Bảo tồn kiến trúc truyền thống Tây Nguyên trong quá trình phát triển du lịch địa phương

TÓM TẮT: Bài viết khái quát những giá trị cơ bản của các loại hình kiến trúc truyền

thống tiêu biểu ở Tây Nguyên, sơ lược về thực trạng các loại hình kiến trúc này trong bối

cảnh hội nhập, đồng thời chỉ ra những tiềm năng khai thác du lịch địa phương dựa trên

các kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc nhất của một số dân tộc địa phương. Bên cạnh đó, bài viết

giới thiệu một số cơ sở kinh doanh du lịch địa phương, qua đó phân tích một số khó khăn

của du lịch cộng đồng ở Tây Nguyên hiện nay và thử đề xuất hướng khắc phục.

Từ khóa: kiến trúc truyền thống Tây Nguyên, nhà Rông, nhà dài, nhà mồ, Ê Đê, Gia Rai,

Ba Na, Mnông

pdf 10 trang phuongnguyen 2680
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn kiến trúc truyền thống Tây Nguyên trong quá trình phát triển du lịch địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn kiến trúc truyền thống Tây Nguyên trong quá trình phát triển du lịch địa phương

Bảo tồn kiến trúc truyền thống Tây Nguyên trong quá trình phát triển du lịch địa phương
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Thị Thanh Nhàn 
86 
BẢO TỒN KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG TÂY NGUYÊN 
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐỊA PHƢƠNG 
CONVERSE TAY NGUYEN TRADITIONAL ARCHITECTURE 
DURING THE DEVELOPMENT OF LOCAL TOURISM 
HỒ THỊ THANH NHÀN 
 ThS. Trường Đại học Văn Lang, Email:hothithanhnhan@vanlanguni.edu.vn 
TÓM TẮT: Bài viết khái quát những giá trị cơ bản của các loại hình kiến trúc truyền 
thống tiêu biểu ở Tây Nguyên, sơ lược về thực trạng các loại hình kiến trúc này trong bối 
cảnh hội nhập, đồng thời chỉ ra những tiềm năng khai thác du lịch địa phương dựa trên 
các kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc nhất của một số dân tộc địa phương. Bên cạnh đó, bài viết 
giới thiệu một số cơ sở kinh doanh du lịch địa phương, qua đó phân tích một số khó khăn 
của du lịch cộng đồng ở Tây Nguyên hiện nay và thử đề xuất hướng khắc phục. 
Từ khóa: kiến trúc truyền thống Tây Nguyên, nhà Rông, nhà dài, nhà mồ, Ê Đê, Gia Rai, 
Ba Na, Mnông. 
ABSTRACT: The paper has outlined principal values of typical traditional architectural 
forms in Tay Nguyen, summarized the reality of such in the context of integration, pointed 
out potentials in local tourism exploitation base on the most typical and distinctive 
architectures of local ethnic groups. Besides, it also introduces some local tourism 
businesses, from that, analyses difficulties of Tay Nguyen community tourism at this 
moment and suggest solutions to overcome. 
Key words: Tay Nguyen traditional architecture, communal house, long house, sepulchre, 
Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Mnông. 
1. KHÁI QUÁT VỀ KIẾN TRÚC 
TRUYỀN THỐNG TÂY NGUYÊN 
Nhìn chung, kiến trúc trong mỗi ngôi 
làng truyền thống của các dân tộc Tây 
Nguyên có thể được chia thành ba nhóm 
dựa theo mục đích sử dụng, gồm: nhà ở, 
nhà cộng đồng và nhà mồ, ngoài ra còn có 
chòi rẫy, kho thóc nhưng quy mô nhỏ và ít 
đặc trưng. Tây Nguyên gồm 5 tỉnh (Gia 
Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm 
Đồng), với 11 dân tộc bản địa (Gia Rai, Ba 
Na, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm, 
Ê Đê, Mnông, Cơ ho, Mạ, Chu Ru) có lịch 
sử cư trú lâu đời, tuy nhiên kiến trúc truyền 
thống được biết đến thường chỉ là của 
những nhóm dân tộc đông dân hơn cả, như 
người Ba Na, Gia Rai ở phía Bắc (Gia Lai, 
Kon Tum), người Ê Đê ở phía Nam (Đăk 
Lăk). Điều này do nhiều nguyên nhân, 
trong đó có nguyên nhân quy mô dân số và 
mức độ ổn định của nơi cư trú. 
Theo một nghiên cứu vào năm 1994 
[2], thời gian định cư của các làng dân tộc 
ở Tây Nguyên chia thành ba cấp độ: Nhóm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
87 
di cư nhiều nhất là những dân tộc có dân số 
ít, canh tác rẫy trên những địa bàn nhiều sỏi 
đá, bạc màu, định cư không quá 10 năm; 
Nhóm có dân số trung bình di cư ít hơn, 
canh tác trên những địa hình thoai thoải, 
quỹ đất dồi dào, khá màu mỡ, điển hình là 
các nhóm người Ba Na ở huyện An Khê, 
huyện Kbang (Gia Lai), “trong đời người 
Ba Na ở vùng An Khê, Kbang thường phải 
chuyển làng 3-4 lần”; Nhóm dân cư ổn 
định nhất canh tác lúa nước hoặc làm rẫy 
trên những vùng đất bằng rộng lớn, điển 
hình là người Gia Rai, Ê Đê, nhóm Ba Na-
Kon Tum và nhóm Mnông-Rlăm. Buôn 
làng của họ đông đúc, nhà cửa khang trang, 
chắc chắn, nếu có rời chuyển thì thường chỉ 
vì lý do tín ngưỡng. “Có những người Ba 
Na ở Kon Tum cả đời chưa bao giờ phải 
chuyển làng” [2]. “Buôn Anur của người Ê 
Đê tính đến năm 1975 đã tồn tại được trên 
100 năm” [2]. Buôn này hiện nay vẫn còn 
ở Huyện Krông Păk (Đăk Lăk) và đã trở 
thành một địa điểm du lịch văn hóa nổi bật 
của địa phương. 
