Bảo tồn chức năng sinh sản trong điều trị ung thư
Điều trị bệnh lý ác tính cũng như một số tình trạng lành tính hoặc tiền ung có thể phải phẫu thuật cắt bỏ cơ
quan sinh sản hoặc sử dụng thuốc hóa trị hoặc xạ trị gây độc tính sinh sản. Điều này đưa đến mất khả năng
sinh sản, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống.
Tất cả các bệnh nhân cần cân nhắc điều trị độc sinh dục hoặc phẫu thuật cắt bỏ sinh dục và có mong
muốn sinh sản trong tương lai cần được khám với chuyên gia nội tiết sinh sản để thảo luận về các chọn lựa
bảo tồn sinh sản.
●Phương pháp được ưa chuộng nhất để bảo tồn khả năng có con ở phụ nữ có nguy cơ suy sinh dục là trữ
lạnh phôi.
●Khi không thể trữ lạnh phôi, trữ lạnh trứng trưởng thành trong ống nghiệm là một chọn lựa hợp lý.
●Trữ lạnh mô buồng trứng đang nghiên cứu, không có sẵn rộng rãi, có hiệu quả không chắc chắn.
●Nếu trữ lạnh phôi hoặc trứng không khả thi, các chọn lựa thay thế để bảo tồn sinh sản thay đổi dựa trên
điều trị dự kiến.
Với kế hoạch và can thiệp thích hợp trước điều trị, kế hoạch sinh sản sinh học có thể cho nhiều bệnh nhân
nam và nữ sẽ mất chức năng sinh sản do phẫu thuật hoặc độc tính sinh dục. Chủ đề này sẽ bàn về các biện
pháp bảo tồn chức năng sinh sản ở phụ nữ trẻ nhận các tác nhân có khả năng có độc tính sinh dục.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn chức năng sinh sản trong điều trị ung thư
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 28 BẢO TỒN CHỨC NĔNG SINH SẢN TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHAN THỊ HỒNG ĐỨC1 TÓM TẮT Điều trị bệnh lý ác tính cũng như một số tình trạng lành tính hoặc tiền ung có thể phải phẫu thuật cắt bỏ cơ quan sinh sản hoặc sử dụng thuốc hóa trị hoặc xạ trị gây độc tính sinh sản. Điều này đưa đến mất khả nĕng sinh sản, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống. Tất cả các bệnh nhân cần cân nhắc điều trị độc sinh dục hoặc phẫu thuật cắt bỏ sinh dục và có mong muốn sinh sản trong tương lai cần được khám với chuyên gia nội tiết sinh sản để thảo luận về các chọn lựa bảo tồn sinh sản. ●Phương pháp được ưa chuộng nhất để bảo tồn khả nĕng có con ở phụ nữ có nguy cơ suy sinh dục là trữ lạnh phôi. ●Khi không thể trữ lạnh phôi, trữ lạnh trứng trưởng thành trong ống nghiệm là một chọn lựa hợp lý. ●Trữ lạnh mô buồng trứng đang nghiên cứu, không có sẵn rộng rãi, có hiệu quả không chắc chắn. ●Nếu trữ lạnh phôi hoặc trứng không khả thi, các chọn lựa thay thế để bảo tồn sinh sản thay đổi dựa trên điều trị dự kiến. Với kế hoạch và can thiệp thích hợp trước điều trị, kế hoạch sinh sản sinh học có thể cho nhiều bệnh nhân nam và nữ sẽ mất chức nĕng sinh sản do phẫu thuật hoặc độc tính sinh dục. Chủ đề này sẽ bàn về các biện pháp bảo tồn chức nĕng sinh sản ở phụ nữ trẻ nhận các tác nhân có khả nĕng có độc tính sinh dục. ABSTRACT Treatment of malignancy, as well as some precancerous and benign conditions, may necessitate surgical resection of reproductive organs or administration of gonadotoxic chemotherapy or radiation therapy. This often leads to infertility, which is a major quality of life concern. All patients who are considering gonadotoxic therapy or gonad-removing surgery and who desire future fertility are referred to a reproductive endocrinologist for a discussion of fertility preservation options. ●The most well-established method for preservation of child-bearing potential in women at risk of gonadal failure is embryo cryopreservation. ●When embryo cryopreservation is not feasible, cryopreservation of oocytes matured in vivo is a reasonable option. ●Cryopreservation of ovarian tissue is investigational, is not widely available, and has an uncertain efficacy. ●If embryo or oocyte cryopreservation is not feasible, alternate options for fertility preservation vary based on the planned treatment. With appropriate pretreatment planning and intervention, biologic parenthood is possible for many men and women who will lose reproductive function because of surgery or gonadotoxic treatment. This topic will discuss several measures for preserving fertility in young women receiving potentially gonadotoxic agents. The approach to fertility preservation in healthy women who wish to delay child-bearing is discussed separately. Key words: Preserving fertility, embryo cryopreservation, oocyte cryopreservation, GnRH agonists. 