Bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gốm sứ Arita (Nhật Bản)

Nằm ở phía Tây của tỉnh Saga, Arita là cái nôi của công nghiệp sản xuất gốm sứ Nhật Bản. Sau

khi tiếp nhận kỹ thuật tiên tiến từ Trung Quốc qua con đường Triều Tiên, đã có thời gian dài Arita mô

phỏng hoàn toàn theo các sản phẩm sứ Trung Quốc. Qua nhiều lần cải tiến kỹ thuật, cùng với những

lợi thế của từng địa phương trong khu vực, Arita đã dần dần cải biến, dung nhập những yếu tố ngoại lai

và thực sự thành công trong kỹ thuật chế tác để đưa ra các sản phẩm thực sự tinh tế của mình. Trải qua

hơn 400 năm lịch sử hình thành và phát triển, cùng chính sách bảo tồn nghề thủ công truyền thống

của Nhật Bản, sản phẩm sứ Arita đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiêu thụ trong nước và có chỗ đứng

trên thị trường thế giới.

pdf 10 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gốm sứ Arita (Nhật Bản)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gốm sứ Arita (Nhật Bản)

Bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gốm sứ Arita (Nhật Bản)
19Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGHỀ THỦ CÔNG 
TRUYỀN THỐNG GỐM SỨ ARITA (NHẬT BẢN)
NGUYỄN THỊ LAN ANH* 
Tóm tắt
Nằm ở phía Tây của tỉnh Saga, Arita là cái nôi của công nghiệp sản xuất gốm sứ Nhật Bản. Sau 
khi tiếp nhận kỹ thuật tiên tiến từ Trung Quốc qua con đường Triều Tiên, đã có thời gian dài Arita mô 
phỏng hoàn toàn theo các sản phẩm sứ Trung Quốc. Qua nhiều lần cải tiến kỹ thuật, cùng với những 
lợi thế của từng địa phương trong khu vực, Arita đã dần dần cải biến, dung nhập những yếu tố ngoại lai 
và thực sự thành công trong kỹ thuật chế tác để đưa ra các sản phẩm thực sự tinh tế của mình. Trải qua 
hơn 400 năm lịch sử hình thành và phát triển, cùng chính sách bảo tồn nghề thủ công truyền thống 
của Nhật Bản, sản phẩm sứ Arita đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiêu thụ trong nước và có chỗ đứng 
trên thị trường thế giới.
Từ khóa: Gốm sứ Arita, gốm sứ Nhật Bản, nghề thủ công truyền thống, bảo tồn, phát triển
Abstract
Located in the western part of Saga province, Arita is the cradle of Japanese porcelain industry. After 
receiving advanced technology from China via the Korean route, Arita had fully simulated of Chinese 
porcelain products for a long time. Through many technical improvements, along with the advantages 
of each locality of the region, Arita has gradually transformed, tolerated foreign elements and been 
really successful in manipulating techniques to produce truly exquisite products. Over 400 years of 
history of formation and development, together with the policy of preserving traditional crafts of 
Japan, porcelain products of Arita have dominated the domestic market and gained a stable position 
in the world market.
Keywords: Arita ceramics, Japanese ceramics, traditional handicraft, conservation, development
Nghề sản xuất gốm sứ của Nhật Bản bắt đầu cách đây hơn 400 năm tại phía tây bắc quần đảo Kyushu, 
Nhật Bản. Gốm sứ Nhật Bản gắn liền với các 
mốc quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Cho 
đến thời Trung thế (thời kỳ Momoyama), phần 
lớn các lò sản xuất ở Nhật Bản đều là lò sản xuất 
gốm. Các dụng cụ bằng sứ được sử dụng trong 
sinh hoạt hàng ngày hầu hết là nhập khẩu từ 
Trung Quốc. Khi kỹ thuật phát triển, sứ mới bắt 
đầu được sản xuất, các sản phẩm tráng men và 
nung ở nhiệt độ cao được thực hiện, khởi đầu 
cho công nghiệp sản xuất sứ. So với các nước 
trong khu vực, Trung Quốc là nước có lịch sử 
sản xuất sứ lâu đời và nếu tính ở thời điểm thế 
kỷ thứ XV thì Triều Tiên, Việt Nam cũng đã sở 
hữu kỹ thuật sản xuất sứ và đã có những sản 
phẩm nhất định tiêu biểu của mình. Tuy ra đời 
muộn hơn một số nước trong khu vực, nhưng 
sứ Nhật Bản nói chung, sứ Arita nói riêng đã có 
những bước tiến nổi bật mà không phải quốc 
gia nào cũng đạt được. * TS., Khoa Tiếng Nhật, Trường Đại học Hà Nội
Số 31 (Tháng 3 - 2020)20
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Bốn trăm năm phát triển của gốm sứ Arita
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 
Arita là thị trấn nằm ở phía tây bắc tỉnh 
Saga, thuộc quần đảo Kyushu, với diện tích 
khoảng 65,85km2. Phía bắc tiếp giáp với thành 
phố Imari, phía đông tiếp giáp với thành phố 
Takeo, phía nam tiếp giáp với thị trấn Hasami 
(tỉnh Nagasaki), phía tây tiếp giáp với thành 
phố Sasebo (tỉnh Nagasaki)1. Thị trấn Arita 
được Nhà nước công nhận danh hiệu “Khu 
phố kiến trúc truyền thống” vào năm 1991, hiện 
có 157 ngôi nhà được xếp vào di sản truyền 
thống của quốc gia và được trao danh hiệu 
“ngôi nhà có kiến trúc truyền thống”, 130 ngôi 
nhà đạt danh hiệu “thân thiện với môi trường” 
[5, tr.121]. 
