Báo cáo nhân 1 trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng xuyên màng cứng
Thoát vị đĩa đệm xuyên màng cứng (TVDDXMC) là bệnh lý hiếm gặp. Cho đến nay
cơ chế sinh bệnh học của TVDDXMC vẫn chưa được biết chắc chắn. Sự dính của
thành sau màng cứng vào dây chằng dọc sau (DCDS) có thể là yếu tố thuận lợi. Việc
chẩn đoán TVDDXMC trước mổ khó và sự nghi ngờ trước phẫu thuật hiếm khi nghĩ
đến. Phẫu thuật là cần thiết bởi vì tiên lượng hồi phục thần kinh liên quan chặt chẽ với
những triệu chứng chèn ép thần kinh trước phẫu thuật. Mặc dù những triệu chứng liệt
thần kinh trước phẫu thuật thường là nặng, nhưng tiên lượng sau phẫu thuật là khá tốt.
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo nhân 1 trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng xuyên màng cứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo nhân 1 trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng xuyên màng cứng
5 Phản biện khoa học: TS. Trần Trung Dũng Nguyễn Văn Thạch, Nguyễn Hồng Long, Vũ Văn Cường, Trần Quốc Khánh, Trần Trung Kiên Khoa Phẫu Thuật Cột Sống - BV HN Việt Đức Nguyen Van Thach, Nguyen Hoang Long, Vu Van Cuong, Tran Quoc Khanh, Tran Trung Kien BÁO CÁO NHÂN 1 TRƯỜNG HỢP THỐT VỊ ĐĨA ĐỆM CỘT SỐNG THẮT LƯNG XUYÊN MÀNG CỨNG CASE REPORT: INTRADURAL LUMBAR DISC HERNIATION ABSTRACT Intradural lumbar disc herniation is a rare complication of disc disease. The mechanism by which herniated disc torn the dura matter remains unknown. Attachment of the ventral dura to posterior longitudinal ligament can be a risk factor. Pre-operation dianosis of intradural lumbar disc herniation is usually difficult. The symtoms are usually serious, such as weakness, cauda equina. So it need to be operated and post-operative result is better. Thoát vị đĩa đệm xuyên màng cứng (TVDDXMC) là bệnh lý hiếm gặp. Cho đến nay cơ chế sinh bệnh học của TVDDXMC vẫn chưa được biết chắc chắn. Sự dính của thành sau màng cứng vào dây chằng dọc sau (DCDS) có thể là yếu tố thuận lợi. Việc chẩn đoán TVDDXMC trước mổ khó và sự nghi ngờ trước phẫu thuật hiếm khi nghĩ đến. Phẫu thuật là cần thiết bởi vì tiên lượng hồi phục thần kinh liên quan chặt chẽ với những triệu chứng chèn ép thần kinh trước phẫu thuật. Mặc dù những triệu chứng liệt thần kinh trước phẫu thuật thường là nặng, nhưng tiên lượng sau phẫu thuật là khá tốt. TĨM TẮT I. ĐặT VấN Đề Thốt vị đĩa đệm xuyên màng cứng (TVDDXMC), một trong những biến chứng nghiêm trọng của thốt vị đĩa đệm và rất ít gặp trong lâm sàng điều trị TVDD thắt lưng. Tỷ lệ TVDDXMC được báo cáo là 0,04-0,33% những TVDD[9]. Chẩn đốn trước phẫu thuật của tình trạng này thì vẫn khĩ khăn và dễ bỏ sĩt. Chính vì vậy, chúng tơi báo cáo 1 trường hợp TVDDXMC L3/4 đã được phẫu thuật tại khoa phẫu thuật cột sống bệnh viện HN Việt Đức, để điểm lại y văn và cùng bàn luận về cơ chế bệnh sinh, các phương pháp để chẩn đốn xác định và phương pháp điều trị đối với thể thốt vị đặc biệt này. II. TRƯỜNG HỢP BỆNH Bệnh nhân (BN) nam, 34 tuổi. BN cĩ tiền sử mổ TVDD thắt lưng cách 10 năm. Sau mổ BN khơng đau chân, thỉnh thoảng đau lưng khi thay đổi thời tiết. Cách vào viện 10 ngày, BN xuất hiện đau lưng lan chân trái đột ngột và tăng dần. Khi đến với chúng tơi BN cĩ liệt cổ bàn chân (vận động cổ-bàn chân trái: 0/5 điểm), tê bì dọc rễ L4,L5 và S1, BN cĩ rối loạn trong vấn đề đại tiểu tiện. Trên phim cộng hưởng từ (CHT) khơng tiêm thuốc đối quang từ thấy cĩ một khối nằm trong màng cứng đường kính khoảng 2,5 cm, khối này trịn đều, đồng tín hiệu với đĩa đệm và khối cĩ tín hiệu đồng nhất. Ngồi ra chúng tơi thấy khối này cĩ chân liên tiếp với đĩa đệm L3/4. Trên phim CHT cĩ sự gián đoạn đột ngột của DCDS. Trên phim CHT lát cắt ngang, khối này chiếm gần hết ống sống. Khơng rõ dấu hiệu “mỏ chim” trên phim. