Bảo vệ sàn chậu nữ trong thực hành sản khoa
Thiên chức làm mẹ đã mang lại cho người
phụ nữ và gia đình của họ niềm hạnh phúc
vô bờ bến khi có được những thiên thần bé
nhỏ chào đời. Tuy nhiên đằng sau hạnh phúc
đó, người phụ nữ phải đối diện với những
tổn thương sàn chậu từ trong quá trình mang
thai, chuyển dạ và sanh dẫn đến các rối loạn
chức năng sàn chậu như tiêu tiểu không kiểm
soát, rối loạn hoạt động tình dục, sa tạng
vùng chậu, đau vùng chậu mạn tính. Theo
thống kê, 24% phụ nữ có ít nhất một triệu
chứng của rối loạn chức năng sàn chậu, tần
suất này tăng theo tuổi, số lần sanh và tình
trạng béo phì. Bên cạnh đó các tổn thương
ảnh hưởng chức năng sàn chậu trong phẫu
thuật phụ khoa và vùng bụng chậu cũng đặt
ra cho các nhà phụ khoa thách thức cần nắm
rõ giải phẫu và bệnh lý liên quan để tránh
làm tổn thương thêm các cấu trúc và phân
bố thần kinh cho sàn chậu gây các rối loạn
sau này cho người bệnh
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo vệ sàn chậu nữ trong thực hành sản khoa

46 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 Bảo vệ sàn chậu nữ trong thực hành sản khoa Nguyễn Thị Thanh Tâm* * ThS. BS - Bệnh viện Phụ sản MêKông Email: [email protected], ĐT: 01684613838 Giới thiệu Thiên chức làm mẹ đã mang lại cho người phụ nữ và gia đình của họ niềm hạnh phúc vô bờ bến khi có được những thiên thần bé nhỏ chào đời. Tuy nhiên đằng sau hạnh phúc đó, người phụ nữ phải đối diện với những tổn thương sàn chậu từ trong quá trình mang thai, chuyển dạ và sanh dẫn đến các rối loạn chức năng sàn chậu như tiêu tiểu không kiểm soát, rối loạn hoạt động tình dục, sa tạng vùng chậu, đau vùng chậu mạn tính. Theo thống kê, 24% phụ nữ có ít nhất một triệu chứng của rối loạn chức năng sàn chậu, tần suất này tăng theo tuổi, số lần sanh và tình trạng béo phì. Bên cạnh đó các tổn thương ảnh hưởng chức năng sàn chậu trong phẫu thuật phụ khoa và vùng bụng chậu cũng đặt ra cho các nhà phụ khoa thách thức cần nắm rõ giải phẫu và bệnh lý liên quan để tránh làm tổn thương thêm các cấu trúc và phân bố thần kinh cho sàn chậu gây các rối loạn sau này cho người bệnh. Việc hạn chế tối đa và dự phòng các tổn thương sàn chậu trong thực hành sản phụ khoa đóng vai trò thiết yếu trong giảm tỷ lệ bệnh, nâng cao chất lượng cuộc sống người bệnh. Các cấu trúc giải phẫu sàn chậu bị tổn thương trong quá trình mang thai và sanh Hệ thống cơ nâng hậu môn: nhóm cơ nâng hậu môn đóng vai trò chính về chức năng trong việc đóng mở và kiểm soát theo ý muốn của đường tiểu, tiêu hóa dưới và sinh dục. Cơ nâng hậu môn gồm hai loại sợi cơ: sợi chậm góp 70% trương lực cơ, và sợi nhanh góp 30% trương lực cơ nâng hậu môn khi nghỉ và chịu trách nhiệm kìm giữ nước tiểu, hơi, phân khi có tăng áp lực ổ bụng đột ngột như ho, hắt hơi, cười, mang vác nặng, chạy, nhảy. Việc rèn luyện cơ sàn chậu bằng các phương pháp vật lý trị liệu tập trung chủ yếu vào hai loại sợi cơ trên và 3 nhóm cơ chính của cơ nâng hậu môn giúp cải thiện và điều trị hiệu quả các triệu chứng rối loạn chức năng sàn chậu như: tiêu tiểu không kiểm soát, tiểu khó, Hình 1. Cấu trúc giải phẫu cơ thắt hậu môn. Phân loại rách tầng sinh môn độ 3 – 4 (RCOG và ICS): độ 3a rách < 50% bó cơ thắt ngoài, 3b rách > 50% bó cơ thắt ngoài nhưng cơ thắt trong còn nguyên, 3c rách đến cơ thắt trong hậu môn nhưng chưa đến niêm mạc trực tràng, 4 rách vào lòng trực tràng. 