1 TS.BS. Phó Trưởng Bộ môn Ung Bướu - Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch - BS Điều trị Khoa Nội 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 29 ĐẶT VẤN ĐỀ Điều trị bệnh lý ác tính, một số bệnh lành tính hoặc tiền ung có thể phải phẫu thuật cắt bỏ cơ quan sinh sản, sử dụng thuốc hóa trị hoặc xạ trị gây độc tính sinh sản. Điều này đưa đến mất khả nĕng sinh sản, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống. Với kế hoạch và can thiệp thích hợp trước điều trị, kế hoạch sinh sản sinh học có thể tạo cơ hội cho nhiều bệnh nhân mất chức nĕng sinh sản do phẫu thuật hoặc độc tính sinh dục. Chủ đề này sẽ bàn về các biện pháp bảo tồn chức nĕng sinh sản ở phụ nữ trẻ nhận các tác nhân có khả nĕng có độc tính sinh dục. TƯ VẤN TRƯỚC ĐIỀU TRỊ Trước khi bắt đầu điều trị có khả nĕng có độc tính sinh dục, bác sĩ nên thảo luận nguy cơ mất khả nĕng sinh sản gây ra do điều trị và các can thiệp để bảo tồn khả nĕng sinh sản. Bất kỳ khi nào có thể, tất cả các bệnh nhân mới được chẩn đoán nên gặp chuyên gia nội tiết sinh sản và vô sinh nếu sinh sản là mối quan tâm, thường là trước khi điều trị. Trong một nghiên cứu hồi cứu 303 bệnh nhân ung thư vú ≤40 tuổi, 80 bệnh nhân (26%) có thảo luận với bác sĩ về vấn đề sinh sản, nhưng gần 90% những bệnh nhân này theo đuổi các tư vấn bảo tồn chức nĕng sinh sản sau đó. Việc thảo luận này nên thực hiện sớm sau chẩn đoán vì các can thiệp để bảo tồn chức nĕng sinh sản cần thời gian và có thể gây trì hoãn điều trị. Nên giới thiệu bệnh nhân đến bác sĩ chuyên khoa sớm. Bảo tồn chức nĕng sinh sản cần được cá thể hóa. Tiếp cận tối ưu tùy thuộc vào loại điều trị độc tính sinh dục (xạ trị so với hóa trị), thời gian có sẵn, tuổi bệnh nhân, các bệnh lý đặc biệt, bệnh nhân có người hôn phối hay không, chi phí điều trị, vấn đề lâu dài (lưu trữ và sử dụng trứng hoặc phôi đông lạnh). PHƯƠNG PHÁP BẢO TỒN SINH SẢN Ở NỮ Không có các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên lớn để đánh giá phần lớn các can thiệp được mô tả dưới đây, cũng như không có các nghiên cứu theo dõi lâu dài đánh giá các tác động có thể có của điều trị lên khả nĕng sinh sản. Nhiều bác sĩ ung thư vẫn còn cảnh báo việc sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) truyền thống ở những phụ nữ có bệnh lý ác tính phụ thuộc estrogen, vì ART gồm kích thích buồng trứng và gây ra nồng độ estrogen tĕng cao. Sự hiện diện của ung thư có thể không ảnh hưởng dự trữ buồng trứng hoặc đáp ứng với gonadotropins trước điều trị độc sinh dục, nhưng dữ liệu còn bàn cãi. TRỮ LẠNH PHÔI Trữ lạnh phôi là kỹ thuật hiệu quả để bảo tồn khả nĕng sinh sản; trữ lạnh sau khi rã đông phôi sử dụng được khoảng 20% trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản. Trữ lạnh noãn trưởng thành cũng được chứng minh, trong khi trữ lạnh noãn chưa trưởng thành hoặc mô buồng trứng là các tiếp cận hứa hẹn với các báo cáo có nhiều trẻ sinh sống nhưng vẫn còn đang nghiên cứu. Trữ lạnh toàn bộ buồng trứng với nguyên cuống và mạch máu nuôi cũng được nghiên cứu và chưa có kết quả. Trữ lạnh phôi và trứng có thể được nhiều nĕm. Phôi đông lạnh sống còn sau quá trình rã đông tốt hơn trứng hiến tặng (>90% sống còn so với 50- 70%). Tại một trung tâm kinh nghiệm, tỉ lệ sinh sống ở bệnh nhân sử dụng trứng đông lạnh thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) gần 21% so với 60% bệnh nhân sử dụng IVF với trứng tươi. Do