Báo cáo một trường hợp ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp và hồi cứu y văn

Ung thư biểu mô tuyến giáp kém biệt hóa là típ ung thư hiếm gặp, chiếm 0,3 - 6,7% trong tổng số

ung thư của tuyến giáp, có hình thái và tiến triển trung gian giữa ung thư biểu mô biệt hóa cao và ung

thư biểu mô bất thục sản. Các đặc trưng về mặt tế bào học của loại ung thư này có độ đặc hiệu không

cao, phần lớn các trường hợp ung thư biểu mô tuyến giáp kém biệt hóa được chẩn đoán tế bào học

là “nghi ngờ tân sản nang”. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nam 61 tuổi nhập viện vì phát

hiện tình cờ khối u ở cổ. Siêu âm cho thấy thùy trái tuyến giáp có khối giảm âm kích thước 29 x 47 mm,

bờ không đều, có các nốt vôi hóa thô ở ngoại vi. Kết quả tế bào học là ung thư biểu mô tuyến giáp thể

nhú, tuy nhiên kết quả mô bệnh học cho thấy đây là một ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp.

pdf 5 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo một trường hợp ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp và hồi cứu y văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo một trường hợp ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp và hồi cứu y văn

Báo cáo một trường hợp ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp và hồi cứu y văn
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 73
BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ BIỂU MÔ 
KÉM BIỆT HÓA CỦA TUYẾN GIÁP VÀ HỒI CỨU Y VĂN
Đào Thị Luận1,2, , Đào Thị Huyên¹, Nguyễn Văn Hưng1,2
Trần Ngọc Minh1,2, Lương Việt Bằng1
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Ung thư biểu mô tuyến giáp kém biệt hóa là típ ung thư hiếm gặp, chiếm 0,3 - 6,7% trong tổng số 
ung thư của tuyến giáp, có hình thái và tiến triển trung gian giữa ung thư biểu mô biệt hóa cao và ung 
thư biểu mô bất thục sản. Các đặc trưng về mặt tế bào học của loại ung thư này có độ đặc hiệu không 
cao, phần lớn các trường hợp ung thư biểu mô tuyến giáp kém biệt hóa được chẩn đoán tế bào học 
là “nghi ngờ tân sản nang”. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nam 61 tuổi nhập viện vì phát 
hiện tình cờ khối u ở cổ. Siêu âm cho thấy thùy trái tuyến giáp có khối giảm âm kích thước 29 x 47 mm, 
bờ không đều, có các nốt vôi hóa thô ở ngoại vi. Kết quả tế bào học là ung thư biểu mô tuyến giáp thể 
nhú, tuy nhiên kết quả mô bệnh học cho thấy đây là một ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến giáp, ung thư tuyến giáp.
Ung thư biểu mô kém biệt hóa (UTBMKBH) 
của tuyến giáp là khối u xuất phát từ tế bào nang 
có hình thái và tiến triển trung gian giữa ung thư 
biểu mô (UTBM) biệt hóa (UTBM thể nhú và thể 
nang) và UTBM bất thục sản.¹ UTBMKBH lần 
đầu tiên được đề xuất là một nhóm tổn thương 
ác tính riêng biệt của tuyến giáp bởi Sakamoto 
cũng như Carcangiu và cộng sự tương ứng 
năm 1983 và 1984.2–4 Năm 2004, Tổ chức Y tế 
Thế giới (WHO) đã công nhận UTBMKBH là 
một thực thể riêng biệt dựa vào cấu trúc cơ bản 
và các đặc điểm độ mô học cao. Năm 2006, 
Hội nghị đồng thuận Turin được tổ chức tại Ý 
với sự tham gia của các chuyên gia giải phẫu 
bệnh quốc tế đã đưa ra các tiêu chuẩn chẩn 
đoán UTBMKBH của tuyến giáp bao gồm: sự 
xuất hiện của mẫu cấu trúc đặc/bè/đảo; không 
có đặc điểm nhân thể nhú; xuất hiện một trong 
các đặc điểm sau: nhân xoắn vặn, hoại tử u, ≥ 