47 TỔNG QUAN Y VĂN táo bón, sa tạng vùng chậu, rối loạn cảm giác và hoạt động tình dục, đau vùng chậu mạn tính liên quan đến cân cơ vùng sàn chậu . Cơ thắt hậu môn gồm hai phần: cơ thắt trong và cơ thắt ngoài hậu môn. Cơ thắt trong hậu môn là cơ trơn, tạo bởi bó cơ vòng trong của cơ thành trực tràng, hoạt động không tự ý, tạo nên 70% trương lực ống hậu môn. Khi cơ thắt trong bị tổn thương, người bệnh sẽ có biểu hiện tiêu gấp, són hơi, són phân dạng nước, dát phân mỏng. Cơ thắt ngoài hậu môn là cơ vân thực sự, hoạt động theo ý, tạo nên 30% trương lực ống hậu môn, đóng vai trò quan trọng trong việc cầm giữ hơi, phân trong hoàn cảnh không thuận lợi hoặc khi có tăng áp lực ổ bụng đột ngột. Hoạt động cơ thắt hậu môn được chi phối bởi thần kinh thẹn. Các cấu trúc nâng đỡ cơ quan vùng chậu Sự nâng đỡ và treo các cơ quan vùng chậu phụ thuộc vào các cơ vân, mô kiên kết đáy chậu, sự bám dính của cơ và mô liên kết vào xương chậu qua các mạc chậu. Cơ nâng hậu môn tạo nên các thành phần của hoành chậu và cơ mu bàng quang. Sợi cơ loại 1 (sợi chậm) của cơ này giúp giữ trương lực cơ lúc nghỉ và sợi loại 2 (sợi nhanh) có thể chịu với áp lực và vì vậy nó giúp giữ việc đóng niệu quản và chống lại sự kéo căng của các dây chằng vùng chậu. DeLancey đã mô tả sự nâng đỡ của âm đạo qua ba mức. - Mức I bao gồm cổ tử cung và một phần ba trên âm đạo, chúng được treo vào thành chậu gần như thẳng đứng bởi tấm mô liên kết được gọi là mô quanh âm đạo, bao gồm dây chằng tử cung cùng. Khi sự nâng đỡ ở tầng này bị mất sẽ dẫn đến sa tử cung và vòm âm đạo. - Mức II bao gồm một phần ba giữa âm đạo được gắn từng bên với thành chậu bởi những tấm cân nằm ngang giữa bàng quang và trực tràng, chúng bao gồm cân mu cổ tử cung và cân trước trực tràng gắn từng bên với cung gân cân đáy chậu và lớp cân trên của cơ nâng hậu môn. Khi sự nâng đỡ ở tầng này bị mất sẽ dẫn đến sa bàng quang và sa trực tràng. - Mức III bao gồm một phần ba dưới âm đạo được gắn trực tiếp với các cấu trúc xung quanh, phía trước hòa lẫn với niệu đạo, phía sau với đáy chậu và hai bên với cơ nâng hậu môn. Ở những phụ nữ tiểu có kiểm soát, khi tăng áp lực ổ bụng thì niệu đạo được nâng đỡ bởi các tổ chức gắn kết bên của nó và được chống đỡ phía dưới bởi thành trước âm đạo và cân đáy chậu.1 Tổn thương cấu trúc sàn chậu trong thực hành sản khoa và các biện pháp dự phòng Cơ nông tầng sinh môn Cắt tầng sinh môn hiện nay không được khuyến cáo như một thực hành thường quy khi sanh ngả âm đạo vì điều này làm tăng nguy cơ đau tầng sinh môn, dị cảm, giao hợp đau kéo dài sau sanh. Cắt tầng sinh môn phải đúng chỉ định, đúng thời điểm và đúng kỹ thuật. - Cắt tầng sinh môn khi: + Cần lấy thai nhanh qua ngả âm đạo trong trường hợp có biểu