nhanh thất, được sơ cấp cứu và shock điện chuyển về nhịp xoang. Khám tại Viện Tim mạch Việt Nam có biến đổi điện tâm đồ ST chênh lên từ V4 đến V6, DI, aVL; Troponin T tăng (0.87μg/L) và có giảm (0.32 μg/L) sau 4 ngày; Siêu âm tim phát hiện dày thành cơ tim vùng đáy tới giữa thất trái (vách liên thất và thành sau thất trái thì tâm trương dày tương ứng 17 và 19mm), không vận động và phình nhẹ vùng mỏm thất trái, cơ tim vùng mỏm mỏng hơn (10mm), huyết khối mỏm thất trái, EF Simpson biplane: 46%; Speckle tracking: giảm sức căng cơ tim trung bình theo chiều dọc (Global longitudinal strain_ average = -6.9%), không thấy co cơ vùng mỏm thất trái. Chụp động mạch vành kiểm tra cho kết quả hệ động mạch vành hoàn toàn bình thường. MRI tim xác nhận chẩn đoán bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình mỏm thất trái, huyết khối mỏm thất trái, sẹo hóa cơ thất trái vùng mỏm nghĩ tới tổn thương mạn tính
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình vùng mỏm thất trái: Một trường hợp trẻ tuổi sống sót sau cơn nhịp nhanh thất
CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017156 Bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình vùng mỏm thất trái: Một trường hợp trẻ tuổi sống sót sau cơn nhịp nhanh thất Lê Tuấn Thành*, Nguyễn Ngọc Tráng**, Nguyễn Thị Bạch Yến*, Jose Banchs***, Đỗ Doãn Lợi* Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai, Việt Nam* Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Bạch Mai, Việt Nam** Khoa Tim Mạch, Trung tâm Anderson, Đại học Texas, Mỹ*** TÓM TẮT Bệnh nhân nam giới 25 năm 11 tháng tuổi không có tiền sử bệnh tật gì, đột ngột xuất hiện cơn nhịp nhanh thất, được sơ cấp cứu và shock điện chuyển về nhịp xoang. Khám tại Viện Tim mạch Việt Nam có biến đổi điện tâm đồ ST chênh lên từ V4 đến V6, DI, aVL; Troponin T tăng (0.87μg/L) và có giảm (0.32 μg/L) sau 4 ngày; Siêu âm tim phát hiện dày thành cơ tim vùng đáy tới giữa thất trái (vách liên thất và thành sau thất trái thì tâm trương dày tương ứng 17 và 19mm), không vận động và phình nhẹ vùng mỏm thất trái, cơ tim vùng mỏm mỏng hơn (10mm), huyết khối mỏm thất trái, EF Simpson biplane: 46%; Speckle tracking: giảm sức căng cơ tim trung bình theo chiều dọc (Global longitudinal strain_ average = -6.9%), không thấy co cơ vùng mỏm thất trái. Chụp động mạch vành kiểm tra cho kết quả hệ động mạch vành hoàn toàn bình thường. MRI tim xác nhận chẩn đoán bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình mỏm thất trái, huyết khối mỏm thất trái, sẹo hóa cơ thất trái vùng mỏm nghĩ tới tổn thương mạn tính. Bàn luận: Bệnh cơ tim phì đại có kèm theo phình mỏm thất trái là một thể lâm sàng rất hiếm gặp (2% trong tổng số bệnh cơ tim phì đại), dễ bị bỏ qua trên siêu âm tim, và có nhiều biến chứng nguy hiểm [1]. Tại Mỹ (2008) trong tổng số 1299 trường hợp bệnh cơ tim phì đại được thống kê, chỉ có 28 trường hợp phình mỏm thất trái, tuổi từ 26 đến 83 [1]. Từ năm 1987, Fighali S và cộng sự đã đưa ra nhận xét có tình trạng rối loạn vận động vùng trên bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại mà không tổn thương động mạch vành [2]. Tình trạng mỏng đi và tổn thương sẹo hóa vùng mỏm có thể do các nguyên nhân: hẹp giữa buồng thất trái tiến triển gây chênh áp giữa phần đáy tim và phần mỏm, dẫn tới tổn thương thiếu máu mạn tính vùng mỏm do áp lực [3]; tổn thương cơ tim mạn tính do một số nhánh động mạch vành đi bất thường trong thành cơ tim và bị ép lại trong thì tâm thu (giống với cơ chế cầu cơ) [3]. Khởi phát cơn nhịp nhanh trên thất có thể do: huyết khối động mạch vành do tình trạng tăng đông từ mỏm thất trái bị phình, gây ra nhồi máu cơ tim cấp trên nền cơ tim thiếu máu cục bộ vùng mỏm thất trái; hoặc rối loạn dẫn truyền khởi phát từ vùng cơ tim bị sẹo hóa. Khuyến cáo: Các bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại có phình vùng mỏm nên được cấy máy phá CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 157 rung tự động, kiểm soát tình trạng tăng đông trong buồng thất, điều trị nội khoa cơ bản bằng thuốc chẹn beta hoặc chẹn kênh canxi hoặc kết hợp cả hai, chụp động mạch vành kỹ lưỡng để phát hiện các động mạch vành đi bất thường trong cơ tim, chụp MRI và siêu âm tim để chẩn đoán xác định, theo dõi và tiên lượng. Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh Tako-Tshubo trên nền bệnh nhân có bệnh cơ tim phì đại. Cân nhắc việc xét nghiệm các gien có liên quan tới bệnh cơ tim phì đại: Liệu có một hoặc một nhóm gien đột biến gắn liền với thể lâm sàng này hay không? [4.5]. Từ khóa: Bệnh cơ tim phì đại, phình mỏm thất trái, siêu âm tim, MRI tim. GIỚI THIỆU CA BỆNH Bệnh nhân nam giới 25 năm 11 tháng tuổi không có tiền sử bệnh tật gì, đột ngột xuất hiện khó thở, tức ngực trái, hoa mắt, không ngất, không bất tỉnh, vào cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương phát hiện cơn nhịp nhanh thất. Tại Khoa Cấp cứu, bệnh nhân được ghi điện tâm đồ có cơn nhịp nhanh kịch phát (hình 1). Bệnh nhân được xử trí theo hướng nhịp nhanh thất kịch phát, truyền lydocain, sốc điện chuyển nhịp về nhịp xoang. Hình 1. điện tâm đồ của bệnh nhân khi nhập viện: nhịp nhanh có phức bộ QRS giãn rộng Điện tâm đồ sau khi sốc điện cho thấy chủ nhịp xoang có QRS giãn nhẹ có dạng nhánh nội điện khử cực chậm, sóng Q ở V6, DI, aVL, ST chênh lên từ V2 đến V6, sóng T âm từ V3 đến V6, DI, DII, aVL. Điện tâm đồ gợi ý một tình trạng mạch vành cấp tính. Hình 2. Điện tâm đồ sau sốc điện: nhịp xoang, nghi ngờ có bệnh mạch vành cấp tính Ngay sau đó, bệnh nhân được chuyển đến Viện Tim mạch Việt Nam với chẩn đoán: Cơn nhịp nhanh thất chưa rõ nguyên nhân. Tại đây, thăm khám ban đầu cho thấy bệnh nhân tỉnh táo, không đau ngực, không khó thở, nhịp tim 75 chu kỳ/phút, huyết áp 120/80 mmHg, không thấy bất thường gì khác. Điện tâm đồ được làm tại Viện Tim mạch Việt Nam cho thấy vẫn xuất hiện các sóng Q hoại tử giống với điện tâm đồ trước đó, đồng thời xuất hiện thêm ở chuyển đạo V4. ST chênh lênh ở các chuyển đạo V4, V5, V6, DI, aVL. Hình 3: Điện tâm đồ tại Viện Tim mạch Việt Nam: có biến đổi ST-T và sóng Q xuất hiện mới ở V4 so với điện tâm đồ trước đó. CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017158 Troponin T mẫu 1 được làm ngay lập tức và cho kết quả tăng nhẹ (0.87 μg/L). Sau đó 4 ngày (sau khi bệnh nhân được chụp động mạch vành), Troponin T được làm lại với kết quả giảm 0.32 (μg/L). Kết quả xét nghiệm NT-ProBNP cho giá trị tương đối cao (827 pg/ml). INR có giá trị ở ngưỡng thấp (1.02), trong khi các xét nghiệm khác bình thường. Siêu âm tim cho kết quả chẩn đoán là một tình trạng bệnh cơ tim phì đại có mất vận động và phình mỏm thất trái, huyết khối bám ở mỏm thất trái. Chức năng thất trái giảm với EF biplane = 46%. Hình 4a. siêu âm tim cho thấy có tình trạng dày thành thất trái có ý nghĩa (>15mm) Hình 4b. Mỏm tim không vận động kèm theo có phình nhẹ vùng mỏm, huyết khối bám ở mỏm thất trái Siêu âm đánh dấu mô cơ tim (speckle tracking) lập biểu đồ co cơ (Bull’s eye) tại thời điểm đóng van động mạch chủ (AVC) và phân tích biểu đồ co cơ cho một chu chuyển tim cho thấy vùng mỏm thất trái