Bảo hiểm y tế theo hộ gia đình: Thực trạng tham gia và một số yếu tố ảnh hưởng

Với mục đích bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) toàn dân, hình thức BHYT theo hộ gia đình được thực hiện đối với lao động phi chính thức từ năm 2015. Nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng và một số yếu ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT theo hộ gia đình.

Số liệu thu thập từ phỏng vấn trực tiếp 469 chủ hộ gia đình (với thông tin của 2071 cá nhân trong hộ) tại huyện Sóc Sơn, năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tham gia BHYT theo hộ gia đình thấp (16,6%) so với tỷ lệ dự định tham gia (71,9%). Những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng tham gia BHYT theo hộ gia đình có ý nghĩa thống kê bao gồm: hiểu biết về BHYT; mức độ sử dụng dịch vụ y tế và nơi ở của hộ gia đình

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Bảo hiểm y tế theo hộ gia đình: Thực trạng tham gia và một số yếu tố ảnh hưởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo hiểm y tế theo hộ gia đình: Thực trạng tham gia và một số yếu tố ảnh hưởng

Bảo hiểm y tế theo hộ gia đình: Thực trạng tham gia và một số yếu tố ảnh hưởng
SỐ 2 (49) - Tháng 03-04/2019
Website: yhoccongdong.vn 81
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
BẢO HIỂM Y TẾ THEO HỘ GIA ĐÌNH: THỰC TRẠNG THAM 
GIA VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Nguyễn Thị Thúy Nga1, Bùi Thị Mỹ Anh1 
TÓM TẮT
Với mục đích bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) toàn 
dân, hình thức BHYT theo hộ gia đình được thực hiện đối 
với lao động phi chính thức từ năm 2015. Nghiên cứu này 
nhằm mô tả thực trạng và một số yếu ảnh hưởng đến việc 
tham gia BHYT theo hộ gia đình. 
Số liệu thu thập từ phỏng vấn trực tiếp 469 chủ hộ gia 
đình (với thông tin của 2071 cá nhân trong hộ) tại huyện 
Sóc Sơn, năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ 
tham gia BHYT theo hộ gia đình thấp (16,6%) so với tỷ lệ 
dự định tham gia (71,9%). Những yếu tố ảnh hưởng đến 
thực trạng tham gia BHYT theo hộ gia đình có ý nghĩa 
thống kê bao gồm: hiểu biết về BHYT; mức độ sử dụng 
dịch vụ y tế và nơi ở của hộ gia đình.
Từ khóa: Bảo hiểm y tế, lao động không chính thức, 
bảo hiểm y tế theo hộ gia đình
ABSTRACT
FAMILY-BASED SOCIAL HEALTH 
INSURANCE: SITUATION AND FACTORS 
INFLUENCING ENROLMENT IN FAMILY-BASED 
HEALTH INSURANCE
With the aim of achieving universal coverage, the 
family-based health insurance was introduced for informal 
sector workers and their families in Vietnam in 2015. 
However, little is known about the uptake of family health 
insurance, and the factors that influence enrolment. The 
objective of the study is to identify the factors influencing 
enrolment in family-based health insurance.
 Data were collected from a cross-sectional in-house 
survey in Soc Son district from April to June 2016. A total 
of 469 household heads were interviewed with information 
on 2,071 residents. A logistic regression model was used to 
estimate the probability of uptake in family-based health 
insurance in relation to socio-economic factors. 
The results indicate a low coverage of family-
based health insurance schemes (16.6%) compared with 
relatively high rates of willingness to join (71.9%). 
The significant influential factors were: Knowledge of 
health insurance; Historical use of health services; and, 
place of residence. 
Keyword: Health insurance, informal workers, 
family-based health insurance
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo hiểm y tế (BHYT) là nguồn tài chính quan trọng, 
góp phần đảm bảo công bằng trong tiếp cận dịch vụ y tế. 