hiện suy thai để hồi sức sơ sinh kịp thời + Giúp sinh. - Thời điểm cắt tầng sinh môn thích hợp là khi đầu thai cúi tì dưới xương vệ để chuẩn bị sổ ra ngoài, tầng sinh môn căng mỏng đi, các cơ nông dạt sang hai bên, lỗ hậu môn nở tối đa. - Góc cắt từ 45 đến 60 độ theo đường đứng dọc giữa qua vị trí 6g mép sau màng trinh, cắt đủ dài và sâu để tránh bị rách thêm ra ngoài đường cắt. Cơ nâng hậu môn và thần kinh thẹn Về lý thuyết, khi các cơ vân kéo căng gấp 2 lần chiều dài cơ đều khó tránh khỏi bị đứt rách. Cơ nâng hậu môn bị kéo căng gấp 3,3 lần trong quá trình sanh và tổn thương trong 13-36% trường hợp sanh ngả âm đạo dẫn tới giảm sức mạnh của cơ sàn chậu, tăng bề rộng khe niệu dục, sa tạng vùng chậu, tiêu 48 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014 tiểu không kiểm soát. Các yếu tố góp phần tổn thương cơ nâng hậu môn trong quá trình sanh như sanh kềm làm tăng 3,4 lần nguy cơ, chuyển dạ giai đoạn 2 kéo dài > 110 phút tăng nguy cơ 2,27 lần, chu vi đầu thai lớn hơn 35,5cm tăng nguy cơ 3,34 lần, những phụ nữ bị tiểu không kiểm soát khi gắng sức trước sanh cũng tăng nguy cơ 3,1 lần sau sanh. Mặc dù ở những phụ nữ có hoạt động co cơ nâng hậu môn sau sanh bình thường, nhưng qua siêu âm vẫn phát hiện 16,1% tổn thương cơ nâng hậu môn. Trong trường hợp cơ nâng hậu môn hoạt động co yếu hoặc không hoạt động thì siêu âm phát hiện 53,8% tổn thương. Tổn thương diện lớn cơ nâng hậu môn dẫn đến sự nâng đỡ kém cho các tạng vùng chậu, không chỉ tăng nguy cơ sa các tạng này mà còn tăng nguy cơ sa tái phát sau mổ như: - Sau phẫu thuật cắt tử cung vì sa tử cung từ độ 2 trở lên, nguy cơ tái phát tăng 5,99 lần. - Sau phẫu thuật tiểu không kiểm soát hoặc sa tạng vùng chậu, nguy cơ tái phát tăng 4,35 lần. - Sau sửa thành trước, nguy cơ tái phát tăng 3,37 lần - Sau phẫu thuật treo tử cung, nguy cơ tái phát tăng 4,33 lần. Để dự phòng các tổn thương cơ nâng hậu môn trong quá trình mang thai, chuyển dạ sanh, các phẫu thuật phụ khoa và điều trị rối loạn chức năng sàn chậu chúng ta cần chú ý đến vai trò của tập luyện cơ sàn chậu trước sanh (Kegel), massage cơ sàn chậu vào 4 tuần cuối thai kỳ (từ 35 tuần), tránh để chuyển dạ giai đoạn 2 kéo dài trên 1 giờ, thận trọng với chỉ định và kỹ thuật giúp sanh bằng kềm, tiếp tục hướng dẫn người bệnh duy trì tập luyện cơ sàn chậu sớm ngay từ những ngày đầu sau sanh, sau phẫu thuật 2,3. Cơ thắt hậu môn Tổn thương cơ thắt trong và ngoài hậu môn trong quá trình sanh được phân tích thành 3 cơ chế chính: tổn thương trực tiếp thường gặp trong rách tầng sinh môn độ 3 – 4, tổn thương thần kinh thẹn do chèn ép đầu thai, chuyển dạ giai đoạn 2 kéo dài hoặc thần kinh thẹn bị kéo căng kéo dài sau sanh do trương lực cơ sàn chậu yếu, dạng phối hợp cả hai cơ chế trên. Các đường cắt tầng sinh môn có nguy cơ gây tổn thương cơ thắt hậu môn như: quá ngắn, góc cắt > 60 độ hoặc < 15 độ, cắt không đủ sâu (qua lớp cơ). Một phân tích gộp tại Anh cho thấy 27% phụ nữ sanh con so và 8,5% phụ nữ sanh con rạ bị tổn thương cơ thắt hậu môn qua khám lâm sàng, tuy nhiên 