Là quần đảo nằm gần với bán đảo Triều 
Tiên, nên từ sớm Kyushu đã tiếp nhận văn hóa 
từ đại lục qua con đường Triều Tiên và cũng đã 
tiếp nhận kỹ thuật sản xuất sứ. Thời gian này, 
các lò gốm sứ hoạt động riêng lẻ, không chính 
thức. Đến cuối thế kỷ thứ XVI, các lò sản xuất 
mới chính thức đi vào hoạt động. 
Theo kết quả điều tra khảo cổ học giai 
đoạn 1965 - 1970 tại lò nung Tengudanikoyo, 
các nhà khảo cổ đã làm sáng tỏ nhận định là 
giai đoạn trước năm 1616, các lò nung đã sản 
xuất đồng thời cả gốm và sứ với nhiều nguyên 
liệu và phương pháp khác nhau. Năm 1616, 
một dấu mốc quan trọng của Arita khi nghệ 
nhân Ri Sampei2 đã tìm thấy nguồn đất cao 
lanh chất lượng tốt tại vùng núi Izumi-yama và 
Arita đã trở thành tâm điểm bắt đầu sản xuất 
sứ của Nhật Bản. (Sau này, Ri Sampei được tôn 
vinh là “ông tổ của nghề gốm sứ” và hiện nay 
ngôi đền thờ ông vẫn được bảo tồn tại thị trấn 
Arita). Thời gian này, Arita thuộc quản lý của 
phiên Saga3 (Saga-han) và được công nhận là 
khu phố sản xuất sứ chính thức với tên gọi là 
Arita-Sengen4.
Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, Arita tiếp 
nhận và bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ kỹ thuật 
cũng như thiết kế của Trung Quốc thông qua 
con đường Triều Tiên. Không chỉ Arita mà các 
vùng lân cận như Hasami, Mikawachi (tỉnh 
Nagasaki) cũng tiếp nhận và đồng hành phát 
triển cùng Arita. Qua nhiều năm cải tiến kỹ 
thuật, Arita đã phát triển đến đỉnh cao và đến 
cuối thế kỷ XVIII đã xóa bỏ hoàn toàn bóng 
dáng gốm sứ Trung Quốc trong sản phẩm của 
mình.
Năm 1828, do sự cố hỏa hoạn ở Arita nên 
toàn bộ sử sách, tài liệu đã bị đốt cháy. Vì vậy, 
hầu như không còn các tài liệu liên quan đến 
gốm sứ Arita từ trước thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ 
XIX. Các nhà nghiên cứu, khảo cổ học đã tìm lại 
các tư liệu có ghi chép tại phiên Nabeshima5, 
các tài liệu buôn bán như “sổ kinh doanh”, 
“Nhật ký” buôn bán của công ty Đông Ấn Hà 
Lan6 (gọi tắt là VOC), giấy tờ của thương nhân 
Trung Hoa để làm sáng tỏ thời gian bắt đầu và 
thời gian kết thúc xuất khẩu của gốm sứ Nhật 
Bản. Theo sử liệu, những năm 1630, do có sự 
biến động chính trị trong nước, ngành sản 
xuất gốm sứ Trung Quốc bị ảnh hưởng nặng 
nề, đặc biệt là lò gốm Cảnh Đức Trấn7. Hơn nữa, 
cùng với chính sách “hải cấm” của Nhà Minh 
khiến cho gốm sứ Trung Quốc vắng bóng trên 
thị trường khu vực và quốc tế. Trước nhu cầu 
ngày càng gia tăng của thị trường, công ty 
VOC đã đặt hàng và chấp nhận sản phẩm gốm 
sứ Hizen8 Nhật Bản thay thế cho gốm sứ Trung 
Quốc. Thời gian này, các sản phẩm của sứ Arita 
cũng đã dần gặt hái được nhiều thành công 
trong quá trình cải tiến kỹ thuật sản xuất, mẫu 
mã và năm 1647 đánh dấu bước ngoặt lớn cho 
gốm sứ Nhật Bản, đặc biệt sản phẩm gốm sứ 
được sản xuất trong lãnh địa Hizen đã có mặt 
trên thị trường khu vực và quốc tế. Năm 1659, 
số lượng gốm sứ xuất khẩu tăng vượt bậc và 
đỉnh cao là giai đoạn 1660 - 1670. Năm 1684, 
giai đoạn gốm sứ Arita nói riêng, gốm sứ Hizen 
nói chung gặp nhiều bất lợi khi Trung Quốc ổn 
định chính trị và quay lại thị trường buôn bán. 
Giá thành sản phẩm khi xuất khẩu cũng là một 
trong những nguyên nhân chính khiến gốm 
sứ Arita không thể cạnh tranh được so với giá 
cả của gốm sứ Trung Quốc [6, tr.25].
Cùng với việc mất đi số lượng xuất khẩu 
ra thị trường thế giới, các thương nhân Arita 
và các vùng lân cận đã cố gắng đưa sản phẩm 
của địa phương đến với các vùng khác trong 
cả nước. Nhu cầu tiêu dùng của thị trường 
trong nước tăng cao, cùng với sự trưởng 
thành trong kỹ thuật sản xuất nên các thương 
nhân từ nhiều vùng khác nhau cũng đã trực 
tiếp đến Arita để mua và vận chuyển gốm sứ 
21Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sang các địa phương trên cả nước [5, tr.37-39). 