Tuy nhiên, việc bao phủ BHYT cho đối tượng lao động phi 
chính thức là thách thức lớn của nhiều nước vì khó khăn 
trong việc xác định thu nhập và thu phí BHYT. Ngoài ra, 
nhiều lao động phi chính thức không có khả năng hoặc 
không sẵn sàng chi trả BHYT [1]. 
Theo khái niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), 
người lao động phi chính thức (hay còn gọi là lao động tự 
do) là những cá nhân làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh 
doanh nhỏ, thường theo hộ gia đình [2]. Tổng Cục thống 
kê Việt Nam định nghĩa lao động phi chính thức là tất cả 
những người lao động chưa có bảo hiểm xã hội và không 
có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên [3].
Tại hầu hết các nước đang phát triển, khu vực phi 
chính thức đóng vai trò quan trọng như tạo việc làm, thu 
nhập và phát triển kinh tế, xã hội. Khu vực này chiếm 
khoảng 40% công việc phi nông nghiệp toàn cầu, và 
khoảng 50-80% của GDP tại các nước phát triển châu Phi 
và châu Á [4].
Tại Việt Nam, tỷ lệ lao động phi chính thức chiếm 
62,6% (32,7 triệu người) trong tổng số người lao động, 
có nghĩa gần gấp đôi lao động chính thức [5]. Chính 
sách BHYT bắt đầu thực hiện tại Việt Nam từ năm 1992 
[6]. Với sự cam kết chính trị mạnh mẽ để đạt bao phủ 
BHYT toàn dân, Việt Nam đã bao phủ 87,4% năm 2018 
[7]. Tuy nhiên, tăng bao phủ BHYT cho 13% dân số còn 
lại (chủ yếu là lao động phi chính thức) đang là một 
thách thức lớn. 
Ngày nhận bài: 12/01/2019 Ngày phản biện: 22/01/2019 Ngày duyệt đăng: 31/01/2019
1. Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội
SỐ 2 (49) - Tháng 03-04/2019
Website: yhoccongdong.vn82
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
 Chính sách BHYT tự nguyện được áp dụng cho đối 
tượng lao động phi chính thức từ năm 1992 đến 2014. 
Chương trình này không thành công do vấn đề lựa chọn 
ngược [8, 9]. Năm 2015, hình thức BHYT bắt buộc theo 
hộ gia đình được thực hiện với người lao động phi chính 
thức [10]. Mức đóng BHYT được giảm trừ theo số thành 
viên trong hộ. Mục tiêu của nghiên cứu này là mô tả thực 
trạng và xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tham 
gia BHYT theo hộ gia đình.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
Nghiên cứu thực hiện tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội, 
2016. Người dân ở đây chủ yếu làm nghề nông (chiếm 
khoảng 80% hộ gia đình). Đối tượng nghiên cứu là chủ hộ 
gia đình. Hộ gia đình được định nghĩa theo Luật BHYT là 
các thành viên sống cùng trong một nhà và có tên trong sổ 
hộ khẩu hoặc sổ tạm trú. 
Bộ câu hỏi bản cấu trúc để phỏng vấn chủ hộ được 
xây dựng dựa trên bộ công cụ điều tra mức sống dân cư và 
kết quả của nghiên cứu định tính thăm dò. Cấu trúc bộ câu 
hỏi gồm ba phần: phần thứ nhất là thông tin chung; phần 
tiếp theo là thông tin về kinh tế - xã hội, tình trạng sức 
khỏe, sử dụng dịch vụ y tế; tham gia bảo hiểm y tế của chủ 
hộ và tất cả các thành viên trong hộ; phần cuối hỏi về kiến 
thức BHYT của chủ hộ.