70% trường hợp tổn thương cơ thắt hậu môn không biểu hiện triệu chứng rối loạn nào. Tổn thương cơ thắt kéo dài không được phục hồi hoặc không hồi phục tự nhiên dẫn tới triệu chứng tiêu không kiểm soát về sau ở 21% phụ nữ sinh con so và 5% phụ nữ sinh con rạ.4 Việc thăm khám trực tràng đánh giá cơ thắt hậu môn sau sanh thường quy và được thực hiện bởi bác sĩ có kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng trong phát hiện sớm tổn thương cơ thắt hậu môn để có kế hoạch phục hồi giải phẫu chức năng cơ thắt và theo dõi sau sanh, cũng như chuẩn bị cho lần mang thai và sanh sau. Các bác sĩ tham gia khâu phục hồi cơ thắt hậu môn cũng cần được huấn luyện cách khâu đúng kỹ thuật như phục hồi riêng cơ thắt trong hậu môn và dùng mũi Overlap, chỉ tan chậm, sức căng tốt (ví dụ: chỉ PDS) đối với cơ thắt ngoài hậu môn. Khi so sánh giữa khâu phục hồi cơ thắt ngoài hậu môn bằng mũi End-to-End kinh điển với mũi Overlap các nhà nghiên cứu nhận thấy, tỷ lệ khuyết cơ thắt trên siêu âm với kỹ thuật End-to-End là 85% so với Overlap 15%, tỷ lệ són hơi 42% so với 8% và són phân nhiều hơn ở kỹ thuật End-to-End.5 Nghiên cứu tiền cứu của tác giả Katariina Laine năm 2012 tại Na - Uy trên 31.709 sản phụ gồm hai giai đoạn: giai đoạn không có chương trình tập huấn bảo vệ tầng sinh môn lúc sanh từ năm 2003–2005 và giai đoạn áp dụng chương trình bảo vệ từ năm 2008–2010 (trong thì sổ đầu thai, người đỡ sanh dùng một tay áp lên đầu thai nhi để sổ đầu thai từ từ, tay còn lại chẹn lên vùng tầng sinh môn theo đường cắt bên, hướng về đường giữa nhằm giảm lực tác động và tránh rách sang đường giữa. Cắt tầng sinh môn đúng lúc và đúng chỉ định đã giảm 50% tỷ suất mới mắc tổn thương cơ thắt hậu môn khi 49 TỔNG QUAN Y VĂN sanh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (4% xuống 1,9%).6 Trong bài tổng quan của tác giả Andrea Lemos trên 675 phụ nữ mang thai cho thấy việc tập luyện cơ sàn chậu trong thai kỳ có hiệu quả ngăn ngừa tiểu không kiểm soát trong khoảng từ 6 tuần đến 3 tháng sau sanh.7 Các khuyến cáo thực hành lâm sàng nhằm hạn chế tổn thương cơ thắt hậu môn và tiêu không kiểm soát:8 - Tránh gây tổn thương cơ thắt hậu môn khi sanh là yếu tố lớn nhất trong việc dự phòng tiêu không kiểm soát ở phụ nữ (A). - Bất cứ dạng giúp sanh nào cũng làm tăng nguy cơ tổn thương cơ thắt và tiêu không kiểm soát từ 2 đến 7 lần (A). - Cắt tầng sinh môn không nên thực hiện thường quy (A). - Cắt tầng sinh nên được cân nhắc trường hợp cần cho sanh nhanh cấp cứu (A). - Đường cắt tầng sinh môn chéo bên nên sử dụng thay đường giữa do nguy cơ tổn thương cơ thắt hậu môn sau sanh (A). - Cơ thắt trong hậu môn nên được phục hồi riêng khi bị rách (A). - Phụ nữ bị tổn thương tới cơ thắt trong hoặc niêm mạc trực tràng có tiên lượng xấu về kiểm soát hơi, phân trong tương lai (A). Tất cả phụ nữ đặc biệt người có nguy cơ tổn thương cơ thắt hậu môn phải được theo dõi các triệu chứng tiêu không kiểm soát trong thời kỳ hậu sản (C). Bàng quang kém hoạt động sau sanh Tình trạng bàng quang kém hoạt động sau sanh dẫn đến