Song song với việc cải tiến kỹ thuật để giảm 
giá thành sản phẩm, thiết kế mẫu mã cho phù 
hợp với người tiêu dùng trong nước, các dòng 
gốm sứ cao cấp thế kỷ XVIII đã được dùng phổ 
biến trong đời sống của nhân dân trong thế kỷ 
XIX, đánh dấu sự phát triển thịnh vượng của 
văn hóa ẩm thực Nhật Bản. Ngày nay, văn hóa 
ẩm thực Nhật Bản được công nhận là di sản 
văn hóa phi vật thể và gốm sứ Arita đóng góp 
một vai trò lớn trong kỳ tích này.
Có thể tóm tắt quá trình phát triển các 
dòng sản phẩm của sứ của Arita như sau:
Imari sơ kỳ: Dòng sản phẩm đời đầu với 
hoa lam đơn sắc trên nền sứ trắng, được gọi là 
sứ trắng vẽ lam (hay còn gọi là sứ hoa lam). Sản 
phẩm sứ sản xuất ra hầu hết là dụng cụ dùng 
cho sinh hoạt hàng ngày như bát, đĩa, cốc chén 
với các họa tiết đơn giản, nhẹ nhàng [3, tr.11]. 
Thời kỳ này chưa có kỹ thuật trang trí họa tiết 
màu nên hầu hết các sản phẩm đều có điểm 
chung như đế cốc, đĩa cao và nhỏ, họa tiết 
được trang trí phía trong mặt sản phẩm, còn 
phía ngoài để sứ trơn. Cốt sứ dày, đường nét 
trang trí họa tiết trên sản phẩm khá to, không 
thanh mảnh nhưng đem lại vẻ đẹp mộc mạc 
của sản phẩm thời kỳ này. Theo sử liệu, vào 
khoảng cuối thời kỳ Asuka (thế kỷ VII), người 
Nhật rất ưa chuộng đồ gốm từ Trung Quốc nên 
số lượng không nhỏ gốm sứ Trung Quốc được 
nhập vào Nhật Bản. Người Nhật rất quan tâm 
đến đồ gốm sứ màu xanh và trắng của Trung 
Quốc thời Minh (1368 - 1644) và của bán đảo 
Triều Tiên thời Cao Ly. Có lẽ vì thế, để đáp ứng 
nhu cầu của thị trường trong nước, sản phẩm 
sứ Arita giai đoạn này mang phong cách hoàn 
toàn giống với sứ Trung Hoa.
Sứ màu Kokutani: Giai đoạn 1640 - 1650, 
Nhật Bản đã bắt đầu phát triển kỹ thuật trang 
trí họa tiết màu và sứ màu Kokutani là sản 
phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sơ kỳ này. Khác 
với Imari sơ kỳ, dòng sản phẩm này đã chú 
trọng hơn đến họa tiết phía mặt ngoài của sản 
phẩm, đáy bát, cốc, chén cao và rộng hơn. Bên 
cạnh đó, cốt sứ mỏng và trắng sáng hơn so với 
thời kỳ đầu [3, tr.11]. 
Kakiemon: Từ năm 1670, một tiến bộ vượt 
bậc trong quá trình phát triển của sứ Arita, là 
sản phẩm sứ màu với tên gọi Kakiemon ra đời. 
Không chỉ tiếp thu đơn thuần các kỹ thuật cơ 
bản từ Trung Quốc, Arita đã từng bước phát 
triển dựa trên điểm mạnh của các vùng sản 
xuất để đưa ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu 
người tiêu dùng trong nước và nước ngoài, 
tạo một bước ngoặt lớn cho gốm sứ Nhật Bản. 
Kakiemon được biết đến là sản phẩm có họa 
tiết màu như đỏ, xanh, vàng, lam được trang trí 
trên nền sứ trắng sáng. Sứ Kakiemon đạt đến 
sự bóng láng tuyệt hảo, màu men trắng bóng 
mờ như màu ngọc. Họa tiết của sản phẩm này 
không đơn thuần là sao chép ý tưởng họa tiết 
từ gốm sứ Cảnh Đức Trấn nữa mà đã mang 
đậm phong cách Nhật Bản trong từng chi 
tiết tỉ mỉ của họa tiết trên bề mặt sản phẩm. 
Dòng sản phẩm Kakiemon không chỉ được ưa 
chuộng trong nước mà ngay cả các tầng lớp 
quý tộc nước ngoài cũng đánh giá rất cao. Đặc 
biệt, dòng sản phẩm Kakiemon đã được lấy 
làm mẫu để sản xuất tại một số lò gốm sứ ở 
Âu, Mỹ, tiêu biểu là lò Meisei (Đức) [3, tr.12].
Nabeshima: Cuối những năm 1650, với 
vai trò là quà tặng cho tầng lớp quý tộc, sản 
phẩm sứ màu Nabeshima ra đời với những họa 
tiết tinh tế thu hút người dùng. Các họa tiết 
đỏ, vàng, xanh được trang trí trên nền sứ hoa 
lam. Dòng sản phẩm Nabeshima được mệnh 
danh là “gốm sứ quý tộc” hay “sản phẩm dành 
cho sức khỏe”. Họa tiết của Nabeshima như 
một bức tranh khắc họa đủ thời khắc của mùa 
xuân, hạ, thu, đông. Đặc trưng của dòng sản 
phẩm này là đế cao, vành chân đế cũng được 
trang trí bởi các đường viền màu xanh hoặc 
màu chàm.