Thu thập số liệu
490 hộ gia đình (HGD) được chọn ngẫu nhiên từ danh 
sách các hộ gia đình. Trường hợp chủ hộ vắng nhà, thì 
phỏng vấn đại diện hộ gia đình người biết được thông tin 
về sức khỏe và tình trạng BHYT của các thành viên trong 
hộ. Nếu người ở nhà không biết được thông tin yêu cầu, 
thì điều tra viên ngừng lại, cám ơn và chuyển sang nhà kế 
tiếp. Kết quả đã phỏng vấn được 469 hộ gia đình (tỷ lệ đáp 
ứng là 96%).
Phân tích số liệu
Số liệu được làm sạch và phân tích bằng phần mềm 
Stata 12. Phân tích mô tả được thực hiện với tất cả các 
biến số. Để xác định các yếu tố liên quan, phân tích đơn 
biến được thực hiện để thăm dò mối liên quan giữa tình 
trạng tham gia BHYT với đặc điểm của chủ hộ và hộ gia 
đình. Sau đó, phân tích hồi quy tuyến tính được thực hiện 
để xác định mỗi liên quan giữa các đặc điểm kinh tế xã 
hội và tình trạng tham gia BHYT. Biến phụ thuộc là thực 
trạng tham gia BHYT (có hoặc không). Biến độc lập bao 
gồm tuổi, giới, việc làm, thu nhập bình quân theo tháng, 
tình trạng sức khỏe, kiến thức về BHYT, quy mô hộ gia 
đình, nơi ở. 
Nghiên cứu được Hội đồng đạo đức của Trường Đại 
học Công nghệ Queensland Úc và Trường Đại học Y tế 
Công cộng thông qua. Tất cả những thông tin của người 
tham gia phỏng vấn đều được bảo mật và chỉ sử dụng cho 
mục đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 1 trình bày đặc điểm kinh tế, xã hội của 469 chủ 
hộ và 2071 thành viên trong hộ gia đình.
SỐ 2 (49) - Tháng 03-04/2019
Website: yhoccongdong.vn 83
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1: Đặc điểm kinh tế - xã hội của chủ hộ và các thành viên, huyện Sóc Sơn
Đặc điểm
Chủ hộ Cá nhân trong HGD
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Giới tính n= 469 n=2071
Nam 363 77,4 1048 50,6
Nữ 106 22,6 1023 49,4
Tuổi n= 467 n=2064
0-17 264 12,8
18-40 119 25,5 372 18,0
41-60 273 58,5 1286 62,3
> 60 75 16,0 142 6,9
Trình độ học vấn n= 467 n=2071
Không đi học 27 5,8 367 17,7
Cấp 1 79 16,4 370 17,9
Cấp 2 221 47,2 677 32,7
Cấp 3 118 25,2 480 23,1
Cao đẳng/đại học 24 5,1 178 10,0
Tình trạng hôn nhân n=468 n=2069
Độc thân 7 1,5 863 41,7
Có gia đình 394 84,2 1092 52,8
Góa/li dị 67 14,3 114 5,5
Việc làm n=468 n=2071
Không làm việc 48 10,2 863 41,7
Nông dân 237 50,5 547 26,4
Lao động tự do 148 31,6 389 18,8
Lao động hưởng lương 36 7,7 272 13,1
Thu nhập BQ tháng (VND) n=469 n=2071
Không có thu nhập 41 8,7 845 40,8
 <3 triệu 258 55,0 613 29,6
3-5 triệu 88 18,8 372 17,9
>5 triệu 82 17,5 241 11,6
Thu nhập BQ/tháng/người 2 473 874 ± 132,0 1 720 764 ± 54,1
SỐ 2 (49) - Tháng 03-04/2019
Website: yhoccongdong.vn84
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Chủ hộ gia đình phần lớn là nam giới (77,4%). Việc 
làm chủ yếu của chủ HGD là nghề nông và lao động tự do 
(82,1%) với thu nhập bình quân tháng thấp 2,4 triệu đồng/
tháng. Đặc điểm của 2071 cá nhân trong 469 hộ gia đình 
tương tự kết quả những nghiên cứu khác tại ba khu vực 
Bắc – Trung – Nam và kết quả điều tra mức sống hộ gia 
đình tại Việt Nam [11]. 