Trong ngôn ngữ Tây Nguyên, tùy theo 
nhóm dân tộc, làng còn được gọi là pơlơi, 
pơlei, bon, bôn, buôn,... Làng của người Ê 
Đê tồn tại ổn định nhất trong số các dân tộc 
tại đây, kiến trúc nhà ở của họ cũng kiên cố 
hơn nhằm tồn tại qua nhiều thế hệ. Người Ê 
Đê có tục lệ mỗi khi trai gái kết hôn sẽ về 
chung sống ở nhà đằng vợ, ngôi nhà lại 
được nới thêm một buồng, họ sinh con đẻ 
cái, ngôi nhà của dòng họ mẹ cứ thế mà dài 
thêm ra mãi. Ngôi nhà này chia thành hai 
phần, phía trước là Gah, là nơi sinh hoạt 
chung, có bếp sưởi, bếp nấu, có cồng 
chiêng, trống da trâu, hàng cột rượu, những 
chiếc ghế độc mộc K’pal rất dài dùng để 
tiếp khách và thực hiện các nghi lễ; phần 
sau gọi là Ôk, chia thành nhiều buồng nhỏ 
dọc theo hành lang, được ngăn bởi phên tre, 
dành cho từng cặp vợ chồng và phòng của 
các cô con gái lớn, riêng con trai chưa vợ 
thì đêm ngủ ở nhà Rông. Người Ê Đê theo 
chế độ mẫu hệ, khi con gái lấy chồng, con 
rể về ở chung với đại gia đình bên vợ, ngôi 
nhà lại tiếp tục được nối dài ra. Nếp sống 
truyền thống như trên góp phần lý giải vì 
sao các dân tộc khác chỉ có kiểu nhà sàn 
đơn lẻ nhưng người Ê Đê lại nổi tiếng với 
những ngôi nhà dài hàng trăm mét như mô 
tả trong Trường ca Đam San: “Nhà dài như 
tiếng chiêng ngân”. 
Nhà ở của người Gia Rai và người Ba 
Na khá nhỏ, trang trí đơn giản, nhưng họ lại 
có niềm tự hào về những mái nhà Rông 
hình lưỡi búa cao vút trên nền trời, đây là 
công trình quan trọng nhất luôn được hoàn 
thành đầu tiên khi lập làng. Nhà mồ của họ 
cũng nổi bật nhất trong vùng với nhiều chi 
tiết điêu khắc trên kiến trúc và tượng gỗ, 
chi tiết đan lát trên mái tinh xảo, đẹp mắt. 
Người Xơ Đăng cũng có nhà Rông mái cao 
nhưng nhà mồ thì không đa dạng bằng. 
Người Giẻ Triêng lại có kiểu nhà Rông có 
mái hình mu rùa với hai đầu hồi bo tròn, 
trên mái có chi tiết trang trí hình cặp sừng 
trâu. Riêng người Mnông có kiểu nhà trệt 
với bộ mái hình nón lợp cỏ tranh dày dặn. 
Đây là kiểu kiến trúc địa phương duy nhất 
được biết đến tại Tây Nguyên không có sàn 
nâng cao khỏi mặt đất như tất cả những dân 
tộc còn lại, lý do là vì người Mnông cư trú 
chủ yếu ở khu vực ven Hồ Lăk (Đăk Lăk), 
nơi địa hình bằng phẳng, tầm nhìn rộng rãi 
và quang đãng. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Thị Thanh Nhàn 
88 
Ngày nay, kiến trúc truyền thống tại 
Tây Nguyên đã mai một nhiều trước những 
nhu cầu công năng và thẩm mỹ của thời đại 
mới. Tuy nỗ lực bền bỉ, nhưng các cơ quan 
quản lý văn hóa, các bảo tàng địa phương 
và trung ương vẫn chỉ có thể giữ lại được 
những hiện vật nhỏ, hoặc tái tạo bối cảnh 
sinh hoạt trong các lễ hội văn hóa, riêng 
các kiểu thức kiến trúc truyền thống địa 
phương quá phong phú và đa dạng, rất khó 
bảo tồn lưu giữ đầy đủ. 
2. KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG TÂY 
NGUYÊN TRONG BỐI CẢNH HỘI 
NHẬP 
Sự mai một của các kiểu thức kiến trúc 
truyền thống Tây Nguyên như ngày nay là 
hệ quả của cả một quá trình rất lâu dài chịu 
tác động bởi nhiều nguyên nhân, trong đó 
hai nguyên nhân chủ yếu là sự thay đổi tín 
ngưỡng - tôn giáo và sự phát triển về nhiều 
mặt của kinh tế - xã hội. 