đó, trữ lạnh một phôi được ưa chuộng hơn trữ lạnh trứng khi có thể. Tuy nhiên, trữ lạnh phôi hoặc trứng không đảm bảo bảo tồn sinh sản vì các bất thường nhiễm sắc thể hiện diện ở một số trứng, ngay cả ở phụ nữ trẻ. Phôi Trữ lạnh phôi là một kỹ thuật tốt để trữ các phôi thừa của bệnh nhân thực hiện IVF. Trữ lạnh phôi có thể không dễ dàng cho mọi bệnh nhân vì các lý do sau: Chống chỉ định thời gian Vì điều trị độc sinh dục thường thực hiện ngay sau khi chẩn đoán ung thư, do đó không đủ thời gian kích thích buồng trứng và phục hồi noãn, thường cần 2-3 tuần. Với tình trạng khẩn cấp, phục hồi noãn suốt pha hoàng thể và trưởng thành trong ống nghiệm (thay vì trưởng thành tự nhiên) sau đó đông lạnh trong ống nghiệm và trữ lạnh phôi có thể là một chọn lựa. Trong chu kỳ letrozole, kích thích buồng trứng có thể bắt đầu tại một thời điểm ngẫu nhiên trong chu kỳ mà không làm ảnh hưởng tỉ lệ sinh sản. Khi cố gắng tĕng số lượng trứng/phôi, một nhóm thực hiện thành công 2 chu kỳ kích thích liên tiếp với tính an toàn tương tự so với phụ nữ trải qua 1 chu kỳ đơn độc. Một nghiên cứu khác IVF tương tự có tỉ lệ thành công từ trứng có được sau kích thích buồng trứng bắt đầu ở chu kỳ 2 so với chu kỳ ngày 15. Không khuyến cáo kích thích buồng trứng trước hóa trị vì buồng trứng sau kích thích và chất lượng của noãn giảm với hóa trị. Hóa trị có thể tạo ra vỡ chuỗi xoắn đôi DNA trong noãn. Do đó, khuyến cáo phụ nữ có hóa trị nên chờ 6 tháng trước khi cố gắng có thai. Thời gian này cho phép các nang có tổn thương DNA được thải đi khỏi buồng trứng và nang mới được tạo ra từ các nang nguyên thủy còn sống sót. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 30 Không có người hôn phối IVF có thể chỉ cung cấp cho những phụ nữ có sẵn người hôn phối, trừ khi người phụ nữ chọn lựa sử dụng tinh trùng hiến tặng. Vấn đề hợp pháp và đạo đức Kích thích buồng trứng và IVF có thể không được chấp nhận về đạo đức với các trẻ em sau hành kinh bị ung thư. Một số nơi phản đối việc sử dụng phôi trữ lạnh và nó được xem là bất hợp pháp ở nhiều nước (ví dụ: Đức, Thụy sĩ, Ý) Bướu nhạy nội tiết Có thể bị kích thích do nồng độ estrogen cao khi buồng trứng bị kích thích. Noãn bào Noãn trưởng thành: Trữ lạnh noãn trưởng thành là một chọn lựa ở các phụ nữ không có người hôn phối mà không sử dụng tinh trùng hiến tặng cho IVF. Ngược lại với trữ lạnh phôi và tinh trùng, trữ lạnh noãn là một kỹ thuật khó hơn vì noãn chứa nhiều nước, nhạy cảm với chấn thương lạnh do sự tạo thành các tinh thể đá. Trụ giảm phân, khung tế bào, hạt vỏ và màng trong suốt là các cấu trúc đặc biệt có nguy cơ do đông lạnh. Bằng cách sử dụng kỹ thuật đông lạnh đặc biệt, khoảng 70% nang noãn trữ đông sống sót từ quá trình rã đông, có thể lên đến 90%. Trong các nghiên cứu ngẫu nhiên, tỉ lệ mang thai với nang noãn trưởng thành trữ đông thường tương tự với noãn tươi. 2 nghiên cứu quan sát lớn báo cáo tỉ lệ thành công nhưng thấp hơn so với trứng tươi. Dựa trên những dữ liệu này, nĕm 2013, ASRM (the Practice Committees of the American Society for Reproductive Medicine) và SART (Society for Assisted Reproductive Technology) kết luận trữ lạnh noãn trưởng thành là chọn lựa hợp lý cho bảo tồn sinh sản khi có chỉ định và trữ lạnh phôi không thể được. Hai phương pháp trữ lạnh là kỹ thuật “lạnh chậm” và thủy tinh hóa (thay đổi nước thành đặc mà không tạo ra tinh thể đá bằng cách sử dụng “đông lạnh” rất nhanh và đông đặc trong suốt). Đông đặc trong suốt có vẻ thành công hơn đông lạnh chậm, nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn để xác định có phương pháp nào ưu thế hơn hay không. Noãn chưa trưởng thành: Noãn chưa trưởng thành trong ống nghiệm (IVM) hoặc trước đông lạnh hoặc sau rã đông; tuy nhiên, noãn tươi có tỉ lệ IVF cao hơn IVM. Noãn chưa trưởng thành trong ống nghiệm là kỹ thuật đang nghiên cứu. So với kích thích buồng trứng truyền thống, các thuận lợi