Ko-Imari Kirande: Dòng sản phẩm Kirande 
(Hình 5) được sản xuất từ khoảng cuối những 
năm 1690. Sản phẩm nhận nhiều ảnh hưởng từ 
dòng Kirande của gốm sứ Cảnh Đức Trấn thời 
Minh, nhưng sau đó Arita đã kết hợp phong 
cách Nhật Bản vào trong các họa tiết của sản 
phẩm tạo ra nét khác biệt độc đáo. Thời gian 
đầu, Kirande được sản xuất nhằm đáp ứng nhu 
cầu của thị trường châu Âu nhưng về sau này 
Kirande được dùng phổ biến trong mọi tầng 
lớp cả ở thị trường Nhật Bản. Hoa văn họa tiết 
của sản phẩm được dùng với các màu sắc tươi 
sáng như đỏ, vàng và được trải đều trên bề 
mặt sản phẩm. Đến thời Minh Trị, Kirande đã 
Số 31 (Tháng 3 - 2020)22
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
cho ra thị trường nhiều sản phẩm với mẫu mã 
được ưa chuộng và đánh giá cao. 
Các nhà nghiên cứu lịch sử trà đạo đã từng 
đánh giá rằng với kỹ thuật và mẫu mã sản 
phẩm thì sứ màu Nabeshima và Kakiemon 
là niềm tự hào của gốm sứ Arita. Ngoại trừ 
Kakiemon và Nabeshima, tính đến thời Cận 
thế, các dòng còn lại của Arita đều được gọi 
với tên Ko-Imari. Theo ghi chép trong cuốn 
“Lịch sử thành phố Arita”, từ giai đoạn 1760 - 
1820, hầu hết các sản phẩm mang phong cách 
Trung Hoa đã không hiện diện nữa, mà thay 
vào đó, hoa văn họa tiết của Arita mang đậm 
phong cách Nhật Bản. Họa tiết trên sản phẩm 
được sử dụng là những họa tiết đơn giản, gần 
gũi với cuộc sống thường nhật của người dân 
[1, tr.210].
Năm 2016, kỷ niệm 400 năm gốm sứ Arita, 
hàng loạt các sự kiện “lễ hội gốm sứ Arita” được 
tổ chức để giới thiệu kỹ thuật sản xuất từ quá 
khứ đến hiện tại, các dòng sản phẩm từ bình 
dân đến cao cấp của dòng gốm sứ này.
1.2. Nghệ nhân 
Hiệp hội nghệ nhân gốm sứ Arita được 
thành lập từ năm 1981 với mục đích kế thừa và 
phát huy kỹ thuật sản xuất truyền thống của 
gốm sứ Arita. Theo ghi chép của Hiệp hội, từ 
khi thành lập đến nay, hiệp hội đã quy tụ 54 
nghệ nhân có tay nghề cao của nghề truyền 
thống Arita. Chủ tịch hiệp hội là nghệ nhân 
Imaemon Kakiemon (1962) - người được công 
nhận danh hiệu nghệ nhân bảo tồn di sản văn 
hóa phi vật thể vào năm 2014. Ngoài ra, ông 
còn nhận được nhiều giải thưởng ở các năm 
1998, 2004, 2008, 2009 và 2012. 53 thành viên 
còn lại như Manji Inoue (1929) - danh hiệu 
nghệ nhân quốc gia năm 1995 và đã nhận 
giải thưởng các năm 1967, 1987, 1993, 1999, 
2002, 2003; Ken Shomura (1949) được công 
nhận nghệ nhân quốc gia năm 1969 và năm 
1996, ông đã nhận được danh hiệu bàn tay 
vàng. Ngoài ra, ông còn nhận các giải thưởng 
danh giá khác ở các năm 1981, 1983, 1988, 
1996. Các nghệ nhân khác như Yasunori Inoue 
(1958) nhận giải thưởng các năm 1988, 2002, 
2007, 2009, 2011); Toshio Shimada (1946) nhận 
giải thưởng các năm 1981, 1984, 1986, 1993, 
2003 Bên cạnh thế hệ nghệ nhân có bề dày 
kinh nghiệm còn có một số thợ gốm trẻ cũng 
đã theo đuổi học nghề để được công nhận 
nghệ nhân, bước vào sự nghiệp gìn giữ và bảo 
tồn nghề truyền thống của nước nhà. Trong 
đó, phải kể đến một số nghệ nhân trẻ tiêu 
biểu như Yashimitsu Ogawa (1975) đã nhận 
giải thưởng năm 2007, 2013; Yasuo Nakashima 
(1968) vinh dự 9 lần nhận giải thưởng cao tại 
các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 
2009; Makoto Nakamura (1975) nhận giải 
thưởng năm 2014, 2017; Hisaki Somura (1974) 
nhận giải thưởng các năm 2002, 2004, 2011, 
2016... Có thể nhận thấy sự tiếp nối nghề 
truyền thống của gia đình, nhiều gia đình có 
ba đời được ghi danh tại các cuộc thi và có 
đóng góp nhất định cho công cuộc bảo tồn và 
phát triển nghề truyền thống của địa phương. 
1.3. Sản phẩm và thị trường 
Mặt hàng chủ yếu của gốm sứ Arita là bát 
đĩa, cốc chén, bình và các vận dụng trang trí 
phù hợp với cuộc sống sinh hoạt thường nhật. 