Tôn giáo đầu tiên xâm nhập vào miền 
đất này là Công giáo, bắt đầu từ chuyến đi 
thăm dò năm 1850. Trong suốt 50 năm cuối 
thế kỷ XIX, Công giáo vẫn quanh quẩn 
trong vùng đất của người Gia Rai, các giáo 
sĩ phải tìm cách mở rộng phạm vi truyền 
đạo sang các dân tộc khác. Tính đến năm 
1954, “số tín đồ công giáo ở vùng Ba Na 
khoảng 10.000 người, vùng Xơ Đăng 
khoảng 8.000 người [6]. Khu vực của 
người Gia Rai tiếp xúc với Công giáo đầu 
tiên nhưng sức lan tỏa lại rất chậm. Thống 
kê năm 1954 cho thấy, “ở vùng người Gia 
Rai, số tín đồ Công giáo chỉ chiếm khoảng 
15% dân số” [6], đến năm 1999 con số này 
vẫn chỉ đạt khoảng 15.000 người trong khi 
tổng số tín đồ Công giáo tại Tây Nguyên đã 
lên đến 635.615 người [4]. Năm 2009, số 
tín đồ Công giáo tại Tây Nguyên là 
1.707.287 người [5]. Như vậy, chỉ trong 
vòng 10 năm đầu thế kỷ XXI, số lượng tín 
đồ mới gia nhập Công giáo tại Tây Nguyên 
đã gấp đôi tổng số giáo dân thu nạp trong 
suốt 150 năm ròng rã kể từ khi Công giáo 
đến miền đất này. 
Đạo Tin Lành vào Việt Nam muộn hơn 
(1911), gần 20 năm sau mới bắt đầu lên 
Tây Nguyên, cơ sở truyền giáo đầu tiên đặt 
tại Đà Lạt năm 1929, sau đó tại Buôn Ma 
Thuột năm 1934. Giai đoạn đầu, tín đồ Tin 
Lành ở Tây Nguyên hầu hết là người Ê Đê, 
từ năm 1954 tôn giáo này lan về phía Bắc, 
tiếp cận các dân tộc còn lại. Sau năm 1975, 
đạo Tin Lành có giai đoạn phát triển rất 
chậm. Năm 1999, số tín đồ trên toàn Tây 
Nguyên là 244.769 người, tập trung nhiều 
nhất vẫn ở tỉnh Đăk Lăk (113.120 người, 
chiếm hơn 46%). Năm 2001, khi Hội thánh 
Tin Lành Việt Nam chính thức được công 
nhận, các cơ sở truyền giáo ở Tây Nguyên 
bắt đầu hoạt động trở lại. Năm 2004, trên 
toàn Tây Nguyên có 286.219 tín đồ Tin 
Lành, năm 2005 tăng lên 301.149 tín đồ, 
trong đó có 282.799 tín đồ là người dân tộc 
thiểu số chiếm 93,9%, phần lớn vẫn là 
người Ê Đê [6]. 
Sức ảnh hưởng của Công giáo và đạo 
Tin Lành càng lan tỏa sâu rộng, phạm vi 
của tín ngưỡng truyền thống càng thu hẹp 
lại, từ đó kiến trúc nhà mồ liên quan trực 
tiếp đến tín ngưỡng, hoặc kiến trúc nhà 
Rông là nơi tổ chức các nghi thức tín 
ngưỡng thờ thần đều bị tác động dẫn đến 
nguy cơ tàn lụi. 
2.1. Kiến trúc nhà mồ 
Tổng kết hành trình gần mười năm 
điền dã khắp vùng Tây Nguyên, vào năm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
89 
1994, nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã 
đánh giá rất cao giá trị nghệ thuật của loại 
hình kiến trúc này. Theo đó, “Nghệ thuật 
xây dựng nhà mồ Tây Nguyên là nghệ thuật 
tạo lập không gian, là nghệ thuật sử dụng 
chất liệu, là nghệ thuật tổng hợp các loại 
hình nghệ thuật khác nhau, là nghệ thuật 
phối hợp tỉ lệ, nhịp điệu và màu sắc giữa 
các thành phần kiến trúc với nhau để tạo ra 
một tác phẩm nghệ thuật thống nhất, hoàn 
hảo và độc đáo” [1]. Tuy nhiên, về giá trị 
vật chất, khác với các kiến trúc tôn giáo 
khác thường hướng đến sự trường tồn, nhà 
mồ Tây Nguyên được tạo tác chủ yếu bằng 
gỗ không qua xử lý độ ẩm và mối mọt, 
không chú trọng về chủng loại hay tuổi đời 
của gỗ, vì vậy kiến trúc này xuống cấp rất 
nhanh chóng khi bị bỏ mặc giữa thiên 
nhiên. Về giá trị tinh thần, nhà nghiên cứu 
Ngô Văn Doanh cũng khẳng định: “nhà mồ 
chỉ có ý nghĩa sử dụng trong những ngày 
làm lễ bỏ mả (từ 3 đến 7 ngày) cho nên nó 
chỉ phát huy hết hiệu quả nghệ thuật của 
mình trong những ngày đó” [1]. Nói cách 
khác, nếu tín ngưỡng truyền thống mất đi, 
kiến trúc nhà mồ cho dù được sưu tầm bảo 
quản cẩn thận cũng sẽ chỉ còn là các hiện 
vật đã “đóng băng” trong các bảo tàng, 
hoặc được tái hiện như một loại hình nghệ 
thuật trình diễn trong các lễ hội văn hóa du 
lịch. 