gồm tránh được liều cao gonadotropins, các nguy cơ đi kèm và chi phí cao, cũng như tiếp xúc của bướu với estrogen liều cao. Hơn nữa, noãn chưa trưởng thành có thể chống lại chấn thương do lạnh hơn noãn trưởng thành do chúng không chứa trụ hậu kỳ. Truy nhiên, tỉ lệ cấy mỗi phôi chuyển (5,5 - 21,6%) thấp hơn có ý nghĩa và mất phôi chuyển cao hơn IVF truyền thống. Một số ít thai kỳ từ noãn rã đông được báo cáo, cần đánh giá lại các kết quả này. Toàn bộ buồng trứng và cuống: trữ lạnh toàn bộ buồng trứng với mạch máu nuôi có thể giảm mức độ mất nang trứng suốt thời gian thiếu máu cục bộ sau cấy ghép, nhưng có khó khĕn trong bảo tồn cả nang trứng và cuống mạch buồng trứng. Hiện tại, không có kỹ thuật tốt để trữ lạnh hiệu quả cả buồng trứng và cuống mạch của nó. Mô buồng trứng: Trữ lạnh mô buồng trứng sau đó ghép khác chỗ (như thành bụng, cẳng tay, thành ngực) hoặc đúng vị trí (như mô buồng trứng còn lại hoặc phúc mạc chậu) là một tiếp cận đang nghiên cứu, chủ yếu vì các dữ liệu lâu dài không được thực hiện như trữ lạnh phôi. Bệnh nhân cần các điều trị độc sinh dục và các bé gái trước tuổi dậy thì là những ứng cử viên cho tiếp cận này. Khi so sánh với trữ lạnh phôi, các thuận lợi gồm không kích thích buồng trứng cũng như không cần người hôn phối và mô buồng trứng ghép có thể tiếp tục tiết hormone. Tuy nhiên, quay lại chức nĕng buồng trứng sau ghép mô buồng trứng với mô tươi dường như dễ dàng hơn mô rã đông. Ở động vật, ghép mô buồng trứng rã đông gây mất nang trứng có ý nghĩa vì tổn thương do thiếu máu cục bộ mô ghép. Mô buồng trứng nên lấy trước hóa trị vì dự trữ buồng trứng giảm với mỗi chu kỳ hóa trị Trong 1 nghiên cứu bệnh nhân trữ lạnh mô buồng trứng để bảo tồn sinh sản, số nang nguyên thủy ở bệnh nhân có hóa trị thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng không hóa trị (5,4 ± 1,3 so với 9,6 ± 2,2), và những bệnh nhân dùng tác nhân alkylating có số lượng nang trứng nguyên thủy thấp hơn so với những người điều trị tác nhân không phải alkylating (2,9 ± 1 so với 7,9 ± 1,6). Với liều đơn độc cyclophosphamide khi điều trị ung thư vú, nang trứng sẽ chết tế bào theo lập trình bắt đầu sớm sau 12 giờ dùng thuốc. Trước 48 giờ, 93% dự trữ buồng trứng bị mất do cơ chế chết tế bào theo lập trình. Chọn lựa bệnh nhân: Tiêu chuẩn Edinburgh là tiêu chuẩn chặt chẽ để chọn lựa ứng cử viên cho trữ lạnh buồng trứng. Tiêu chuẩn này giới hạn ở những bé gái/ phụ nữ <35 tuổi chưa có con và với ít nhất 50% nguy cơ suy buồng trứng sau điều trị ung thư. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 31 Chống chỉ định và nguy cơ: bảo tồn mô buồng trứng không là chọn lựa cho các phụ nữ ung thư buồng trứng hoặc có nguy cơ cao phát triển ung thư buồng trứng. Phụ nữ có đột biến gen BRCA 1 và BRCA 2 có nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng 60% và trong suốt cuộc đời 10 - 20%. Những phụ nữ này cần cắt buồng trứng dự phòng (thường sau khi hoàn tất sinh đẻ) để giảm nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng hoặc là một phần của kế hoạch điều trị ung thư vú. Tuy nhiên giả thuyết mô buồng trứng đông lạnh khi rất trẻ và ở nguy cơ rất thấp bị ung thư buồng trứng, trữ lạnh mô buồng trứng có thể được cân nhắc. Ở bệnh nhân ung thư vú thể ống xâm lấn là phân nhóm thường gặp nhất, ít khi di cĕn xa đến buồng trứng, ngược lại với ung thư vú tiểu thùy, thường có suốt nhiều nĕm sau đó. Khi có vấn đề liên quan đến buồng trứng có ý nghĩa, tiến trình trữ lạnh không nên thực hiện với mục đích ghép tự thân trong tương lai. Nên đánh giá mô học kỹ lưỡng trên phần mô buồng trứng thu được để loại trừ vi di cĕn. Sử dụng các dấu hiệu phân tử để phát hiện tối đa số lượng nhỏ các tế bào di cĕn ở mô khi có tồn tại các dấu ấn đó. BẢO VỆ CHỨC NĔNG BUỒNG TRỨNG TỰ NHIÊN Bất cứ khi nào có thể, tất cả các bệnh nhân mới được chẩn đoán và có vấn đề sinh sản nên gặp chuyên gia sinh sản, ưu tiên