không có hiện tượng co cơ, với tỷ lệ co cơ theo chiều dọc (GLS) tại vùng mỏm nhận giá trị > 0. Biểu đồ co cơ còn cho thấy các vùng cơ tim cấp máu bởi động mạch liên thất trước (LAD) và động mạch mũ (Lcx) có hiện tượng giảm tỷ lệ co cơ theo chiều dọc. Chức năng thất trái giảm với GLS trung bình thất trái = -6.9%. Tuy nhiên khi bệnh nhân được tiến hành chụp động mạch vành (ngày 7/4/2017), kết quả trả lời của kíp can thiệp mạch vành là: Hệ động mạch vành hoàn toàn bình thường. Kết quả này khiến đặt ra những câu hỏi cần bàn luận và chẩn đoán sâu hơn. Bệnh nhân sau đó được chụp MRI tim với kết quả tương đồng với siêu âm tim: Cơ tim phì đại vùng đáy có phình nhẹ vùng mỏm thất trái, không vận động mỏm thất trái, huyết khối (cũ) bám ở mỏm thất trái . Chụp CMR với Gadolinium thì ngấm thuốc muộn cho thấy từ vị trí 1/2 giữa buồng thất trái về phía mỏm tim ở các thành cơ tim tưới máu của LAD và Lcx có hiện tượng xơ hóa giữa cơ tim (fibrosis of midwall myocardium), tuy nhiên tới mỏm thất trái, hiện tượng xơ hóa này xuất phát từ phía nội mạc kiểu xuyên thành (transmural fibrosis). Cơ tim vùng mỏm mỏng hơn rõ rệt so với các vùng cơ tim khác (10mm) và hoàn toàn không vận động. Như vậy câu hỏi đặt ra của chúng tôi là: 1. Bệnh nhân này có nhồi máu cơ tim cấp hay không? 2. Cơ chế gây tổn thương vùng mỏm thất trái của bệnh nhân này? 3. Những nguy cơ cần kiểm soát đối với nhóm bệnh nhân đặc biệt này? CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 159 Hình 5. Speckle tracking thất trái cho thấy có hiện tượng giảm tỷ lệ co cơ theo chiều dọc ở các vùng cơ tim cấp máu bởi LAD và Lcx, không co cơ vùng mỏm Hình 6. Chụp MRI tim (CMR) cho thấy có tình trạng dày thành cơ tim thất trái từ vùng đáy đến vùng giữa thất trái (bề dày thành thất trái tâm trương = 20mm, trong thì tâm thu có vị trí dày lên tới 32mm). Có phình vùng mỏm thất trái nhưng không ghi nhận được chênh áp giữa buồng thất trái Hình 7. Huyết khối bám ở mỏm thất trái trên CMR Hình 8. Ngấm thuốc thì muộn với Gadolinium xác nhận tình trạng xơ sẹo hóa giữa thành cơ tim (fibrosis of midwall myocardium) từ 1/2 thành thất trái vùng trước vách, thành trước, thành bên thất trái về phía mỏm tim và toàn bộ vùng mỏm thất trái. Đặc biệt có hiện tượng sẹo hóa xuyên thành (Transmural fibrosis) tại mỏm thất trái. Kết quả này đồng thời giúp phân biệt với Hội chứng Tako-Tsubo BÀN LUẬN Từ năm 1987, Fighali S và cộng sự đã đưa ra nhận xét có tình trạng rối loạn vận động vùng trên bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại mà không tìm thấy tổn thương tắc nghẽn cố định động mạch vành [2]. Điều này gợi ra một số giả thuyết, trong đó có hai giả thuyết được đề cập nhiều nhất: 1. Giảm vận động hoặc rối loạn vận động vùng do chèn ép các nhánh động mạch vành đi bất thường trong cơ tim (aberrant coronary arteries) trong thì tâm thu (giống với cơ chế cầu cơ). Giả thuyết này cho rằng tồn tại các nhánh động mạch vành đi ở giữa cơ tim thất trái do cơ tim quá dày và cần được cấp máu nhiều lớp. Đến năm 2001 Kazumasa Harada CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017160 và cộng sự [3] đã công bố một trường hợp nữ giới 71 tuổi có bệnh cơ tim phì đại gây hẹp giữa buồng thất trái và phình, mất vận động mỏm thất trái, với Hình 9. Chụp động mạch vành cho thấy có các nhánh động mạch vành đi bất thường giữa cơ tim bên trái và bên phải, bị ép lại tắc hoàn toàn trong thì tâm thu Đồng thời khi đo chênh áp trong buồng thất trái, Kazumasa Harada và cộng sự đã tính được chênh áp giữa buồng đáy và vùng mỏm thất trái lên