Tác giả đã tiến hành nhiều cuộc điền 
dã các khu nhà mồ ven thành phố Pleiku 
(Gia Lai) trong khoảng từ năm 2009 đến 
nay. Thực tế cho thấy, mật độ nhà mồ và 
tượng mồ ngày càng thưa thớt. Về đặc 
trưng tạo hình, kiến trúc tuy vẫn theo kiểu 
dáng cũ và các đề tài trang trí vẫn được giữ 
lại nhưng vật liệu và phương pháp tạo tác 
truyền thống hầu như không còn, những chi 
tiết đặc sắc nhất như những mảnh gỗ dày 
chạm cảnh sinh hoạt thường gắn trên nóc 
mái ngày nay được cắt bằng tôn mỏng , 
hàng rào gỗ được thay thế bằng tường xây, 
tượng mồ khá hiếm hoi, xen kẽ với nhà mồ 
là những ngôi mộ Công giáo. Ngày nay, 
vẫn còn một số gia đình tổ chức lễ bỏ mả 
nhưng quy mô rất nhỏ, nghệ thuật kiến trúc, 
điêu khắc, đan lát, múa rối, múa tsoang, thơ 
ca trong lễ cũng không còn đặc sắc như 
xưa. Riêng nghệ thuật điêu khắc tượng mồ 
đang được các cơ quan văn hóa địa phương 
nỗ lực giữ gìn và phát huy bằng cách mở 
các lớp cho nghệ nhân truyền dạy, tổ chức 
những cuộc thi tạc tượng, triển lãm hiện vật 
và nhiếp ảnh về điêu khắc dân gian,... Sở dĩ 
điêu khắc gỗ Tây Nguyên vẫn tồn tại được 
vì nghệ thuật này gần như đã trở thành một 
loại hình điêu khắc hiện đại mang đậm 
phong cách địa phương, ngày càng xa dần 
mục đích tín ngưỡng. 
2.2. Kiến trúc nhà Rông 
Không chỉ kiến trúc nhà mồ có nguy 
cơ thất truyền mà cả nhà Rông, một thời là 
linh hồn của làng, cũng không còn giữ vai 
trò trọng yếu đối với cộng đồng trong thời 
đại mới. Người Tây Nguyên xưa cũng như 
nhiều dân tộc sơ khai khác, theo tín ngưỡng 
đa thần, họ từng tin rằng có vô số các vị 
thần (Yang) trú ngụ trong vạn vật như thần 
lửa, thần nước, thần núi, thậm chí thần ngụ 
trong chiêng, ché, trong lúa gạo, ở những 
cây to, trong những hòn đá có hình thù kỳ 
dị,... Ngay từ buổi đầu truyền đạo, muốn 
người dân bản địa từ bỏ tín ngưỡng đã ăn 
sâu trong tận tiềm thức từ ngàn xưa, các 
nhà truyền giáo đã chủ trương “phá thần” 
bằng nhiều cách, hữu hiệu nhất là cách phá 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Thị Thanh Nhàn 
90 
bỏ các vật thiêng mà người Tây Nguyên 
cho rằng có thần trú ngụ, đặc biệt là linh 
vật quan trọng nhất của làng được cất giữ ở 
nhà Rông, nơi Yang Roong (thần bản mệnh 
của làng) trú ngụ. Những tiến bộ xã hội mà 
các nhà truyền giáo đã mang lại cho cộng 
đồng các dân tộc Tây Nguyên là yếu tố tích 
cực không thể phủ nhận, nhưng ở một mặt 
khác, cũng chính các tôn giáo mới là 
nguyên nhân chủ đạo làm mất đi tín 
ngưỡng truyền thống, vốn bao trùm và chi 
phối mọi hoạt động văn hóa của người Tây 
Nguyên, từ đó các lễ hội dân gian vốn hầu 
hết được tiến hành ở nhà Rông và nhà mồ 
dần bị thay thế bởi những lễ hội tôn giáo 
được tổ chức tại nhà thờ. 
Mặt khác, sự phát triển tất yếu của xã 
hội cũng làm ảnh hưởng đến vai trò của nhà 
Rông. Xưa kia, những chàng trai chưa vợ 
ngày lên nương rẫy, đêm về quây quần ở 
nhà Rông nghe người già kể chuyện, chính 
bên bếp lửa chẳng bao giờ tắt ấy, người già 
trao cho người trẻ những kinh nghiệm sản 
xuất và kỹ năng sống quý báu của mình. 
Ngày nay, nông nghiệp Tây Nguyên đã 
phát triển với đa dạng giống cây trồng, sở 
hữu đất đai và tổ chức sản xuất không còn 
theo tập thể mà phân tán vào từng hộ gia 
đình, kiến thức và kỹ năng được truyền đạt 
theo nhiều cách khác xưa, rất nhiều người 
tiếp nhận kiến thức qua trường học và các 
kênh truyền thông. Những tín hiệu đáng 
mừng này đồng thời cũng lý giải vì sao nhà 
Rông và hội đồng già làng không còn giữ 
vai trò trọng yếu trong quản lý sản xuất và 
giáo dục thế hệ trẻ được nữa. 
Từ những năm đầu thế kỷ XXI, một số 
làng bắt đầu xuất hiện khái niệm mới là 
“nhà Rông văn hóa” do Nhà nước xây dựng 
bằng vật liệu hiện đại, mô phỏng hình dáng 
nhà Rông. Giải pháp này đã gây nhiều 
tranh cãi giữa những chuyên gia và các cơ 
quan quản lý văn hóa. Tỉnh Gia Lai đã tổ 
chức một hội thảo (năm 2004) để bàn về 
vấn đề này. Năm 2014, Ủy ban Nhân dân 
Tỉnh Đăk Nông tiếp tục tổ chức Hội thảo 
Khoa học “Xây dựng đời sống văn hóa 
nông thôn mới - Khu vực Tây Nguyên”, vấn 
đề bảo tồn kiến trúc nhà Rông tiếp tục được 
khơi lại, chứng tỏ tầm quan trọng của công 
trình này đối với văn hóa truyền thống các 
dân tộc Tây Nguyên hiện nay. 