trước điều trị, để thảo luận các chọn lựa bảo tồn chức nĕng sinh sản. Với bệnh nhân có xạ trị Các nang trứng nhạy cảm với tổn thương DNA từ tia ion hóa. Xạ trị buồng trứng có thể làm teo buồng trứng và giảm số lượng nang trứng. Mức độ tổn thương buồng trứng tùy thuộc vào tuổi bệnh nhân và liều xạ phân phối đến buồng trứng, phức tạp hơn nếu có hóa trị. Điều trị nội khoa để giảm tổn thương buồng trứng do xạ trị không thành công ở người. Chuyển vị (oophoropexy) Khi trường chiếu xạ được lên kế hoạch để điều trị ung thư, các chuyên gia xạ trị và phẫu thuật viên sinh sản có thể làm việc cùng nhau để lập kế hoạch phẫu thuật di chuyển buồng trứng đến một vị trí sẽ được bảo vệ tốt nhất khỏi trường chiếu xạ. Ở những bệnh nhân bướu khô ... u ghép khác vị trí với mô buồng trứng trữ đông được báo cáo ở 1 bệnh nhân trước đó được cắt buồng trứng 2 bên vì bướu tế bào hạt. Sau ghép mô buồng trứng rã đông vào thành ngực trước, bệnh nhân đã được kích thích buồng trứng với 2 noãn thu được sau đó thực hiện IVF với ICSI. Ở bệnh nhân hóa trị, ghép tự thân khác vị trí buồng trứng hoặc mô buồng trứng tươi sẽ không hữu ích vì hiệu quả của hóa trị là toàn thân. Tuy nhiên ghép mô buồng trứng đông lạnh tự thân khác vị trí sẽ là chọn lựa ở những bệnh nhân này. Vì tuổi thọ của mô ghép này có giới hạn, tiến trình ghép tự thân của mô buồng trứng đông lạnh sẽ không nên thực hiện đến khi bệnh nhân sẵn sàng mang thai. Điều này cần 2-3 tháng trước khi ghép mô buồng trứng để bắt đầu chức nĕng. Ghép tự thân khác vị trí lần thứ hai có thể thực hiện nếu chức nĕng buồng trứng suy. Ngoài các tình huống lâm sàng đã nêu, ghép khác vị trí có thể sử dụng trong Khi có nguy cơ cao di cĕn xa, hoặc bệnh tái phát. Ở những bệnh nhân như thế, mô buồng trứng cần đặt ở một vị trí có thể bảo vệ khỏi gieo rắc tại chỗ của bướu và dễ dàng theo dõi và được lấy đi khi cần. Trong một vùng chậu không thích hợp cho ghép đúng vị trí do xạ trị trước đó hoặc tạo sẹo nghiêm trọng. Khi chi phí và sự xâm lấn tại đúng vị trí cấy ghép là vấn đề cần quan tâm. Khi cần chích trực tiếp các tác nhân vào mô buồng trứng ghép để tĕng sự sống còn mô ghép. Ghép đúng vị trí không tự thân Có thuận lợi về mạch máu nội tại và hệ thống thần kinh để giúp bảo tồn chức nĕng của mô ghép buồng trứng hoặc buồng trứng tươi. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 34 Hiến tặng trứng có thể thực tế hơn khi ghép buồng trứng không tự thân vì 2 bất lợi chính của tiếp cận này Khi mô buồng trứng lấy đi từ 1 người hiến, người hiến có nguy cơ cao suy buồng trứng chưa trưởng thành. Có ít ứng cử viên cho tiến trình này vì cần xác định miễn dịch của người hiến. Một trong các yếu tố giới hạn sự thành công trong ghép mô buồng trứng là mất khối nang trứng trong pha tái cấu trúc mạch máu. Một nghiên cứu sử dụng sphingosine-1-phosphate (S1P) có thể làm tĕng tốc cấu trúc mạch máu mô ghép và cải thiện có ý nghĩa sống còn nang trứng. Nghiên cứu khác cho thấy điều trị ghép buồng trứng với huyết tương giàu tiểu cầu hoặc làm mát 5 độ Celsius trong 24 giờ trước khi trữ lạnh có lợi ích cho trữ lạnh mô buồng trứng người. Các hướng tương lai Ghép tử cung: Ghép tử cung có thể có lợi ích cho bệnh nhân có điều trị làm tổn thương tử cung (ví dụ: xạ trị vùng chậu) hoặc cho phụ nữ có bất thường tử cung bẩm sinh. Tuy nhiên kỹ thuật này đang thực nghiệm và không phải không có nguy cơ. CÁC VẤN ĐỀ Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ Với bệnh nhân mong muốn có thai trong tương lai, giới thiệu bệnh nhân đến chuyên gia nội tiết sinh sản càng sớm càng tốt khi ung thư vú được chẩn đoán để các can thiệp bảo tồn chức nĕng sinh sản thực hiện được trong khi tối thiểu hóa bất kỳ trì hoãn nào giữa chẩn đoán và bắt đầu điều trị. Một số quy trình cần 2-3 tuần để hoàn tất; về lý tưởng, các quá trình bảo tồn sinh sản có thể thực hiện trong thời gian giữa phẫu thuật và bắt đầu hóa trị. Kích