tới 90mmHg. Hình 10. Hai trường hợp được báo cáo năm 2004 của Andrey G.Zenovich và cộng sự Tương tự như vậy, năm 2004 [4], Andrey G.Zenovich và cộng sự đã công bố 2 trường hợp có phì đại cơ tim vùng đáy dẫn tới hẹp giữa buồng thất trái và phình mỏm thất trái. Cả hai trường hợp này kết quả chụp động mạch vành chứng minh được có hiện tượng tắc nghẽn các nhánh động mạch vành đi bất thường trong cơ thất trái. CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 161 có tuổi là 60 và 78. Một nghiên cứu tổng hợp năm 2008 của Martin S và cộng sự [1] cho thấy cái nhìn tương đối tổng quát đối với nhóm bệnh nhân đặc biệt này: Thống kê 1299 trường hợp có bệnh cơ tim phì đại tại Mỹ thì chỉ có 28 trường hợp có phình mỏm thất trái, chiếm 2%. Như vậy đây là một dưới nhóm (subgroup) rất hiếm gặp của bệnh cơ tim phì đại. Đặc biệt lứa tuổi ghi nhận được từ 26 đến 83, và chỉ có 9 trường hợp có tắc nghẽn giữa buồng thất trái (chiếm 32%). Tất cả các trường hợp này đều có bất thường điện tâm đồ. Có đến 12/28 trường hợp bị bỏ qua tình trạng phình mỏm thất trái trên siêu âm. Tất cả các trường hợp đều được chụp CMR xác nhận vùng mỏm bị phình, mỏng đi, mất vận động và sẹo hóa (ngấm thuốc thì muộn Gadolinium). Có 3 trường hợp tìm thấy gien đột biến sarcomeric protein. Đối với bệnh nhân của chúng tôi, đây là một trường hợp đặc biệt trẻ, xuất hiện đột ngột nhịp nhanh thất kịch phát, phì đại cơ tim vùng đáy và phình, mất vận động mỏm thất trái. Chụp động mạch vành không phát hiện được bất thường nhưng có động học của Troponin T và biến đổi trên điện tâm đồ, vẫn hướng đến chẩn đoán một tình trạng nhồi máu cơ tim cấp. Huyết khối tại mỏm thất trái cũng là một yếu tố ủng hộ cho tình trạng rối loạn đông máu tại tim. Phì đại vùng đáy khiến các lớp cơ tại đây co bóp rất mạnh, trong khi vùng mỏm không phì đại, dẫn tới tình trạng phình dần vùng mỏm và tắc nghẽn dần giữa buồng thất trái. Tuy nhiên, cơ chế hẹp giữa buồng thất trái gây phình mỏm thất trái trên bệnh nhân của chúng tôi bị loại bỏ do không ghi nhận được chênh áp giữa buồng thất trái trên CMR cũng như siêu âm tim. Giả thuyết đặt ra là có tình trạng nhồi máu cơ tim cấp tính gây tắc các nhánh động mạch vành đi bất thường (aberrant coronary arteries) giữa thành cơ tim, và do vậy không thể quan sát được trên chụp động mạch vành. Điều này rất khó được xác nhận trên CMR cũng không thể đánh giá được các nhánh nhỏ của động mạch vành đi bất thường đã tắc hoàn toàn (sử dụng chuỗi xung T1 tìm huyết khối). Thống kê của Martin S và cộng sự (2008) cho thấy cơ chế tắc nghẽn giữa buồng thất trái gây thiếu máu dưới áp lực lớn và thường xuyên chỉ chiếm 32% số trường hợp quan sát được, nhưng không đưa ra các nguyên nhân khác có thể gặp phải trên nhóm bệnh nhân phì đại cơ tim vùng đáy có phình mỏm thất trái. Điều đó cho thấy vẫn còn nhiều câu hỏi về cơ chế gây phì đại cơ tim và mất vận động vùng mỏm thất trái trên nhóm bệnh nhân này. Tuy nhiên bệnh nhân của chúng tôi có thể là một trong những cơ chế giải thích quan trọng: nhồi máu cơ tim xảy ra trên nhóm bệnh nhân này nhưng sau đó hoặc huyết khối tự ly giải, hoặc không thể quan sát được các nhánh nhỏ đi bất thường giữa cơ thất trái đã bị tắc hoàn toàn. Quan sát của chúng tôi cũng đưa ra một tình huống lâm sàng cho nhóm bệnh nhân đặc biệt này: Bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình vùng mỏm thất trái có thể bị cơn nhịp nhanh thất kịch phát và tử vong. Tình trạng tăng đông tại mỏm thất trái vừa có thể gây tắc mạch xa (VD: mạch não), vừa có thể là yếu tố thuận lợi gây rối