2.3. Kiến trúc nhà ở 
Trong ba loại hình kiến trúc ở Tây 
Nguyên, công trình nhà ở ít chịu ảnh hưởng 
bởi sự thay đổi tín ngưỡng nhất, nhưng lại 
chịu tác động lớn do sự chuyển đổi của 
hình thức tổ chức lao động sản xuất và 
quản lý xã hội kiểu mới. Các sử liệu cũ đã 
ghi nhận rằng vào khoảng giữa thế kỷ XX 
trở về trước, những ngôi nhà dài của người 
Ê Đê thường dài đến 100m, trong đó có 3 
đến 4 thế hệ cùng chung sống. Vì nhiều lý 
do, nhà dài của người Ê  ... số chỉ đạt chất 
lượng từ 1 đến 2 sao. Tốc độ cải thiện chất 
lượng dịch vụ lưu trú cũng diễn ra rất 
chậm, từ 2009 đến 2011 vẫn chỉ có 1 cơ sở 
đạt chuẩn 5 sao, dịch vụ 4 sao tăng từ 8 lên 
9 cơ sở, 3 sao tăng từ 7 lên 10 cơ sở. Đến 
năm 2016, theo danh sách của Tổng cục Du 
lịch Việt Nam, tỉnh Lâm Đồng có dịch vụ 
lưu trú phát triển nhất cả về số lượng lẫn 
chất lượng (hai khách sạn và một resort 
chuẩn 5 sao; ba khu nghỉ dưỡng và tám 
khách sạn chuẩn 4 sao, mười tám đơn vị 
lưu trú khác đạt chuẩn 3 sao trong đó có 
một số làng du lịch), tiếp đến là Đăk Lăk 
(hai khách sạn chuẩn 5 sao, một khách sạn 
chuẩn 4 sao, bốn khách sạn chuẩn 3 sao), 
Gia Lai và Kon Tum đều chỉ có một khách 
sạn chuẩn 4 sao và một khách sạn chuẩn 3 
sao, riêng Đăk Nông hiện nay vẫn đang 
trong quá trình xây dựng, chỉ có hai khách 
sạn đạt chuẩn 3 sao. 
Về phong cách, các khách sạn đạt tiêu 
chuẩn 4-5 sao hầu hết đều sử dụng hình 
thức kiến trúc hiện đại mang tính quốc tế, 
không liên quan đến văn hóa địa phương. 
Đặc biệt, chỉ có một số làng du lịch tại Lâm 
Đồng lấy cảm hứng từ kiến trúc truyền 
thống được xếp hạng 3 sao, còn lại tất cả 
các địa điểm đang được địa phương lựa 
chọn làm điểm phát triển du lịch văn hóa 
cộng đồng, chính là những nơi còn bảo tồn 
được nhiều công trình kiến trúc truyền 
thống nhất, đều chưa lọt vào danh sách xếp 
hạng từ 3 sao trở lên. 
Tháng 12/2016, nội dung hội thảo về 
“Tiềm năng và phát triển du lịch tỉnh Gia 
Lai” do Ủy ban Nhân dân tỉnh tổ chức cho 
thấy du lịch văn hóa cộng đồng là một 
trong những hướng chủ lực mà địa phương 
sẽ thu hút đầu tư. Theo một tham luận tại 
hội thảo này, mức chi trả trung bình hiện 
nay của những du khách đến Việt Nam vì 
mục đích tham quan, nghỉ dưỡng là 70 đến 
90 USD/người/ngày [3], như vậy mức chi 
tiêu của du khách tại Tây Nguyên rất thấp 
so với cả nước, khách nội địa 22 
USD/ngày, khách quốc tế 67 USD/ngày. 
Đặc biệt, mức chi tiêu phân bố không đều 
trong vùng, cao nhất ở Tỉnh Lâm Đồng 
(khách nội địa 31 USD/ngày, khách quốc tế 
110 USD/ngày), thấp nhất ở Tỉnh Kon Tum 
(khách nội địa 15 USD/ngày, khách quốc tế 
50 USD/ngày). Bên cạnh đó, thống kê của 
Tổng cục Du lịch cũng cho biết 68% khách 
nội địa và 65% khách quốc tế đến Tỉnh 
Lâm Đồng vì mục đích nghỉ dưỡng, và 
83% khách quốc tế đến Tỉnh Kon Tum vì 
mục đích tìm hiểu văn hóa, đồng thời số 
lượng khách đến Tỉnh Lâm Đồng luôn vượt 
trội gấp nhiều lần so với các tỉnh khác 
(doanh thu năm 2016 của Tỉnh Lâm Đồng 
chiếm 4.400 tỷ đồng trên tổng doanh thu 
hơn 4.800 tỷ của toàn vùng). Điều này 
chứng tỏ doanh thu của du lịch toàn Tây 
Nguyên hiện nay chủ yếu chỉ nhờ vào du 
lịch nghỉ dưỡng tại Tỉnh Lâm Đồng. 
3.2. Thực trạng một số cơ sở du lịch nghỉ 
dƣỡng có sử dụng kiến trúc truyền thống 
Như đã nói ở phần trên, các cơ sở lưu 
trú được xếp hạng cao ở Tây Nguyên hầu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Thị Thanh Nhàn 
92 
như chỉ sử dụng kiến trúc hiện đại mang 
tính quốc tế, vì vậy, một số cơ sở kinh 
doanh lấy cảm hứng từ kiến trúc địa 
phương được tác giả khảo sát sau đây đều 
chưa xuất hiện trong danh sách xếp hạng, 
gồm Memory mini Resort, Lăk Tented 
Camp (Đăk Lăk) và Bình An Village 
Resort (Đà Lạt). 