Bao phủ Bảo hiểm Y tế theo hộ gia đình
Kết quả phỏng vấn cho thấy phần lớn các hộ gia 
đình chưa tham gia BHYT (83,4%), chỉ có 16,6% tham 
gia. Khi được hỏi về dự định có tham gia BHYT hộ gia 
đình trong tương lai không? Trong số 78 hộ đã tham 
gia, 92,3% hộ nói sẽ tiếp tục tham gia, một hộ không 
tham gia và năm hộ gia đình chưa quyết định. Đối với 
391 hộ gia đình chưa tham gia BHYT, khoảng 72% hộ 
gia đình dự định sẽ tham gia, trong khi 12% từ chối 
tham gia, và 16% hộ gia đình chưa quyết định được 
(xem hình 1).
Hình 1: Tỷ lệ tham gia và dự định tham gia BHYT theo HGD
Tỷ lệ tham gia BHYT theo hộ gia đình thấp 16,6%, 
thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ bao phủ BHYT nói 
chung, 80% dân số cùng thời điểm năm 2016 [12]. Thực 
tế, tỷ lệ tham gia BHYT thấp đối với khu vực phi chính 
thức được xác định là vấn đề đối với nhiều nước đang 
phát triển [13]. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ bao phủ BHYT 
theo hộ gia đình tại Kenya (32,6%) [14] hoặc Ethiopia 
(45,5%). 
Mặc dù tỷ lệ tham gia BHYT theo HGD thấp, nhưng 
hầu hết các hộ gia đình đều dự định tham gia BHYT 
(92% HGD đã tham gia và 72% HGD chưa tham gia). 
Một số HGD từ chối tham gia hoặc chưa quyết định do 
kinh tế khó khăn hoặc chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở 
chưa đảm bảo. Kết quả nghiên cứu này tương tự kết quả 
của một nghiên cứu khác thực hiện ở Hà Nội, Việt Nam 
(77% lao động tự do dự định tham gia BHYT) [15]. Điều 
này cho thấy nhu cầu tham gia BHYT HGD của lao động 
phi chính thức khá cao.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến BHYT theo hộ gia đình 
Bảng 2 cho thấy kết quả của phân tích hồi quy 
Logistic. Những yếu tố sau liên quan có ý nghĩa thống kê 
với tình trạng tham gia BHYT theo HGD: 1) Hiểu biết về 
BHYT của chủ hộ gia đình: khả năng tham gia BHYT của 
chủ hộ có hiểu biết tốt về BHYT cao gấp 6.68 lần so với 
chủ hộ có hiểu biết hạn chế; 2) Sử dụng dịch vụ y tế: khả 
năng tham gia của hộ gia đình đã từng sử dụng dịch vụ y 
tế 0,42 lần thấp hơn so với HGD chưa sử dụng dịch vụ y 
tế; và 3) Nơi ở: khả năng tham gia BHYT của hộ gia đình 
sống ở khu vực thành thị hoặc đang đô thị hóa cao gấp 4,26 
và 4,16 lần những HGD sống ở vùng nông thôn. Không có 
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng tham gia 
BHYT với tuổi, thu nhập và tình trạng có bệnh mãn tính.
SỐ 2 (49) - Tháng 03-04/2019
Website: yhoccongdong.vn 85
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 2: Kết quả mô hình hồi quy logistic phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia BHYT
Đặc điểm hộ gia đình (N: 464) Tỷ số chênh (OR) Trị số p 95% Độ tin cậy
Tuổi của chủ hộ
•	60+ 
•	18-60 
Ref.
0,52
0,06 0,25-1,02
Bệnh mãn tính của chủ hộ
•	Không
•	Có
Ref.
1,23
0,48 0,69-2,17
Hiểu biết của chủ hộ về BHYT theo HGD
•	Chưa tốt
•	Tốt 
Ref.