loạn đông máu tại tim. Chúng tôi khuyến nghị nhóm bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại cần phải được quan sát kỹ vùng mỏm thất trái để phát hiện sớm dưới nhóm đặc biệt này, từ đó có kế hoạch theo dõi và điều trị. Cần cấy máy chống rung tự động (D-ICD) để đề phòng những rối loạn nhịp thất có thể gặp. Kiểm soát tình trạng động máu nếu có hiện tượng tăng đông hoặc phát hiện huyết khối cũng rất cần thiết đối với nhóm bệnh nhân này. Một chẩn đoán phân biệt cần được đặt ra là hội chứng Tako-Tsubo, tuy nhiên không phù hợp trên bệnh nhân nam giới của chúng tôi là tình trạng ngấm thuốc thì muộn rõ rệt tại vùng mỏm cũng như giữa thành cơ tim thất trái từ 1/2 thất trái về phía mỏm CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017162 SUMMARY Hypertrophic Cardiomyopathy with Apical Aneurysm: unusual case of young male survived from ventricular tachycardia episode. Male patients aged 25 years and 11 months had no history of illness, suddenly experiencied shortness of breath, chest pain, dizziness, no syncope, no unconsciousness, Current ventricular tachycardia (VT) was detected at local hospital, first aid and electrical shock to the sinus rhythm. An examination at the Viet Nam national heart institute shown a condition of elevated ST segment ranging from V4 to V6, DI, aVL; Troponin T increased (0.87μg / L) and decreased (0.32 μg / L) after 4 days; Echocardiography revealed the thickness of myocardium from basal to the middle of the left ventricular (LV) (septal and posterior wall diameter was 17 and 19 mm respectively), but dyskinesis and thinner (10mm) apex, with left ventricular thrombosis, EF Simpson (biplane): 46%; Speckle tracking: Global longitudinal strain_average of LV was -6.9%, with no contraction of apical LV. Coronary angiography determined a completely normal coronary arteries. MRI of the heart confirmed diagnosis of hypertrophic cardiomyopathy (HCM) of LV but a small scared apical aneurysm with a thrombus attached at the apex, thinking of chronic injury. Discussion: HCM with left ventricular apical aneurysm is a very rare clinical form (2% of total HCM), easily missed on echocardiography, and has more dangerous complications. [1]. In the United States (2008) of the 1299 cases of HCM were reported, only 28 cases with apical aneurysm, age from 26 to 83 [1]. Since 1987, Fighali S et al. have suggested that there is a segmental LV hypokinesia developed in patients tương ứng với các vùng tưới máu của LAD và Lcx. Vỡ tim do vỡ phình mỏm thất trái chưa từng được ghi nhận trên nhóm bệnh nhân này, tuy nhiên hoàn toàn có thể xảy ra trên nhóm bệnh nhân có chênh áp giữa buồng thất trái cao, vùng đáy co bóp khỏe và vùng mỏm bất động và mỏng đi, thiếu nuôi dưỡng. Các nghiên cứu về gien gặp khó khăn tại Việt Nam nhưng theo chúng tôi, các bệnh nhân có bệnh cơ tim phì đại và đặc biệt là thể lâm sàng này cần phải được xét nghiệm tìm kiếm gien đột biến [5]. Ở bệnh nhân của chúng tôi, ông ngoại và cậu ruột của bệnh nhân được ghi nhận bị đột tử không rõ nguyên nhân, gợi ý có sự liên quan tới yếu tố di truyền trên nhiễm sắc thể X. KẾT LUẬN Bệnh cơ tim phì đại vùng đáy có phình mỏm thất trái là một thể lâm sàng rất hiếm gặp trong nhóm bệnh cơ tim phì đại. Bệnh nhân có thể diễn biến đa dạng, từ không có triệu chứng nhưng có bất thường điện tâm đồ, đến các trường hợp nặng gặp biến cố tim mạch sớm (nhịp nhanh thất, đột quỵ, đột tử). Bệnh có thể bị bỏ qua trên siêu âm tim nếu không chú ý đến bối cảnh lâm sàng cụ thể. Những bệnh nhân của dưới