việc tiểu tồn lưu, tiểu khó, bí tiểu sau sanh. Theo nghiên cứu năm 1994 thì 1,7 – 17% phụ nữ không thể làm trống bàng quang dược sau sanh. Tuy vậy nếu không được xử trí thích hợp thì chỉ có 1% những phụ nữ này cải thiện tự nhiên sau đó. Mặc dù sau mổ lấy thai, thông tiểu được lưu 12g – 24g nhưng vẫn có 3,38% phụ nữ gặp khó khăn trong việc làm trống bàng quang sau rút thông tiểu. Gây tê ngoài màng cứng giảm đau trong chuyển dạ (chiếm 27% các ca sanh) và gây tê tủy sống để mổ lấy thai là hai phương pháp vô cảm được ứng dụng nhiều hiện nay. Tuy nhiên hai phương pháp này làm giảm cảm giác bàng quang (trong vòng 10 giờ sau mổ lấy thai và 6 giờ sau sanh ngả âm đạo) khiến người bệnh không cảm nhận được bàng quang đầy, dẫn đến thành bàng quang căng dãn quá mức, bàng quang co bóp kém và tiểu tồn lưu nên cần thông tiểu lưu.9 Kết luận Các tổn thương sàn chậu luôn rình rập trong các cuộc sanh gây ra các rối loạn chức năng sàn chậu ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của phụ nữ sau đó. Vai trò của những nhà thực hành sản khoa hết sức quan trọng trong việc tiên lượng các yếu tố nguy cơ để chọn phương pháp sanh và kỹ thuật sanh cho phù hợp, đánh giá cẩn thận và phục hồi tốt các tổn thương sàn chậu xảy ra để hạn chế tối đa những bệnh lý sàn chậu mà người phụ nữ phải chịu đựng dai dẳng về sau ■ Tài liệu tham khảo 1. Ashton-Miller JA, DeLancey JO. Functional anatomy of the female pelvic floor. Annals of the New York Academy of Sciences. 2007;1101:266-96. 2. Heit M, Mudd K, Culligan P. Prevention of childbirth injuries to the pelvic floor. Current women’s health reports. 2001;1(1):72-80. Epub 2002/07/13. 3. Aasheim V, Nilsen AB, Lukasse M, Reinar LM. Perineal techniques during the second stage of labour for reducing perineal trauma. The Cochrane database of systematic reviews. 2011(12):CD006672. 4. Oberwalder M, Connor J, Wexner SD. Meta-analysis to determine the incidence of obstetric anal sphincter damage. The British journal of surgery. 2003;90(11):1333- 7. 5. Fernando RJ, Sultan AH, Kettle C, Thakar R. Methods of repair for obstetric anal sphincter injury. The Cochrane database of systematic reviews. 2013;12:CD002866. 6. Laine K, Skjeldestad FE, Sandvik L, Staff AC. Incidence of obstetric anal sphincter injuries after training to protect the perineum: cohort study. BMJ open. 2012;2(5). 7. Lemos A, de Souza AI, Ferreira AL, Figueiroa JN, Cabral- Filho JE. Do perineal exercises during pregnancy prevent the development of urinary incontinence? A systematic review. International journal of urology : official journal of the Japanese Urological Association. 2008;15(10):875- 80. 8. Power D, Fitzpatrick M, O’Herlihy C. Obstetric anal sphincter injury: how to avoid, how to repair: a literature review. The Journal of family practice. 2006;55(3):193- 200. 9. Panayi DC, Khullar V. Urogynaecological problems in pregnancy and postpartum sequelae. Current opinion in obstetrics & gynecology. 2009;21(1):97-100.
File đính kèm:
bao_ve_san_chau_nu_trong_thuc_hanh_san_khoa.pdf