Được xây dựng tại km 8 quốc lộ 14, 
Memory mini Resort chỉ có một khối kiến 
trúc duy nhất, tầng dưới gồm lễ tân, bếp và 
các công trình phụ, tầng trên gồm các sân 
sàn đón gió, là nơi khách ngồi ngắm cảnh 
và giao lưu, cùng 8 phòng lưu trú với diện 
tích khoảng 10-12m2, giá thuê từ 400 đến 
600 ngàn đồng/đêm. Hồ bơi sử dụng công 
nghệ ion, khuôn viên sân vườn khá khiêm 
tốn nhưng rất duyên dáng và thoáng mát. 
Khối kiến trúc hiện đại soi bóng xuống mặt 
hồ, tường bao xây tô nhưng hệ khung gỗ 
được lấy cảm hứng từ kiến trúc nhà dài 
truyền thống Ê Đê, mái tranh dày gần 
20cm, kết cấu đỡ mái hoàn toàn bằng tre 
buộc dây mây đặc biệt ấn tượng, giúp các 
phòng nghỉ mát mẻ quanh năm, nhà vệ sinh 
tuy nhỏ nhưng sạch sẽ, đầy đủ trang thiết bị 
hiện đại. Với cách tiếp đón thân thiện và 
gần gũi, khách mới hầu hết do khách cũ 
giới thiệu đến. Có thể gọi đây là mô hình 
kinh doanh Home-stay chất lượng cao hơn 
là một Resort đúng nghĩa. 
Tọa lạc trên một bán đảo phía bắc Hồ 
Lăk, Lăk Tented Camp có tất cả mười lăm 
khu nhà lều và bốn bungalow. Giá thuê nhà 
lều là 2,2 triệu đồng/đêm và giá bungalow 
là 4,2 triệu đồng/đêm, chỉ dành cho 2 người 
lớn và miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi ngủ 
chung giường, trẻ trên 6 tuổi có giường phụ 
với phụ thu 540 ngàn đồng/đêm, bao gồm 
ăn sáng. Du khách biết đến resort này nhờ 
nhiều nguồn thông tin, trong đó đáng kể là 
nhờ các phản hồi tốt trên diễn đàn du lịch 
quốc tế TripAdvisor. Resort còn đầu tư một 
website tiếng Anh, chủ yếu nhắm đến du 
khách phương Tây. Ngoài các khu lưu trú 
được thiết kế có thẩm mỹ cao và lợi thế góc 
nhìn từ bán đảo ra hồ, Lăk Tented Camp 
còn tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí 
khá thú vị như chèo thuyền Kayak, thuyền 
độc mộc, đạp xe địa hình đi thăm các buôn 
văn hóa, xem nghệ nhân làm gốm, họ cũng 
kết hợp với tour du lịch cưỡi voi của địa 
phương, tổ chức các show diễn cồng chiêng 
như các cơ sở trên bờ. Cồng chiêng tại đây 
được biểu diễn trong nhà dài Ê Đê, tuy 
nhiên ngôi nhà này lại lợp ngói, ngoài cầu 
thang và hệ cột chính theo phong cách 
truyền thống thì mọi chất liệu khác đều quá 
mới, chưa hoàn toàn hòa hợp với phong 
cách kiến trúc và chất liệu truyền thống. 
Trong các khu du lịch tại Tây Nguyên, 
nhà dài Ê Đê là kiểu kiến trúc được lựa 
chọn nhiều nhất khi chủ đầu tư muốn lấy 
cảm hứng từ phong cách kiến trúc truyền 
thống. Nhà Rông với bộ mái quá cao, 
thường chỉ được ứng dụng trong các công 
trình có hai đến ba tầng, Bình An Village 
Resort thuộc trường hợp này. Nhìn tổng 
quan, quần thể khối tiếp đón và các biệt thự 
nghỉ dưỡng nổi bật giữa thiên nhiên với bộ 
mái lấy cảm hứng từ nhà Rông hình lưỡi 
búa, trang trí bằng họa tiết đặc trưng hình 
kỷ hà, tuy nhiên tất cả phần kết cấu và vật 
liệu xây dựng, trang trí đều được hiện đại 
hóa, nội thất thiết kế theo phong cách bán 
cổ điển châu Âu. Bình An Village Resort 
có quy mô khá lớn, giá thuê từ 3,4 triệu đến 
34 triệu/đêm. Như hầu hết các khu nghỉ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
93 
dưỡng cao cấp khác, du khách có thể tận 
hưởng trọn vẹn chuyến đi với rất nhiều dịch 
vụ vui chơi giải trí, thư giãn, chăm sóc sức 
khỏe,... ngay trong khuôn viên khép kín của 
resort, hoặc tham quan, mua sắm ở khu vực 
trung tâm, thăm các thắng cảnh hồ Xuân 
Hương, hồ Tuyền Lâm, các di tích chùa 
chiền và nhà thờ, lên đỉnh Lang Biang 
ngắm toàn cảnh thành phố, hoặc chơi golf ở 
Đồi Cù. 
3.3. Thực trạng một số khu du lịch văn 
hóa cộng đồng 
Theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể 
thao và Du lịch Tỉnh Đăk Lăk, chỉ trong ba 
quý đầu năm 2016, tỉnh đã đón 480.000 
lượt du khách, trong đó chỉ có 45.000 lượt 
khách quốc tế, như vậy khách nội địa 
chiếm số đông tại đây. Đồng thời, thống kê 
của Cục Phát triển Du lịch cho biết 65% 
khách nội địa đến Đăk Lăk chọn các tour 
du lịch cộng đồng vì mục đích tham quan, 
tuy nhiên doanh thu chỉ đạt 364 tỷ đồng, 
bình quân 750.000đ/du khách. Con số 
khiêm tốn này cho thấy hiệu quả khai thác 
du lịch văn hóa tại đây rất kém. Được biết 
tỉnh đã chọn một số buôn làng để phát triển 
du lịch văn hóa cộng đồng như buôn Akô 
Dhông (thành phố Buôn Ma Thuột), buôn 
M’liêng, buôn Jun (Huyện Lăk), buôn 
Niêng (Huyện Buôn Đôn), Buôn H’Đinh 
(Huyện Cư M’gar). Vào tháng 10 năm 
2016, tác giả đã tìm đến khảo sát thực tế 
hai trong số các buôn này nhằm tìm hiểu 
nguyên nhân vì sao du lịch cộng đồng của 
tỉnh lại có doanh thu quá thấp như vậy. 