nhóm này cần được cấy máy chống rung tự động, kiểm soát tình trạng đông máu nếu có bằng chứng huyết khối hoặc nguy cơ tăng đông, kiểm soát nhịp tim và đề phòng đột tử. Cần có các nghiên cứu gien chuyên sâu để xác định mối liên quan bất thường về gien trên dưới nhóm bệnh này. LỜI CẢM ƠN Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn các bác sỹ nội trú tim mạch 39-41, phòng C1, TS.BS. Phan Đình Phong, ThS.BS. Trịnh Việt Hà đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành báo cáo này. CA LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Prevalence, Clinical Significance, and Natural History of Left Ventricular Apical Aneurysms in Hypertrophic Cardiomyopathy Martin S. Maron, MD; John J. Finley, MD; J. Martijn Bos, MD; Thomas H. Hauser, MD, MMSc, MPH; Warren J. Manning, MD; Tammy S. Haas, RN; John R. Lesser, MD; James E. Udelson, MD; Michael J. Ackerman, MD, PhD; Barry J. Maron, MD. Circulation. 2008;118:1541-1549. 2. Progression of hypertrophic cardiomyopathy into a hypokinetic left ventricle: Higher incidence in patients with midventricular obstruction. Fighali S, Krajcer Z, Edelman S, Leachman RDs. J Am Coll Cardiol 1987; 9: 288–294. 3. Hypertrophic Cardiomyopathy With Midventricular Obstruction and Apical Aneurysm A Case Report, Kazumasa Harada, MD; Tatsuya Shimizu, MD; Yasuyuki Sugishita, MD; Atsushi Yao, MD; Jun-ichi Suzuki, MD; Katsu Takenaka, MD; Yasunobu Hirata, MD; Ryozo Nagai, MD; Toshiyuki Takahashi, MD. Jpn Circ J 2001; 65: 915–919. 4. Hypertrophic Cardiomyopathy With Apical Aneurysm Andrey G. Zenovich, MSc; John R. Lesser, MD; Susan A. Casey, RN; Barry J. Maron, MD. Circulation. 2004;110:e450. 5. Genetic testing in management of hypertrophic cardiomyopathy – Fifth in series, An article from the e-journal of the Council for Cardiology Practice. Dr. Slim Kacem, Dr. Ghassen Cheniti Vol.13,N°26 - 21 Jul 2015. with hypertrophic cardiomyopathy without fixed coronary artery obstruction [2]. Thinning and scarring of scar tissue may be due to the following: the midventricular obstruction leads to a high gradient of pressure difference between the bottom of the heart and the left part, leading to chronic ischemia lesions, by time [3]; Chronic myocardial damage may be caused by some aberrant coronary arteries presents inside the myocardial wall and are compressed in the systolic (similar to the myocardial bridging). The onset of VT may be due to coronary thrombosis leads to an acute myocardial infarction condition, enhanced by a scared dyskinesis apical aneurysm; or simply stroked from scarred myocardial area. Recommendation: HCM with apical aneurysm patients should be implanted with D-ICD device, controlled the coagulation condition, taken basic medical treatment with beta-blockers and/or calcium channel blockers. Coronary angiography is important to all these cases to detect either an acute myocardial infarction or abnormal coronary arteries inside the myocardium. Cardiac MRI and echocardiography examinations should be performed repeatedly for definite diagnosis, monitoring and prognosis. Differential diagnosis between Tako-Tsubo disease to this subgroup of HCM should be always taken into account. Consider testing for genes related to HCM: is there one or a group of mutant genes associated with this typical clinical form? [4.5]. Key words: Hypertrophic cardiomyopathy, apical aneurysm of left ventricular, echocardiography, cardiac MRI (CMR).
File đính kèm:
benh_co_tim_phi_dai_vung_day_co_phinh_vung_mom_that_trai_mot.pdf