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013 6 Hình 1: A. Trên hình ảnh cắt ngang, khối này chiếm hết ống sống ngang mức; B. Khối trong ống sống cĩ chân liền với đĩa đệm L3/4 và sự mất liên tục của màng cứng phía trước (mũi tên trắng); C. Hình ảnh khối thốt vị trong màng cứng (mũi tên đen) Hình 2: Thốt vị đĩa đệm trong màng cứng (mũi tên trắng) BN đã được tiến hành phẫu thuật mở cung sau L3, kiểm tra đĩa đệm L3/4 và sau đĩ mở màng cứng kiểm tra. Thấy cĩ mảnh đĩa đệm thốt vị nằm trong màng cứng, các rễ TK viêm dính thành khối, chúng tơi tiến hành lấy khối thốt vị, bơm rửa và khâu phục hồi màng cứng. III. BÀN LUẬN TVDDXMC lần đầu tiên được Dandy báo cáo vào năm 1942[2]. Từ đĩ cho đến nay loại TVDD nàyđã được báo cáo nhiều trong các bài báo nghiên cứu trên thế giới cho thấy đây là tổn thương hiếm gặp với chỉ 151 trường hợp[6], chúng chiếm khoảng 0,04-0,33% trong tất cả các TVDD[5, 6, 9].Trong đĩ khoảng 3% xảy ra ở vùng cột sống cổ, 5% ở cột sống ngực và 92% ở cột sống thắt lưng. Tuổi trung bình khởi phát TVDDXMC khoảng từ 50 đến 60 tuổi[6]. Những dấu hiệu lâm sàng cĩ thể là hội chứng đuơi ngựa hoặc hội chứng rễ thần kinh. Bệnh sử gồm đau lưng mạn tính, đau kiểu rễ cấp tính và liệt tiến triển. Những triệu chứng thường nặng của hội chứng đuơi ngựa gặp ở hai phần ba các bệnh nhân. Khoảng thời gian của các triệu chứng mạn tính làm chúng ta nghĩ tới thuyết về sự di trú xuyên qua màng cứng cĩ thể chỉ đơn giản là một giai đoạn trung gian trong quá trình di trú hồn tồn qua màng cứng của mảnh đĩa đệm bị thốt vị và sự hình thành mơ hạt xung quanh miếng đĩa đệm. Mut và CS[8] đã nêu ra một phân loại cho các thốt vị đĩa đệm xuyên màng cứng. Loại A: TVDD vào trong túi màng cứng. Loại B: TVDD vào trong vỏ bao màng cứng ở vị trí vùng trước hạch của rễ thần kinh. Vị trí thường thấy TVDDXMC ở CSTL là L4- L5 (55%), tiếp theo là L3-L4 (16%), L5S1 (10%), rồi đến L2-L3, và L1-L2[6]. Trong y văn, vị trí của TVDDXMC được báo cáo là tại các vị trí gian đĩa và bên trên hoặc bên dưới các mức cĩ quan hệ với chân của đĩa. Miếng đĩa đệm tại mức giữa của thân ĐS là hiếm gặp[6]. Mặc dù vậy, bệnh học và sinh lý học của TVDDXMC vẫn chưa được hiểu biết rõ ràng. Tuy nhiên, cĩ thể cĩ một sự bất thường từ ban đầu hoặc trước đĩ dẫn đến sự hình thành tổn thương mà một vài thuyết đã được đề xuất: (1) sự dính giữa DCDS và màng tủy thành trước, cĩ thể là do quá trình viêm tại chỗ như là hậu quả của sự kích thích từ chấn thương, phẫu thuật hoặc TVDD từ trước; (2) sự hợp Hình 3: Phân loại TVDDXMC[8] Phần 1: Phần cột sống 7 nhất bẩm sinh giữa DCDS và màng cứng; (3) về giải phẫu DCDS và màng cứng phía trước thường đính kèm lỏng lẻo với nhau và sự xuyên qua màng cứng xảy ra sau một lực đột ngột và ở vị trí ống sống hẹp[6, 10].Blikra nhận thấy cĩ mối quan hệ giữa màng cứng phía trước và dây chằng dọc sau (DCDS) trong việc tạo nên sự dính dày đặc ở CSTL[1]. Tác giả kết luận rằng do sự viêm dínhgiữa những cấu trúc này cĩ thể là yếu tố cơ bản trong bệnh học của TVDDXMC. Những nghiên cứu khác trên xác đã chứng minh