thích buồng trứng: Có khoảng thời gian trống điển hình khoảng 4-6 tuần sau phẫu thuật ung thư vú và bắt đầu hóa trị. Mặc dù noãn có thể lấy suốt 1 chu kỳ tự nhiên, sản lượng cực kỳ thấp do vậy kích thích buồng trứng có kiểm soát được thực hiện thường quy. Khoảng thời gian 4-6 tuần là đủ để hoàn tất 1 chu kỳ kích thích và lấy trứng. Thúc đẩy bệnh nhân đến chuyên gia nội tiết sinh sản có thể cho phép thời gian đủ cho 2 chu kỳ, kết quả là tĕng số lượng các trứng đạt được để trữ lạnh trứng hoặc phôi. Các protocol kích thích buồng trứng cổ điển thường cho kết quả mức độ estradiol cao gấp 10 lần so với chu kỳ bình thường. Đây là một mối quan tâm ở bệnh nhân ung thư vú có các tế bào có thụ thể estrogen dương tính. Ngay cả bệnh nhân ung thư vú thụ thể estrogen âm tính cũng có thể đáp ứng với estrogen, đặc biệt khi tiếp xúc với nồng độ estrogen cao. Vì lý do này, khuyến cáo bệnh nhân ung thư vú nên được tiếp xúc tối thiểu estrogen trong quá trình bảo tồn sinh sản. 2 tác nhân thường được sử dụng để kích thích buồng trứng có kiểm soát ở những bệnh nhân này là letrozole và tamoxifen. Bệnh nhân ung thư vú có kích thích buồng trứng với các tác nhân này dường như không có nguy cơ gia tĕng tái phát hoặc tử vong, nhưng dữ liệu bị giới hạn. Ức chế aromatase: Ức chế aromatase (như letrozole) kết hợp với gonadotropin nổi lên như một chất kích thích buồng trứng mới khi thực hiện IVF ở bệnh nhân ung thư vú. Thuận lợi của kích thích buồng trứng với ức chế aromatase là nồng độ estradiol đỉnh gần với các chu kỳ bình thường. Khuyến cáo protocol letrozole-follicle stimulating hormone (FSH) cho bệnh nhân ung thư vú sẽ được thực hiện IVF cho trữ lạnh phôi hoặc noãn vì các kết quả kết hợp cho thấy tiếp xúc estradiol thấp và phục hồi trứng cao; do đó về lý thuyết, các thuốc này sẽ có tính an toàn cao. Anastrozole có vẻ làm cho estradiol tĕng cao hơn letrozole. Hiệu quả: Hiệu quả và giá trị của protocol letrozole-FSH để kích thích buồng trứng được phác thảo trong một nghiên cứu tiền cứu so sánh letrozole/ liều thấp- FSH (LetFSH-IVF), tamoxifen/liều thấp - FSH (TamFSH-IVF), và chỉ tamoxifen. LetFSH-IVF có kết quả sản lượng phôi cao nhất (5,3 ± 0,8 so với 3,8 ± 0,8 với TamFSH-IVF và 1,3 ± 0,2 với Tam-IVF) và mức độ đỉnh estradiol thấp nhất (380 ± 57 so với 419 ± 39 với Tam-IVF và 1182 ± 271pg/mL với TamFSH-IVF). Các nghiên cứu sau đó chứng minh rằng kích thích letrozole/ FSH giảm gonadotropin khoảng 44% so với nhóm chứng hồi cứu ghép cặp tuổi. Độ dài của kích thích, số phôi đạt được và tỉ lệ sinh sản tương tự giữa 2 nhóm. Sử dụng một GnRH agonist làm khởi phát việc tĕng sản lượng các noãn trưởng thành và phôi trong các chu kỳ ức chế aromatase; giảm tiếp xúc estradiol sau đó, cũng như nguy cơ hội chứng kích thích quá mức ở bệnh nhân ung thư vú. Tính an toàn: Tính an toàn của protocol letrozole-FSH được mô tả trong một nghiên cứu tiền cứu 215 bệnh nhân ung thư vú trong đó 79 bệnh nhân được chọn kích thích buồng trứng có kiểm soát với letrozole và gonadotropins và 136 bệnh nhân không thực hiện bảo tồn chức nĕng sinh sản (nhóm chứng). Mặc dù thời gian giữa phẫu thuật và bắt đầu hóa trị dài hơn bệnh nhân làm IVF so với những người không thực hiện (trung bình 45 so với 34 NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 35 ngày), hazard ratio cho tái phát của bệnh nhân thực hiện IVF là 0,56 (95% CI 0,17-1,9); sống còn không khác biệt có ý nghĩa so với nhóm chứng. Nhóm tương tự sau đó được thực hiện một nghiên cứu đánh giá tính an toàn và tính khả thi của việc cho phép 2 chu kỳ kích thích buồng trứng liên tiếp ở bệnh nhân ung thư vú. Sản lượng noãn của 2 chu kỳ cao hơn 1 chu kỳ (16 so với 9) và phôi phát sinh (6,4 so với 3,7), không kéo dài có ý nghĩa khoảng thời gian từ phẫu thuật đến khi hóa trị (64 so với 58 ngày). Tỉ lệ tái phát sau khoảng thời gian theo dõi trung bình 59 tháng tương tự giữa 2 nhóm (0/17 