Hoa văn họa tiết của sản phẩm đa dạng phong 
phú. Chủ đề động vật như rồng, sư tử, hổ, hạc, 
cá, dơi thực vật như tùng, cúc, trúc, mai, mơ, 
đào, phù dung và nhiều họa tiết phù hợp với 
từng mùa. Sản phẩm từ bình dân được bán ở 
cửa hàng tạp hóa có giá 100 yên (tương đương 
với 20.000 VND) đến các mặt hàng thủ công 
cao cấp là ... gốm sứ truyền thống, thị trấn Arita 
nói riêng, thành phố Saga nói chung đã nỗ lực 
trong bảo tồn và phát triển nghề truyền thống 
có từ lâu đời của địa phương mình, trong đó, 
phải kể đến vai trò của Trung tâm kỹ thuật sản 
xuất thành phố Saga, Hiệp hội nghệ nhân gốm 
sứ Arita, Hiệp hội gốm sứ thành phố Saga. 
Công việc chính của Trung tâm kỹ thuật 
sản xuất là hỗ trợ các làng nghề phát triển, cải 
tiến kỹ thuật sản xuất. Với chiến lược phân chia 
các xưởng sản xuất theo 3 mô hình như đã đề 
cập ở phần trên, với mô hình các xưởng sản 
xuất hiện đại hóa bằng máy móc thì trung tâm 
luôn hỗ trợ các phầm mềm, các kỹ thuật tiên 
tiến để đưa vào sản xuất ở các khâu cần thiết. 
Các thành viên của Trung tâm thường xuyên 
đến các lò sản xuất để xem xét tình hình và 
nếu có những vấn đề phát sinh trong mảng 
kỹ thuật thì sẽ hỗ trợ trực tiếp. Những vấn đề 
phức tạp phát sinh, Trung tâm sẽ kết hợp với 
Hiệp hội nghệ nhân gốm sứ Arita, Hiệp hội 
gốm sứ thành phố Saga tiến hành tổ chức các 
buổi sinh hoạt chuyên môn để nghệ nhân của 
các lò gốm cùng trao đổi ý kiến nhằm cải tiến 
kỹ thuật cho phù hợp với tình hình thực tế tại 
các doanh nghiệp sản xuất. Bất kỳ khi nào các 
xưởng sản xuất gặp khó khăn về mặt kỹ thuật 
đều nhận được trợ giúp từ các nhà nghiên cứu, 
các nghệ nhân ở Trung tâm. Ngoài hỗ trợ kỹ 
thuật, các kỹ sư của Trung tâm thường xuyên 
nghiên cứu chất đất, quy trình xử lý đất, nhiệt 
độ lò nung và tìm hiểu kỹ thuật mới để đề xuất 
đến các xưởng sản xuất, nhằm đưa ra nhiều 
sản phẩm với chất lượng và mẫu mã đa dạng, 
phong phú hơn.
Bên cạnh việc hỗ trợ kỹ thuật, gắn kết các 
lò gốm với nhau, Trung tâm kỹ thuật sản xuất 
thành phố Saga còn có vai trò quan trọng 
trong việc hỗ trợ đào tạo đội ngũ kế nghiệp 
nghề thủ công truyền thống Arita. Trung tâm 
đã hỗ trợ thành phố Saga thành lập Trường 
Trung cấp nghề gốm sứ Arita. Đây là trường 
chuyên môn đầu tiên và duy nhất đào tạo 
chuyên sâu về gốm sứ được thành lập vào năm 
1985. Tháng 4 năm 2018, Trường chính thức 
kết hợp với Khoa Mỹ thuật, Đại học Saga để 
khai giảng khóa đại học 4 năm chuyên ngành 
gốm sứ tại trường. Tại đây, sinh viên được đào 
tạo các khâu cơ bản, kỹ thuật truyền thống, 
kỹ thuật hiện đại áp dụng máy móc trong sản 
xuất với các chuyên ngành cụ thể như tạo 
hình, thiết kế mẫu mã sản phẩm, kỹ thuật chế 
tác. Không chỉ tuyển sinh đào tạo sinh viên 
chính quy theo học ngành gốm sứ, trường 
cũng tiếp nhận rất nhiều các đoàn sinh viên, 
thợ thủ công trong nước và quốc tế về thực 
tập, nghiên cứu ngắn hạn. Tuy nhiên, sau khóa 
học 2 năm hoặc 4 năm tại trường, các thợ gốm 
cần có thời gian luyện tập trước khi được công 
nhận là thợ có tay nghề chính thức. Theo báo 
cáo định kỳ của trường, tổng số lượng sinh 
viên nhập học năm 2018 là 120 người (chuyên 
ngành gốm sứ khóa học 2 năm: 40 sinh viên; 
khóa học 4 năm: 40 sinh viên; khóa học 1 năm 
ngành tạo hình trên bàn xoay:10 sinh viên; 
Số 31 (Tháng 3 - 2020)26
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
trang trí họa tiết: 20 sinh viên; khóa học bổ túc 
1 năm thực hành tạo hình trên bàn xoay: 5 học 
viên; trang trí họa tiết: 5 học viên). Sau khi kết 
thúc khóa học, thời gian đầu hầu hết các thợ 
gốm trẻ đều được giới thiệu vào các doanh 
nghiệp sản xuất để thực tập và học nghề. Sau 
thời gian tích lũy kinh nghiệm, có nhiều thợ 
gốm trẻ đã phát triển xưởng gốm độc lập của 
mình. Cũng giống như thời Edo, có hai hình 
thức đào tạo tay nghề cho các thợ gốm trẻ: 
Một là, chế độ “đệ tử - người học việc”. Các 
nghệ nhân có tay nghề cao sẽ đào tạo, truyền 
bí quyết nghề nghiệp cho thợ gốm trẻ. Để có 
thể trở thành thợ cả có tay nghề, nhiều nghệ 
nhân tốn mất gần 10 năm học việc. Hai là, 
học tập tại trường và thực hành tại trung tâm 
kỹ thuật, hiệp hội. Cho dù học tập theo hình 
thức nào, các thợ gốm trẻ vẫn phải học việc 
tại chính xưởng sản xuất, các doanh nghiệp 
tại địa phương. Số lượng tuyển sinh hàng 
năm tuy còn khiêm tốn nhưng cũng cho thấy 
sự cố gắng của thành phố Saga trong công 
cuộc bảo tồn nghề thủ công truyền thống địa 
phương. Theo báo cáo của trường thì 100% 
số sinh viên tốt nghiệp đều có việc làm ngay 
sau khi ra trường. Đây cũng là chính sách 
khuyến khích các bạn trẻ đến với nghề thủ 
công truyền thống của nước nhà.