rằng tồn tại sự hiện diện của các dây chằng đính màng cứng và các rễ TK tại chỗ thốt ra của chúng từ bao màng cứng chính tới DCDS và đầu xa màng xương thân đốt sống tới đĩa đệm.Sự viêm mạn tính ở vị trí TVDD cĩ thể gây dính và làm mỏng màng cứng, thậm chí làm mất liên tục của màng cứng vì thế gây TVDD vào trong túi màng cứng. TVDD qua màng cứng phía trước và phía sau đều đã được thấy, nhưng do màng cứng phía trước sát ngay phía sau đĩa đệm và do màng cứng phía sau thường dày hơn màng cứng phía trước nên đa phần loại TVDD này thường xuyên thủng qua màng cứng phía trước[8]. TVDDXMC cĩ thể gây rách màng cứng phía sau phụ thuộc vào kích thước của nhân nhày. BN của chúng tơi đã từng mổ 1 lần, nên cĩ thể cĩ sự viêm dính của màng cứng với DCDS từ lần mổ trước. Sự viêm dính này làm cho dây chằng dọc sau và màng cứng dính chặt với nhau ngang vị trí L3/4 và cả phía dưới, quá trình viêm kéo dài nhiều năm làm mỏng dần phức hợp dây chằng dọc sau và màng cứng. Khi đĩa đệm bị thốt vị thì mảnh thốt vị di chuyển thẳng vào trong màng cứng và gây ra các triệu chứng đuơi ngựa của bệnh nhân. Cĩ nhiều phương pháp chẩn đốn hình ảnh khác nhau như CHT, CLVT, và chụp bao rễ thần kinh cản quang (BRTKCQ) cĩ thể được sử dụng để chẩn đốn TVDD, nhưng chúng khơng cĩ nhiều giá trị trong chẩn đốn TVDDXMC. Chụp BRTKCQ cĩ thể thấy hình ảnh cắt cụt do một khối trong màng cứng, nhưng những hình ảnh của TVDDXMC trong chụp BRTKCQ khơng đặc hiệu[1]. Hình ảnh CLVT cho thấy cĩ TVDD phía sau chèn ép vào trong ống sống, nhưng TVDD ở trong màng cứng là khĩ để nhận biết. Trong CHT bình thường (khơng cĩ đối quang từ) khĩ phân biệt TVDD CSTL với các bệnh lý khác. Chụp CHT cĩ tiêm thuốc thì hữu ích trong việc phân biệt TVDD với một sự nhiễm trùng của đĩa đệm hoặc u. Những đĩa đệm thốt vị này cĩ tổn thương với hình ảnh đồng tín hiệu và đồng nhất ở những hình ảnh trên T1W và T2W[7, 9].Hida và CS[4] đã nhấn mạnh sự hữu ích của CHT cĩ tiêm thuốc đối quang từ trong việc chẩn đốn xác định trước mổ bằng cách thấy một khối giống “mỏ chim” với sự bắt thuốc vịng nhẫn ở vị trí ngang mức đĩa đệm mà tại vị trí đĩ thấy sự mất liên tục đột ngột của DCDS. Hidalgo-OVejero thì nhấn mạnh rằng mối liên quan giữa bĩng khí trong ống sống với TVDDXMC, theo tác giả khi thấy giấu hiệu bĩng khí trong ống sống thì cần phải nghĩ tới TVDDXMC. Họ giải thích rằng sự tăng tín hiệu như là kết quả của mơ hạt thâm nhiễm vào xung quanh mảnh đĩa đệm bị thốt vị khi sự dính và phản ứng viêm tiến triển trong một thời gian dài. Tuy nhiên, những trường hợp TVDD cấp tính khơng thể thấy sự bắt thuốc kiểu vịng nhẫn bởi vì mơ hạt vẫn chưa phát triển. Trong phim CHT lát cắt ngang, hình ảnh TVDD cĩ dạng một giọt nước cĩ thể được thấy với một cái cuống gắn giữa đĩa đệm và mảnh đĩa đệm thốt vị trong màng cứng.Tuy nhiên, BN của chúng tơi chỉ chụp CHT khơng cĩ đối quang từ, vì phim được chụp ở bệnh viện khác rồi BN đến với chúng tơi. Trên phim CHT chúng tơi thấy cĩ một tổn thương trong màng cứng ở ngang mức L3/4, tổn thương này cĩ tín hiệu đồng nhất và đồng tín hiệu với đĩa đệm trên T1W và T2W, trong đĩ tổn thương trong ống sống cĩ cuống liền với đĩa đệm L3/4. Trên phim CHT lát cắt thẳng đứng, chúng tơi thấy cĩ sự gián đoạn của DCDS và màng cứng phía trước. Trước mổ, chúng tơi nghĩ tổn thương này cĩ thể là một tổn thương dạng u trong màng cứng và ngồi tủy, trong đĩ hai loại u hay gặp nhất là u rễ thần kinh (neurinoma) và u