bệnh nhân 2 chu kỳ so với 2/49 bệnh nhân 1 chu kỳ). Tỉ lệ có thai: Trong 1 nghiên cứu 131 bệnh nhân ung thư vú ≤ giai đoạn 3 được kích thích buồng trứng với letrozole để bảo tồn sinh sản, tỉ lệ sinh sống tương tự với 33 bệnh nhân cố gắng chuyển phôi so với dữ liệu ghép cặp tuổi và nĕm. 17/33 bệnh nhân có ít nhất 1 trẻ sinh sống cho tỉ lệ bảo tồn sinh sản 51,5% trên mỗi phụ nữ cố gắng có thai. Tuổi trung bình bệnh nhân ở thời điểm kích thích buồng trứng là 35,8 ± 4,1 tuổi và tuổi trung bình bệnh nhân tại thời điểm trữ lạnh phôi chuyển là 41,5 ± 4,3 tuổi. Trung vị thời gian từ lúc bắt đầu điều trị đến khi chuyển phôi là 5,25 nĕm. Hơn phân nửa số trường hợp có mang thai hộ. Không có bất thường bẩm sinh hoặc di tật nào được báo cáo trong 25 trẻ em sau thời gian theo dõi trung bình 40,4 ± 26,4 tháng. Một vấn đề quan tâm trong ung thư vú là người mang đột biến gen BRCA1 là những bệnh nhân có tỉ lệ đáp ứng letrozole-FSH thấp hơn những người không đột biến (3 so với 33%), và tạo ra trứng ít hơn (7 so với 12). Nhiều nghiên cứu cho thấy người mang đột biến BRCA mãn kinh sớm hơn người không đột biến. Ngoài ra, một nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có đột biến BRCA1 đặc biệt có mức độ anti-Müllerian hormone (AMH) và số lượng các nang trứng nguyên thủy thấp hơn. Nghiên cứu tương tự cho thấy khiếm khuyết sửa chữa DNA ở người có trứng đột biến BRCA dễ bị tổn thương với các kích ứng độc gen (như gốc oxy hóa và hóa trị), giải thích cơ chế giảm dự trữ buồng trứng ở những người mang đột biến BRCA. Trong một nghiên cứu cắt ngang trên gần 700 bệnh nhân, mức độ AMH ở người mang đột biến BRCA1 là 25% thấp hơn so với không đột biến. Tamoxifen: Tamoxifen, điều hòa thụ thể estrogen chọn lọc với hoạt động trên mô vú, có hiệu quả bằng clomiphene citrate trong điều trị vô sinh không rụng trứng và do đó dường như có lợi cho bệnh nhân ung thư vú. Điều này được mô tả trong một nghiên cứu tiền cứu xem xét tính hiệu quả và an toàn của tamoxifen trong kích thích buồng trứng ở bệnh nhân ung thư vú và sau đó so sánh các kết quả này với một nghiên cứu hồi cứu có chu kỳ IVF tự nhiên. Bệnh nhân được kích thích với tamoxifen có các chu kỳ bị hủy thấp hơn (1/15 so với 4/9), và số trứng trưởng thành cao hơn (1,6 ± 0,3 so với 0,7 ± 0,2 trong nhóm chứng) và tổng số phôi (1,6 ± 0,3 so với 0,6 ± 0,2 trong nhóm chứng). Trong 12/12 bệnh nhân được kích thích với tamoxifen, một phôi có thể được tạo ra; ngược lại, chu kỳ IVF tự nhiên có kết quả tạo phôi chỉ trong 3 bệnh nhân. Mặc dù nồng độ đỉnh estradiol trong nhóm tamoxifen cao hơn nhóm chứng không kích thích, tỉ lệ tái phát ung thư không tĕng sau thời gian theo dõi trung bình 2 nĕm. Các chọn lựa cho bệnh nhân không thể thực hiện kích thích buồng trứng: Với bệnh nhân ung thư vú có bướu lớn hoặc tiến triển tại chỗ (như dạng viêm), hóa trị tân hỗ trợ cần bắt đầu ngay lập tức sau khi chẩn đoán và trước khi phẫu thuật. Khi kích thích buồng trứng không thể vì thời gian và vấn đề an toàn, thu hoạch trứng chưa trưởng thành là một chọn lựa. Người mang BRCA và các bệnh nhân khác có các hội chứng ung thư vú-buồng trứng di truyền không là các ứng cử viên tối ưu cho trữ lạnh mô buồng trứng để cấy ghép sau đó, vì nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng và xuất độ cao ung thư buồng trứng. Hiệu quả của đè nén gonadal còn bàn cãi. TÓM TẮT VÀ KHUYẾN CÁO Tất cả các bệnh nhân cần cân nhắc điều trị độc sinh dục hoặc phẫu thuật cắt bỏ sinh dục và có mong muốn sinh sản trong tương lai cần được khám với chuyên gia nội tiết sinh sản để thảo luận về các chọn lựa bảo tồn sinh sản. Phương pháp được ưa chuộng nhất để bảo tồn khả nĕng có con ở phụ nữ có nguy cơ suy sinh dục là trữ lạnh phôi. Khuyến cáo việc trữ lạnh phôi này cho tất cả bệnh nhân thích hợp hơn trữ lạnh trứng hoặc các kỹ thuật khác. Khi không thể trữ lạnh phôi, trữ lạnh trứng trưởng thành trong ống