6,68
0,001 3,59-12,4
Thu nhập BQ tháng của HGD
•	Thấp
•	Trung bình
•	Cao
Ref.
0,76
0,56
0,40
0,10
0,40-1,43
0,28-1,12
Sử dụng dịch vụ y tế của HGD
•	Không
•	Có
Ref.
0,42
0,02 0,18-0,91
Nơi ở 
•	Nông thôn 
•	Đô thị hóa 
•	Thành thị
Ref.
4,26
4,16
0,01
0,01
1,37-13,20
1,35-12,74
Kết quả nghiên cứu cho thấy chủ HGD có hiểu biết 
tốt về BHYT tham gia với tỷ lệ cao hơn. Có thể là do 
hiểu biết hơn về lợi ích của BHYT đã thúc đẩy chủ HGD 
tham gia BHYT. Kết quả này cũng tương đồng với những 
nghiên cứu khác ở nông thôn Việt Nam [16], India [17], 
and Ghana [18]. Điều này cho thấy việc tăng cường truyền 
thông về chính sách BHYT theo HGD sẽ thúc đẩy việc 
tham gia BHYT. 
Một kết quả đáng quan tâm đó là những hộ gia đình 
đã từng sử dụng dịch vụ y tế thì khả năng tham gia BHYT 
thấp hơn. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu ở 
Ghana là những người đã từng tham gia BHYT sẽ có khả 
năng tham gia BHYT cao hơn [19]. Giải thích cho kết quả 
này có thể do trải nghiệm của HGD là trả tiền túi trực tiếp 
sẽ nhận được dịch vụ y tế tốt hơn. Nghiên cứu này cũng 
cho thấy khoảng 23% người tham gia BHYT không sử 
dụng thẻ BHYT khi đi khám, chữa bệnh. Lý do có thể là do 
thủ tục BHYT và chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt là tuyến 
y tế cơ sở không đảm bảo.
Những HGD sống ở thành thị và khu vực đang đô thị 
hóa có khả năng tham gia BHYT cao hơn vùng nông thôn. 
Điều này có thể là do sống ở khu vực đô thị sẽ tăng khả 
năng tiếp cận thông tin và dịch vụ y tế có chất lượng. Kết 
quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu ở Ghana về cư 
dân thành thị có khả năng tham gia BHYT cao hơn [19]. 
Một xu hướng đáng ngạc nhiên đó là HGD có thu 
nhập thấp có khả năng tham gia BHYT cao hơn so với 
nhóm có thu nhập cao, mặc dù mối liên quan không có 
ý nghĩa thống kê. Mặc dù kết quả này khác với kết quả 
nghiên cứu tổng quan tại các nước có thu nhập thấp và 
trung bình là nhóm thu nhập thấp thường ít khả năng tham 
gia BHYT [20]. Nhưng lại tương đồng với kết quả nghiên 
cứu tại Ethiopia [21]. Theo kết quả phỏng vấn HGD, có 
thể là do hầu hết các gia đình khá giả, có khả năng chi trả 
nhưng lại từ chối tham gia BHYT vì chất lượng dịch vụ y 
tế không đảm bảo. Điều này cho thấy, ngoài khả năng chi 
trả, chất lượng dịch vụ y tế đóng vai trò quan trọng trong 
việc thúc đẩy hộ gia đình tham gia BHYT. 
IV. KẾT LUẬN
Mặc dù BHYT theo HGD là bắt buộc theo Luật 
BHYT, nhưng tỷ lệ tham gia BHYT vẫn không cao. Những 
SỐ 2 (49) - Tháng 03-04/2019
Website: yhoccongdong.vn86
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với khả năng tham gia 
BHYT là: hiểu biết về BHYT; sử dụng dịch vụ y tế và nơi 
ở. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc tăng cường giáo dục, 
truyền thông tại cộng đồng về BHYT; tăng cường chất 
lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở sẽ thúc đẩy việc tham gia 
BHYT theo hộ gia đình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bonfert, A., A. Martin, and J. Langenbrunner, Closing the Gap – The Global Experience Providing Health 
Insurance Coverage for Informal Sector Workers, in The Informal Sector Conference. 2013: Yogyakarta, Indonesia.