màng não tủy (meningioma). Hai loại u này thường bắt thuốc đồng tín hiệu và phân biệt với TVDDXMC là khơng cĩ dạng bắt thuốc hình vịng nhẫn. Điều trị TVDDXMC là lấy bỏ khối TV và khâu lại chỗ màng cứng khuyết. Trong hầu hết các báo cáo, chỗ rách của màng cứng phía trước đã đĩng từ trước. Han và CS [3] sử dụng miếng vá màng cứng cho những chỗ khuyết của màng cứng phía trước. Singh và CS sử dụng cân cơ thắt lưng để tạo hình và đĩng chỗ rách màng cứng phía trước. Trong một số trường hợp, vít qua cuống cĩ thể được sử dụng và hàn xương sau bên hoặc liên thân đốt nên thực hiện nếu việc giải ép cắt cung sau rộng rãi hoặc phải cắt diện khớp. Đối với BN của chúng tơi, chúng tơi tiến hành mở cung sau, kiểm tra đĩa đệm phía ngồi màng tủy. Sau khi kiểm tra khơng thấy chèn ép của TVDD từ phía ngồi màng tủy, chúng tơi quyết định mở màng cứng kiểm tra và lấy mảnh đĩa đệm thốt vị. Theo chúng tơi thì khơng cần khâu lại chỗ màng cứng bị rách ở phía trước do sự dính chặt của màng cứng này với các tổ chức như đĩa đệm và DCDS ở phía trước, nên khơng cĩ hiện tượng dị dịch não tủy sau mổ. Chúng tơi cho rằng khi một BN cĩ TVDD kèm với hội chứng chùm đuơi ngựa, triệu chứng xuất hiện đột ngột, TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2013 8 cĩ thể trên một BN đã từng PT vùng đĩ và trên phim CHT nghi ngờ u trong ống sống và sự mất liên tục của DCDS thì cần phải nghĩ đến TVDDXMC. Qua báo cáo này chúng tơi muốn nhắc lại một tổn thương hiếm gặp trong thực hành lâm sàng điều trị TVDD và đối với các phẫu thuật viên cần nghĩ đến tổn thương này để cĩ sự can thiệp càng sớm càng tốt, đặc biệt trong trường hợp bệnh nhân cĩ hội chứng đuơi ngựa. Ngồi ra chúng ta tránh bỏ sĩt tổn thương trong mổ, bằng cách sờ màng cứng trong mổ đối với những trường hợp nghi ngờ u. Tài liệu tham khảo 1. Blikra, G., 1969. Intradural Herniated Lumbar Disc. Journal of Neurosurgery, 31(6): 676-679. 2. Dandy, W.E., 1942. SErious complications of ruptured intervertebral disks. Journal of the American Medical Association, 119(6): 474-477. 3. Han, I.-H., Kim, K.-S., and Jin, B.-H., 2009. Intradural lumbar disc herniations associated with epidural adhesion: report of two cases. Journal of Korean Neurosurgical Society, 46(2): 168-171. 4. Hida, K., et al., 1999. Magnetic resonance imaging of intradural lumbar disc herniation. Journal of clinical neuroscience, 6(4): 345-347. 5. Hidalgo-Ovejero, A.M., et al., 2004. Intradural disc herniation and epidural gas: something more than a casual association? Spine (Phila Pa 1976), 29(20): E463-7. 6. Liu, C.C., et al., 2011. Intradural disc herniation at L5 level mimicking an intradural spinal tumor. Eur Spine J, 20 Suppl 2: S326-9. 7. Mailleux, R., Redant, C., and Milbouw, G., 2006. MR diagnosis of transdural disc herniation causing cauda equine syndrome. JBR-BTR, 89(6): 303-5. 8. Mut, M., Berker, M., and Palaoglu, S., 2001. Intraradicular disc herniations in the lumbar spine and a new classification of intradural disc herniations. Spinal Cord, 39(10): 545-8. 9. Sakai, T., et al., 2007. Spontaneous resorption in recurrent intradural lumbar disc herniation. Case report. J Neurosurg Spine, 6(6): 574-8. 10. Yildizhan, A., et al., 1991. Intradural disc herniations pathogenesis, clinical picture, diagnosis and treatment. Acta Neurochirurgica, 110(3-4): 160-165.
File đính kèm:
bao_cao_nhan_1_truong_hop_thoat_vi_dia_dem_cot_song_that_lun.pdf