nghiệm là một chọn lựa hợp lý. Trữ lạnh mô buồng trứng đang nghiên cứu, không có sẵn rộng rãi, hiệu quả không chắc chắn. Tuy nhiên, số lượng mang thai do kỹ thuật này đang tĕng. Có sự thuận lợi của bảo tồn chức nĕng nội tiết buồng trứng cũng như khả nĕng có thai. Trữ lạnh mô buồng trứng không phải là chọn lựa cho bệnh nhân ung thư buồng trứng hoặc có nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng cao. NHI - PHỤ KHOA - NIỆU TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 36 Nếu trữ lạnh phôi hoặc trứng không khả thi, các chọn lựa thay thế để bảo tồn sinh sản thay đổi dựa trên điều trị dự kiến. Với bệnh nhân dự kiến xạ trị mà không hóa trị, chuyển vị buồng trứng ra khỏi trường chiếu xạ có thể thực hiện. Với bệnh nhân hóa trị, khuyến cáo không sử dụng gonadotropin-releasing hormone (GnRH) agonist để bảo tồn chức nĕng sinh sản (Grade 2C). Mặc dù một số thầy thuốc sử dụng điều trị này, bệnh nhân phải hiểu rằng lợi ích không được chứng minh và có nguy cơ trên lý thuyết. Hiến tặng trứng và sử dụng người mang thai hộ hoặc thay thế là các phương pháp thành công để điều trị vô sinh do suy cơ quan ở phụ nữ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Logan S, Perz J, Ussher J, et al. Clinician provision of oncofertility support in cancer patients of a reproductive age: A systematic review. Psychooncology 2018; 27:748. 2. Oktay K, Harvey BE, Partridge AH, et al. Fertility Preservation in Patients With Cancer: ASCO Clinical Practice Guideline Update. J Clin Oncol 2018; 36:1994. 3. McCray DK, Simpson AB, Flyckt R, et al. Fertility in Women of Reproductive Age After Breast Cancer Treatment: Practice Patterns and Outcomes. Ann Surg Oncol 2016; 23:3175. 4. The Practice Committee of the American Society for Reproductive Medicine. Fertility preservation in patients undergoing gonadotoxic therapy or gonadectomy: a committee opinion. Fertil Steril 2013; 100:1214. 5. The Ethics Committee of the American Society for Reproductive Medicine. Fertility preservation and reproduction in patients facing gonadotoxic therapies: a committee opinion. Fertil Steril 2013; 100:1224. 6. Das M, Shehata F, Moria A, et al. Ovarian reserve, response to gonadotropins, and oocyte maturity in women with malignancy. Fertil Steril 2011; 96:122. 7. Knopman JM, Noyes N, Talebian S, et al. Women with cancer undergoing ART for fertility preservation: a cohort study of their response to exogenous gonadotropins. Fertil Steril 2009; 91:1476. 8. Robertson AD, Missmer SA, Ginsburg ES. Embryo yield after in vitro fertilization in women undergoing embryo banking for fertility preservation before chemotherapy. Fertil Steril 2011; 95:588. 9. Pal L, Leykin L, Schifren JL, et al. Malignancy may adversely influence the quality and behaviour of oocytes. Hum Reprod 1998; 13:1837. 10. Quintero RB, Helmer A, Huang JQ, Westphal LM. Ovarian stimulation for fertility preservation in patients with cancer. Fertil Steril 2010; 93:865. 11. Domingo J, Guillén V, Ayllón Y, et al. Ovarian response to controlled ovarian hyperstimulation in cancer patients is diminished even before oncological treatment. Fertil Steril 2012; 97:930. 12. Almog B, Azem F, Gordon D, et al. Effects of cancer on ovarian response in controlled ovarian stimulation for fertility preservation. Fertil Steril 2012; 98:957. 13. Nurudeen SK, Douglas NC, Mahany EL, et al. Fertility Preservation Decisions Among Newly Diagnosed Oncology Patients: A Single-Center Experience. Am J Clin Oncol 2016; 39:154. 14. Taylan E, Oktay KH. Current state and controversies in fertility preservation in women with breast cancer. World J Clin Oncol 2017; 8:241. 15. Centers for Disease Control and Prevention. Assisted Reproductive Technology. 2008 Assisted Reproductive Technology Report. (Accessed on May 17, 2011).
File đính kèm:
bao_ton_chuc_nang_sinh_san_trong_dieu_tri_ung_thu.pdf