3 nhân chia trên 10 vi trường có độ phóng đại 
cao.⁴ Đây là một ung thư rất hiếm của tuyến 
giáp, chiếm tỉ lệ 0,3% đến 6,7% trong tổng số 
ung thư tuyến giáp, 0,3% ở Nhật Bản, 1,8% ở 
Mỹ.1,5 Tỉ lệ này cao hơn ở khu vực Châu Mỹ Latin 
và Châu Âu. Độ tuổi trung bình của UTBMKBH 
của tuyến giáp từ 55 - 63 tuổi, thường gặp ở 
nữ nhiều hơn với tỉ lệ 1,1 - 2,1:1.¹ UTBMKBH 
thường được chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển, 
xâm lấn ra bên ngoài tuyến giáp và xâm nhập 
rộng ra xung quanh.⁶
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
Bệnh nhân nam 61 tuổi, tiền sử khỏe mạnh 
vào bệnh viện đa khoa tỉnh vì sờ thấy khối ở 
vùng cổ. Bệnh diễn biến 3 tháng, khối vùng 
cổ to lên chậm, không đau. Bệnh nhân được 
Tác giả liên hệ: Đào Thị Luận,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202074
tiến hành thăm khám và làm các xét nghiệm, 
được chẩn đoán tế bào học là ung thư biểu mô 
tuyến giáp thể nhú. Sau đó, bệnh nhân chuyển 
lên Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả xét 
nghiệm tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội:
Kết quả siêu âm tuyến giáp: Thùy trái: kích 
thước to, chiếm gần toàn bộ nhu mô thùy trái 
có khối kích thước 29 x 47 mm, bờ không đều, 
ranh giới không rõ, vôi hóa thô ở ngoại vi, khối 
đẩy lồi bao giáp. Thùy phải và eo tuyến giáp 
kích thước bình thường, nhu mô đồng nhất 
không có khối. 
Các xét nghiệm khác: Kết quả định lượng 
hormone tuyến giáp và TSH trước mổ của bệnh 
nhân trong giới hạn bình thường: T3 2,76 (1,08-
3,07) nmol/L, FT4 16,89 (12-22) pmol/L, TSH 
0,807 (0,40-4,2) uIU/mL. Các xét nghiệm huyết 
học và sinh hóa máu không có gì đặc biệt.
Bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật cắt 
bỏ 2 thùy giáp và nạo vét hạch cổ.
Kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật: 
Đại thể: Thùy trái kích thước 5x4x4 cm, cắt 
qua mô u chiếm gần toàn bộ thùy giáp, diện 
cắt xám vàng chắc. Thùy phải kích thước 4x2x1 
cm, cắt qua nâu mềm, không có khối. Hạch 
trước khí quản: bệnh phẩm là tổ chức xơ mỡ 
không rõ hạch. 
Vi thể: các mảnh cắt thùy trái tuyến giáp cho 
thấy mô u có vỏ xơ mỏng, u phần lớn có cấu 
trúc đảo, một số tạo thành đám đặc, tế bào u 
nhân nhỏ, đơn dạng, nhân tròn tăng sắc, không 
có đặc điểm nhân thể nhú. Mô u có tỉ lệ nhân 
chia cao > 3/10 vi trường có độ phóng đại lớn. 
Mô u xâm nhập rộng vào mạch bạch huyết và 
xâm nhập vỏ xơ, xâm nhập ra ngoài vỏ bao 
giáp. Không thấy hình ảnh hoại tử. Thùy phải 
và phần tổ chức xơ mỡ không có u , không thấy 
hạch.
Kết luận chẩn đoán: ung thư biểu mô kém 
biệt hóa của tuyến giáp.
Hình 2. Ung thư biểu 
mô kém biệt hóa của 
tuyến giáp
Hình 1. Hình ảnh siêu âm tuyến giáp
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 75
A. Mô u có cấu trúc đảo (HE,200x). B. Các 
tế bào u nhân nhỏ và đơn dạng, nhân tròn tăng 
sắc, không có đặc điểm nhân thể nhú. Tỉ lệ 
nhân chia ≥ 3/10HPF. (Mũi tên đen: nhân chia) 
(HE,400x). C. Mô u xâm nhập mạch (HE,400x). 
D. Mô u xâm nhập vỏ xơ (HE,100x). (Bệnh 
nhân: Nguyễn Giản Đ, mã giải phẫu bệnh: 
BV806-20 ).
IV. BÀN LUẬN
Ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến 
giáp là loại u rất hiếm của tuyến giáp, chiếm tỉ 
lệ 0,3% đến 6,7% trong tổng số ung thư tuyến 
giáp.⁵ Tại một số quốc gia, UTBMKBH có tỉ lệ 
khá thấp: 0,3% ở Nhật Bản, 1,8% ở Mỹ.¹ Tỉ lệ 
này cao hơn ở khu vực Châu Mỹ Latin và Châu 