Buôn Akô Dhông của người Ê Đê tọa 
lạc ngay trong lòng thành phố Buôn Ma 
Thuột, cách Trung tâm Ngã Sáu chỉ hơn 2 
km về phía bắc. Đường sá trong buôn đều 
trải nhựa sạch sẽ, hàng rào cây cối được cắt 
tỉa gọn gàng. Ngoài sản xuất nông nghiệp, 
một số hộ dân đã biến ngôi nhà sàn phía 
trước thành nơi kinh doanh du lịch (shop 
lưu niệm, cà phê, nhà hàng, khách sạn,...) 
và xây nhà trệt phía sau để ở. Đặc biệt, tuy 
sống trong ngôi nhà mới nhưng một số gia 
đình vẫn duy trì mô hình đại gia đình, như 
nhà ông Ma Lin (43 hẻm Trần Nhật Duật) 
có 9 người con, trong đó có 3 người đã kết 
hôn và sinh con nhưng vẫn ở chung với cha 
mẹ, tính cả vợ chồng ông là bốn hộ ở chung 
một nhà. 
Buôn Akô Dhông có một vài khách sạn 
quy mô nhỏ, nổi bật nhất là khách sạn 
Yang Sing với dịch vụ lưu trú (29 phòng), 
nhà hàng (sức chứa 400 khách) và quán cà 
phê đều sử dụng kiểu nhà sàn trong khuôn 
viên cây xanh khá rộng rãi, mát mẻ. Quán 
cà phê Arul cách khách sạn Yang Sing vài 
trăm mét cũng được trang trí lấy cảm hứng 
từ kiến trúc và điêu khắc truyền thống địa 
phương. Cuối buôn là một con đường nhỏ 
rẽ vào khu du lịch sinh thái Đầu Nguồn có 
nhà mát câu cá, thư giãn và ăn uống được 
biến tấu từ nhà sàn tre lợp cỏ tranh. Năm 
2008, Nhà nước đã hỗ trợ kinh phí xây 
dựng thêm một ngôi nhà sàn chung làm nơi 
sinh hoạt cộng đồng của buôn và biểu diễn 
cồng chiêng phục vụ các tour du lịch văn 
hóa. 
Dân cư tại đây có sự đồng thuận rất 
cao với quy định riêng: gia đình nào xây 
dựng nhà trệt theo kiểu mới thì chỉ được 
phép xây phía sau nhà sàn truyền thống, 
nếu ai vi phạm sẽ bị hội đồng buôn phạt và 
buộc phải tháo dỡ, chính nhờ vậy mà buôn 
Akô Dhông hiện nay vẫn giữ được trên 50 
ngôi nhà sàn truyền thống, tuy không dài 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Hồ Thị Thanh Nhàn 
94 
như mô tả trong các tài liệu xưa. Nhìn 
chung, kiến trúc buôn thực chất chỉ còn giữ 
được nét truyền thống ở mặt tiền, còn bên 
trong đã hiện đại hóa, vì tính chất “nửa 
buôn làng, nửa thành thị”, đồng thời không 
có nhiều phòng ốc, dịch vụ giải trí, sản 
phẩm du lịch đặc sắc. Vì vậy, khách du lịch 
thường lưu trú tại các cơ sở trong trung tâm 
thành phố và chỉ đến Akô Dhông tham 
quan, câu cá thư giãn và ăn trưa. 
Cùng thời gian này, tác giả cũng đến 
khảo sát thực địa tại buôn Jun ven Hồ Lăk, 
Thị trấn Liên Sơn, cách trung tâm thành 
phố khoảng hơn 50km theo quốc lộ 27, có 
tuyến xe buýt rất thuận tiện. Cư dân nơi 
đây chủ yếu là người Mnông. So với Buôn 
Akô Dhông, đầu tư của các cơ sở du lịch tại 
Buôn Jun không cao. Khu du lịch cộng 
đồng quy mô nhất tại đây hiện nay có thể 
kể đến cơ sở Vân Long, tại đây chỉ có một 
nhà sàn duy nhất gồm 30 giường đôi, giá 
thuê 100 ngàn đồng/giường và các giường 
chỉ cách nhau một lối đi nhỏ. Nếu thuê 
nguyên căn, giá chỉ 2 triệu đồng/đêm. 
Ngoài ra, cơ sở này còn có một dãy nhà xây 
2 tầng đơn sơ, gồm nhiều phòng nhỏ, một 
nhà hàng phục vụ tối đa 80 khách, có show 
diễn cồng chiêng theo yêu cầu, giá 1,5 đến 
2 triệu đồng/show tùy theo số lượng 
chiêng. Dịch vụ lưu trú còn lại trong buôn 
Jun chủ yếu là các Home-stay tự phát, điều 
kiện vệ sinh ở các cơ sở này chưa được chú 
trọng, tập trung vào việc cho thuê chỗ ngủ, 
du khách cần ăn uống và giải trí đều phải tự 
liên hệ bên ngoài. Buôn Jun thu hút khoảng 
1.000 đến 1.500 khách du lịch mỗi năm 
nhờ cảnh quan Hồ Lăk cùng với đàn voi 
hơn 20 con của tư nhân cùng tham gia Hợp 
tác xã Du lịch Buôn Jun từ năm 2001, các 
cơ sở du lịch có thể thuê để tổ chức tour 
cưỡi voi tham quan các buôn văn hóa và 
ngắm cảnh hồ. 