Ngoài hỗ trợ của thành phố Saga, hàng 
năm, Arita còn nhận được hỗ trợ từ Hiệp hội 
bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền 
thống. Theo Luật bảo tồn và phát triển nghề 
thủ công truyền thống ban hành ngày 25 
tháng 5 năm 1974, được bổ sung sửa đổi vào 
năm 1992 (năm Bình Thành 4) và năm 2001 
(năm Bình Thành 13), các hạng mục sau đây sẽ 
nhận được hỗ trợ từ Hiệp hội bảo tồn và phát 
triển nghề thủ công truyền thống: 1) Đào tạo 
đội ngũ kế nghiệp; 2) Bảo tồn, duy trì và phát 
triển kỹ thuật truyền thống; 3) Nghiên cứu 
đảm bảo nguồn nguyên vật liệu truyền thống; 
4) Kế hoạch điều tra thị trường; 5) Kế hoạch 
nghiên cứu phát triển mẫu mã sản phẩm mới. 
Ngân quỹ dự kiến hỗ trợ cho 230 làng nghề 
thủ công truyền thống năm 2018 là 700 triệu 
yên và Hiệp hội gốm sứ Saga cũng đã nhận 
được hỗ trợ cho kế hoạch đào tạo đội ngũ kế 
nghiệp và phát triển sản phẩm mới trong làng 
nghề của mình.
2.4. Phát huy sản phẩm truyền thống 
trong phát triển du lịch 
Hàng năm các lễ hội gốm sứ được tổ chức 
kết hợp với du lịch vào kỳ nghỉ lễ như lễ hội 
gốm sứ mùa xuân (tổ chức vào kỳ nghỉ tuần 
lễ vàng vào cuối tháng 4 kéo dài đến mùng 5 
tháng 5), lễ hội gốm sứ mùa hè, lễ hội gốm sứ 
mùa thu Theo thống kê của thị trấn Arita, 
số lượng khách du lịch trong và ngoài nước 
đến Arita năm sau luôn tăng cao hơn so với 
cùng kỳ các năm trước. Tính riêng lễ hội gốm 
sứ mùa xuân năm 2018, Arita đã thu hút hơn 
1.000.000 người đến du lịch và tham gia lễ 
hội. Lễ hội gốm sứ mùa thu năm 2018 tại Arita 
được diễn ra trong các ngày từ 21 đến 25 
tháng 11. Qua các các lễ hội đó, khách du lịch 
được tham quan vùng núi Izumiyama - vùng 
đất cao lanh là nguyên liệu chính của gốm sứ 
Arita trước đây, cũng như các lò gốm truyền 
thống và các quy trình sản xuất gốm sứ Arita. 
Bên cạnh đó, khách du lịch không chỉ có cơ 
hội mua sản phẩm trực tiếp tại các cửa hàng 
trưng bày mà còn có thể trải nghiệm làm các 
sản phẩm gốm theo sở thích của mình tại các 
lò gốm địa phương.
Để Arita được nhiều người biết đến hơn nữa, 
thành phố kết hợp với các doanh nghiệp đưa 
sản phẩm gốm sứ Arita đến các cuộc triển lãm 
khắp các vùng trong cả nước như Nihonbashi, 
Ikebukuro (Tokyo), Fukuoka, Osaka, Hiroshima 
Với viện Bảo tàng gốm sứ Kyushu, các sản phẩm 
từ 400 năm trước cùng với các sản phẩm đạt 
giải thưởng hàng năm vẫn được trưng bày hàng 
ngày phục vụ các nhà nghiên cứu nói chung, 
khách du lịch nói riêng.
2.5. Kinh nghiệm đối với Việt Nam
Với hơn 400 năm thăng trầm, nghề làm 
gốm sứ Arita vẫn luôn phát triển không ngừng 
bởi sự năng động, sáng tạo của những người 
làm gốm cũng như nhận được sự đồng thuận 
của các tổ chức nhà nước. Nhìn từ kinh nghiệm 
phát triển và bảo tồn gốm sứ Arita cho thấy 
việc phát triển và bảo tồn nghề gốm truyền 
thống ở Việt Nam cần kết hợp giữa chính sách 
hỗ trợ của Chính phủ với sự nỗ lực của các cơ 
sở sản xuất ở làng nghề. Chính phủ đóng vai 
trò quản lý và khuyến khích làng nghề phát 
triển thông qua các chính sách và hoạt động 
hỗ trợ các làng nghề sản xuất gốm sứ như sau:
27Số 31 (Tháng 3 - 2020)
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Thành lập cơ quan điều phối sản xuất có 
vai trò tìm hiểu như cầu của người tiêu dùng 
để hỗ trợ làng nghề đưa ra các sản phẩm đáp 
ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
- Thành lập Trung tâm kỹ thuật sản xuất 
nghiên cứu các kỹ thuật mới và triển khai tại 
các làng nghề nhằm đưa ra các sản phẩm có 
chất lượng cao. Bên cạnh đó, trung tâm sẽ hỗ 
trợ đào tạo đội ngũ kế nghiệp nghề thủ công 
truyền thống.