2. International Labour Organization, Resolutions concerning Statistics of Employment in the Informal Sector 1993.
3. Hanns Seidel Foundation, Social Protection for Informal Sector and informally employed in Vietnam. 2012.
4. Steel, W.F. and D. Snodgrass, World Bank Region Analysis on the Informal Economy. Raising Productivity and 
Reducing Risk of Household Enterprises Diagnostic Methodology framework. For WEIGO Network and World Bank 
PREM Network. Draft Sept, 2008.
5. Vietnam General Statistical Office, Report on The Labour Force Survey 2013. 2014. p. 31-32.
6. Ministry of Health and Health Partnership Group, Joint Annual Health Review, 2013: Towards Universal Health 
Coverage. . 2013.
7. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Luật BHYT giai đoạn 2015-2018. 2018.
8. Somanathan, A., H.L. Dao, and V.T. Tran, Integrating the poor into universal health coverage in Vietnam. 2013.
9. Bitran, R., Universal Health Coverage and the Challenge of Informal Employment: Lessons from Developing 
Countries. 2014.
10. Assembly, V.N., Amended Health Insurance Law. 2014.
11. Doan, T.T.H. and V.M. Hoang, Willingness to pay for health insurance among informal sector workers: A case 
study from Hanoi capital Vietnam. Vietnam Journal of Public Health, 2014. 2(2): p. 24-31.
12. Vietnam Social Security, Annual report on health insurance coverage. 2016.
13. Acharya, A., et al., Impact of national health insurance for the poor and the informal sector in low and middle 
income countries: a systematic review. London: EPPICentre. Social Science Research Unit, Institute of Education, 
University of London, 2012.
14. Kituku, A.M. and E. Amata, Determinants of the Uptake of NHIF Medical Cover by Informal Sector Workers: A 
Case of UNAITASSACCO Members in Murang’a County. Journal of Public Policy and Administration, 2016. 1(1): p. 17-31.
15. Quyen, B.T.T. and N.T.K. Ngan, Health insurance coverage and some related factors among informal employees 
in Long Bien district, Hanoi. Journal of Public Health, 2016. 42: p. 48-51.
16. Nguyen, T.D. and A. Wilson, Coverage of health insurance among the near-poor in rural Vietnam and 
associated factors. International Journal of Public Health, 2016: p. 1-11.
17. Kansra, P. and H.S. Gill, Role of Perceptions in Health Insurance Buying Behaviour of Workers Employed in 
Informal Sector of India. Global Business Review, 2017: p. 0972150916666992.
18. Atim, C. and M. Sock, An external evaluation of the Nkoranza community financing health insurance scheme, 
Ghana. 2000: Partnerships for Health Reform, Abt Associates.
19. Barimah, A., A.M. Ayitey, and E. Nketiah-Amponsah, Determinants of insurance enrolment among Ghanaian 
adults: the case of the National Health Insurance Scheme (NHIS). Economics, Management, and Financial Markets, 
2013(3): p. 37-57.
20. Dror, D.M., et al., What factors affect voluntary uptake of community-based health insurance schemes in low-
and middle-income countries? a systematic review and meta-analysis. PLoS One, 2016. 11(8): p. e0160479.
21. Haile, M., S. Ololo, and B. Megersa, Willingness to join community-based health insurance among rural 
households of Debub Bench District, Bench Maji Zone, Southwest Ethiopia. BMC public health, 2014. 14(1): p. 591.

File đính kèm:

  • pdfbao_hiem_y_te_theo_ho_gia_dinh_thuc_trang_tham_gia_va_mot_so.pdf