Cách không xa buôn Jun là khu du lịch 
Lăk resort, tọa lạc trong khuôn viên cây 
xanh mát mẻ vốn thuộc về cảnh quan dinh 
Bảo Đại, nơi đây có hai nhà sàn làm nơi 
lưu trú, tuy nhỏ bé nhưng phong cách kiến 
trúc gần gũi với kiểu truyền thống hơn so 
với cơ sở du lịch Vân Long, giá thuê và nội 
thất đều tương đương, không có gì ngoài 
nệm, gối và các bóng đèn. Chiếm đa số tại 
Lăk resort là các bungalow đơn và đôi xây 
dựng theo kiểu kiến trúc hiện đại, giá 
phòng gấp đôi giá nhà sàn. Ngoài ra, resort 
này cũng cho thuê tất cả các phòng trong 
dinh với mức giá bungalow, nội thất dinh 
cũng thiếu đầu tư chăm sóc về trang trí nội 
thất. Khi tác giả khảo sát, chỉ một vài 
bungalow có khách lưu trú, nhà sàn và tất 
cả các phòng trong dinh đều đang bỏ trống, 
khu nhà hàng và hồ bơi đều rất vắng vẻ. 
Nhìn chung, chi phí du lịch cộng đồng 
ở Đăk Lăk rất rẻ, tuy nhiên, giá rẻ không có 
nghĩa là du khách sẽ hài lòng. Một số du 
khách ở buôn Jun khi được phỏng vấn đã 
thẳng thắn chia sẻ rằng họ đặc biệt thích 
thú với cảm giác ngồi trên lưng voi đi dạo 
quanh Hồ Lăk và sẽ giới thiệu cho bạn bè 
và người thân, tuy nhiên, họ không có hứng 
thú quay trở lại Hồ Lăk vì chất lượng các 
dịch vụ lưu trú, ẩm thực địa phương quá 
kém so với kỳ vọng, cảnh quan thiên nhiên 
đẹp nhưng không gian văn hóa không đặc 
biệt ấn tượng, ngoại trừ những show diễn 
cồng chiêng vào ban đêm. 
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
Kiến trúc truyền thống còn lại ở Tây 
Nguyên rất chân thực, tuy nhiên chất lượng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 03 / 2017 
95 
của các công trình này và cảnh quan buôn 
làng trên thực tế hiện nay thấp hơn nhiều so 
với mong đợi của du khách. Ngoài cao 
nguyên Đà Lạt có khí hậu mát mẻ quanh 
năm, phù hợp với nhu cầu nghỉ dưỡng, các 
cao nguyên còn lại muốn nâng cao doanh 
thu, không còn cách nào khác là phải nâng 
cao chất lượng dịch vụ du lịch cộng đồng. 
Trong số các cơ sở được khảo sát ở trên, 
mô hình kinh doanh của Lăk Tented Camp 
là đáng để tham khảo. Theo đó, các cơ sở 
lưu trú nên chọn vị trí có cảnh quan thiên 
nhiên đẹp, đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng 
nhu cầu nghỉ dưỡng hiện đại để có thể thu 
phí lưu trú cao, kèm theo các dịch vụ vui 
chơi giải trí nội bộ (chèo thuyền, leo núi), 
tuy nhiên về thẩm mỹ nên có ý tưởng kiến 
trúc và bài trí không gian liên quan đến văn 
hóa truyền thống địa phương, đồng thời vị 
trí tọa lạc phải rất gần với các khu bảo tồn 
văn hóa để có thể tổ chức cho du khách 
tham gia vào các hoạt động trải nghiệm 
trong các buôn làng. Chính quyền địa 
phương nên khuyến khích doanh nghiệp 
góp phần tu bổ các kiến trúc trong dân và 
chỉnh trang môi trường theo cách “nhà 
nước và nhân dân cùng làm”, nhằm khai 
thác du lịch trên một không gian văn hóa 
“thật”, sống động, hơn là giả lập những 
kiến trúc và cảnh quan truyền thống vô hồn 
trong mô hình kinh doanh khép kín. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2000), Tổng điều tra dân số và 
nhà ở Việt Nam năm 1999, Tổng cục thống kê, Hà Nội. 
2. Ban chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và 
nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục thống kê, Hà Nội. 
3.Ngô Văn Doanh (1995), Lễ hội bỏ mả Bắc Tây Nguyên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
4. Lưu Hùng (1994), Buôn làng cổ truyền xứ Thượng, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
5. Lê Văn Minh (2016), Xu hướng du lịch toàn cầu hiện nay và những vấn đề đặt ra đối 
với phát triển du lịch tỉnh Gia Lai, Hội thảo Tiềm năng và phát triển du lịch tỉnh Gia Lai, 
Ủy ban Nhân dân Tỉnh Gia Lai. 
6. Nguyễn Thị Kim Vân (2013), Tín ngưỡng và tôn giáo dân tộc Bahnar, Jrai, Nxb. Văn 
hóa dân tộc, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 20/02/2017. Ngày biên tập xong: 29/5/2017. Duyệt đăng: 02/6/2017 

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_kien_truc_truyen_thong_tay_nguyen_trong_qua_trinh_ph.pdf