- Thực hiện chương trình đào tạo nghề và 
bảo tồn nghề truyền thống cho đội ngũ kế 
nghiệp.
- Xây dựng ngân sách hỗ trợ cho các làng 
nghề có thể bảo tồn, duy trì và phát triển kỹ 
thuật truyền thống, hỗ trợ kế hoạch nghiên 
cứu phát triển mẫu mã sản phẩm mới.
- Có chính sách tôn vinh nghệ nhân để 
khuyến khích phát huy vai trò của các nghệ 
nhân tại các làng nghề.
Trên đây là vài đề xuất các chính sách hỗ trợ 
bảo tồn và phát triển nghề gốm sứ, tuy nhiên, 
sự nỗ lực nội tại của các làng sản xuất gốm sứ 
là điều kiện cần thiết và tiên quyết. Trên thực 
tế, phần lớn các lao động tại các làng nghề 
là do tự học ngay tại làng nghề nên số lượng 
lao động có tay nghề cao không nhiều. Vì thế, 
với sự hỗ trợ từ Chính phủ, các làng nghề cần 
tổ chức kế hoạch đào tạo để các nghệ nhân 
truyền nghề cho số lao động trẻ sẽ tạo ra thế 
hệ những người lao động có tay nghề cao, đáp 
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao 
động phù hợp với nhu cầu của thị trường. Bên 
cạnh đó, các cơ sở sản xuất cần chú trọng đến 
các sản phẩm có hình thức, mẫu mã mới, cải 
tiến công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm để 
có thể cạnh tranh với các sản phẩm trên thị 
trường trong nước và thế giới. 
Kết luận
Trước khi sản xuất sứ, Arita đã được biết 
đến trong các câu vè, câu hát: thứ nhất Raku, 
thứ nhì Hagi, thứ 3 Karatsu (「一楽 二萩 三唐
津」). Karatsu là khởi nguồn đưa Arita, hay còn 
gọi là Imari, được biết đến là một trung tâm 
sản xuất gốm sứ của Nhật Bản trong thế kỷ 
XVII, XVIII. Từ Karatsu, Arita đã phát triển và 
đưa ra các dòng sản phẩm đáp ứng được nhu 
cầu của người tiêu dùng. Trải qua hơn 400 năm 
lịch sử hình thành và phát triển, Arita đã dần 
có chỗ đứng trên thị trường thế giới và chiếm 
lĩnh phần lớn thị trường tiêu thụ trong nước. 
Với sự năng động và quyết liệt của người Nhật, 
thông qua trung tâm sản xuất gốm sứ, Arita 
đã khẳng định vai trò chiếm lĩnh của loại mặt 
hàng này trên thị trường xuất khẩu thay thế 
khi “đại gia” gốm sứ Trung Hoa thất thế do ảnh 
hưởng của chính trị trong nước và các cường 
quốc khác trong khu vực không tận dụng được 
thời cơ. Ngoài ra, Arita cũng có ảnh hưởng lớn 
đến các lò gốm sứ ở một số nước châu Âu, các 
lò này đã mô phỏng các sản phẩm của dòng 
Kakiemon, đây là một minh chứng xác thực 
cho thành công của Arita. Mặc dù có một thời 
gian dài vắng bóng trên thị trường khu vực và 
thế giới, nhưng các chính sách bảo tồn và phát 
triển nghề thủ công truyền thống của chính 
phủ Nhật Bản cũng như của thành phố Saga 
đã dần tiếp sức Arita một lần nữa dần quay lại 
và có vị trí nhất định trong khu vực. Năm 2016, 
kỷ niệm 400 năm - một chặng đường của sứ 
Arita, thị trấn Arita cũng như tỉnh Saga đã tổ 
chức chương trình kỷ niệm, đồng thời tiếp tục 
đưa các dự án để bảo tồn và phát triển nghề 
truyền thống này. Hiện nay, sản phẩm mẫu mã 
của Arita đa dạng, phong phú và đáp ứng ngày 
càng tốt hơn nhu cầu thị trường trong nước 
và từng bước quay lại thị trường khu vực và 
thế giới. Thực tiễn phát triển của gốm sứ Arita 
cùng những chính sách và hoạt động bảo tồn, 
phát triển nghề thủ công truyền thống của 
Nhật Bản là những bài học kinh nghiệm thiết 
thực đối với việc bảo tồn và phát triển nghề 
gốm ở Việt Nam.
N.T.L.A
Chú thích
1 Theo số liệu thống kê của tỉnh Saga tháng 
6 năm 2018, hiện nay dân số Arita vào khoảng 
21.000 người. Tháng 3 năm 2006, thị trấn Nishi-
Arita được sát nhập vào thị trấn Arita (cũ) và 
thống nhất với tên gọi Arita-cho, mở rộng diện 
tích như hiện nay. Arita được biết đến là một thị 
trấn nhiều ruộng vườn và được bao quanh bởi 
các dãy núi trùng điệp tạo nên bầu không khí 
trong lành khác biệt với các vùng khác.
2 Ri Sampei: Nghệ nhân Triều Tiên bị bắt về 
Số 31 (Tháng 3 - 2020)28
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Saga trong cuộc chiến Nhật - Triều (1592 - 1598), 
người đã tìm ra nguồn đất sét trắng và đã thử 
nghiệm thành công việc chế tác gốm sứ từ 
nguồn đất sét này vào năm 1610.
3 Trong thời Edo (thế kỷ XVII), quần đảo 
Kyushu được chia ra thành 9 tiểu quốc trong 
đó có Chikugo (Fukuoka), Chikuzen (Fukuoka), 
Hizen (Nagasaki và Saga), Higo (Kumamoto), 
Buzen (Fukuoka), Bugo (Oita), Hyuga (Miyazaki), 
Osumi (Kagoshima), Satsuma (Kagoshima). 
Trong các tiểu quốc này chia nhỏ thành nhiều 
phiên (Han) khác nhau và Saga thuộc phiên Saga 
thời bấy giờ.
4 Khu phố có 1.000 hộ dân sản xuất sứ.
5 Phiên Nabeshima là tên gọi khác của phiên 
Saga. Thời gian này, dòng họ Nabeshima cai 
quản vùng đất này nên người ta biết đến với tên 
gọi là phiên Nabeshima.
6 Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) thành lập 
năm 1602 có trụ sở ở Amsterdam và năm 1619 
đặt trụ sở ở Batavia (Jakarta) trên đảo Java (nay 
thuộc Indonesia). Tổ chức thương mại hoạt động 
ở Đông Nam Á thế kỷ XVII, XVIII và góp phần đưa 
sứ Hizen, Nhật Bản thay thế gốm sứ Cảnh Đức 
Trấn ở thị trường khu vực và châu Âu.
7 Gốm sứ Cảnh Đức Trấn: Là trung tâm sản xuất 
gốm quan trọng của Trung Quốc ra đời từ rất sớm. 
Theo sử liệu thì lò gốm sứ này có thể hoạt động từ 
thời Nam Triều (410 - 598) đến thời Đường (618 - 
907) và tiếp tục phát triển về sau này.
8 Gốm sứ Hizen: dòng gốm sứ được sản xuất 
tại lãnh địa Hizen (ngày này thuộc thành phố 
Saga và 1 phần thành phố Nagasaki). Hizen bao 
gồm các vùng sản xuất chính là Arita, Hasami, 
Mikawachi.
9 Theo Khoản 2 Điều 57 Luật bảo tồn và phát 
triển nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản, 
được ban hành năm 1974 (năm Chiêu Hòa 49), 
quy định 5 điều kiện để các ngành nghề được 
công nhận là nghề thủ công truyền thống. Thứ 
nhất, sản phẩm phải là mặt hàng phục vụ cho 
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Thứ 2, các công 
đoạn chính trong quy trình sản xuất phải được 
thực hiện bằng tay. Thứ 3, sản phẩm được sản 
xuất bằng kỹ thuật truyền thống. Thứ 4, thành 
phần nguyên liệu chính phải là nguyên liệu 
truyền thống. Thứ 5, được sản xuất trong một 
khu vực làng nghề nhất định. 
Theo thống kê của Bộ Kinh tế Nhật Bản, từ 
năm 1975 (năm Chiêu Hòa 50) bắt đầu với 11 
làng nghề được công nhận là nghề thủ công 
truyền thống và đến ngày 30 tháng 11 năm 2017, 
có 230 làng nghề đáp ứng đủ các điều kiện của 
Luật bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền 
thống. Trong 230 làng nghề được công nhận 
chính thức vào năm 2018, gốm sứ có 31 làng 
nghề, chiếm 14%. 31 làng nghề gốm sứ được 
công nhận là nghề thủ công truyền thống gồm 
có Arita, Hasami, Mikawachi, Kyoyaki, Binoyaki, 
Kutaniyaki, Bizenyaki, Satsumayaki, Igayaki
10 Nigoshide: Theo tiếng địa phương của Saga 
thì Nigoshi có nghĩa là màu trắng của nước gạo. 
Khi Kakiemon đưa ra sản phẩm có sứ trắng ngọc 
tinh xảo thì được đặt cho biệt danh là Nigoshide.
11 Tonya là nhà điều phối trong quy trình sản 
xuất và tiêu thụ sản phẩm hay chính là các doanh 
nghiệp độc quyền phân phối sản phẩm.
Tài liệu tham khảo
1.有田町史編纂委員会(1985a)『有田町史 
陶業編Ⅰ』有田町, p.368.
2.上原義子(2015)“統的工芸品の現状と
マーケティング課題について:伝統的陶磁器
の流通問題と付加価値の視点から”嘉悦大学
論文集, pp.94-96.
3.久我俊郎、富岡行昌:監修(2011)『図
説唐津・伊万里・有田の歴史』郷土出版社, 
p.11.
4.櫻庭美咲(2014)『西洋宮廷美術と日本
輸出磁器:東西貿易の文化創造』藝華書院
中島浩気(1985)『肥前陶磁史考』青潮社, 
pp.37-39.
5.中島浩気(1985)『肥前陶磁史考』青潮
社, p121.
6.松本源次(1996)『炎の里有田の歴史物
語』山口印刷, pp37-39.
Ngày nhận bài: 10 - 01 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 2 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_va_phat_trien_nghe_thu_cong_truyen_thong_gom_su_arit.pdf