Âu. Độ tuổi trung bình mắc bệnh là 55-63 tuổi.¹ 
Tuy nhiên khi nghiên cứu trên 418 trường hợp 
ung thư giáp với 8 trường hợp UTBMKBH Win 
và cộng sự cho thấy độ tuổi trung bình là 48,12 
tuổi, thấp hơn so với các báo các trước đó 
nhưng tỉ lệ nữ/nam là 1,67/1.1,2 
Trong báo cáo này, chúng tôi giới thiệu một 
trường hợp nam giới, 61 tuổi mắc UTBMKBH 
của tuyến giáp có độ tuổi phù hợp với các báo 
cáo trước đó.¹ Đối với UTBMKBH của tuyến 
giáp các đặc điểm về mặt tế bào không có 
độ đặc hiệu cao. Đặc điểm tế bào quan trong 
nhất của UTBMKBH của tuyến giáp là các tế 
bào có tỉ lệ nhân/bào tương cao, sắp xếp tạo 
đám chồng chất hoặc tế bào riêng lẻ. Trong 2 
nghiên cứu lớn về UTBMKBH của tuyến giáp 
được làm xét nghiệm chẩn đoán tế bào học cho 
thấy chỉ có 35% trường hợp được chẩn đoán 
là UTBMKBH. Các trường hợp còn lại hầu hết 
được chẩn đoán là “nghi ngờ tân sản nang” 
hoặc “UTBM nhú hoặc nhú biến thể nang” hoặc 
là một loại đặc biệt khác. Theo các tác giả của 
bộ sách “Giải phẫu bệnh và di truyền học các 
khối u của cơ quan nội tiết” của WHO cho rằng 
“chẩn đoán xác định UTBMKBH chỉ có thể dựa 
trên mô bệnh học”, các đặc điểm tế bào học chỉ 
mang tính chất gợi ý chẩn đoán UTBMKBH.⁷ 
Chính vì vậy, chẩn đoán tế bào học UTBMKBH 
của tuyến giáp là một thách thức. Nghiên cứu 
của Win trên 418 trường hợp ung thư tuyến 
giáp cho thấy trong 8 trường hợp UTBMKBH 
không có trường hợp nào được chẩn đoán 
đúng trên tế bào học.² Trong trường hợp bệnh 
nhân chúng tôi báo cáo, kết quả chẩn đoán 
tế bào học trước phẫu thuật là UTBM thể nhú 
tuyến giáp. 
Về mặt mô bệnh học, UTBMKBH lần đầu tiên 
được đề xuất là một nhóm tổn thương ác tính 
riêng biệt của tuyến giáp bởi Sakamoto và cộng 
sự năm 1983 và Carcangiu và cộng sự năm 
1984.2,3 Phải mất đến 20 năm WHO mới chấp 
nhận và giới thiệu nó là một thực thể riêng biệt 
của ung thư biểu mô tuyến giáp. Để thống nhất 
các khái niệm về UTBMKBH của tuyến giáp, 
năm 2006 tại hội nghị đồng thuận Turin diễn 
ra tại Ý các chuyên gia giải phẫu bệnh hàng 
đầu đã đưa ra tiêu chuẩn Turin để chẩn đoán 
UTBMKBH. Tiêu chuẩn này đã được chấp nhận 
và đưa vào phân loại của WHO, bao gồm: sự 
xuất hiện của mẫu cấu trúc đặc/bè/đảo; không 
có đặc điểm nhân thể nhú; xuất hiện một trong 
các đặc điểm sau: nhân xoắn vặn, hoại tử u, ≥ 
3 nhân chia trên 10 vi trường có độ phóng đại 
cao.1,3,4 Tuy nhiên, theo tiêu chuẩn của Turin thì 
tỉ lệ thành phần kém biệt hóa là bao nhiêu để 
chẩn đoán UTBMKBH không được nêu rõ, điều 
này ảnh hưởng rất lớn đến chẩn đoán cũng 
như tiên lượng của bệnh nhân. Nghiên cứu 
của Bongiovanni và cộng sự đã chỉ ra rằng tiên 
lượng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến 
giáp với 10% thành phần kém biệt hóa tương 
tự như với những bệnh nhân có 100% khối u 
là thành phần kém biệt hóa.⁵ Trong trường hợp 
bệnh nhân chúng tôi báo cáo, với kết quả chẩn 
đoán tế bào học là ung thư biểu mô tuyến giáp 
thể nhú cùng hình ảnh siêu âm có độ nghi ngờ 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 202076
cao nên bệnh nhân đã được tiến hành phẫu 
thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp và nạo vét hạch 
cổ. Trên vi thể toàn bộ khối u là thành phần kém 
biệt hóa với phần lớn cấu trúc đảo, các tế bào 
u nhân nhỏ đơn dạng, tăng chất nhiễm sắc, tỉ 
lệ nhân/bào tương cao và tỉ lệ nhân chia > 3/10 
vi trường có độ phóng đại cao. Mô u xâm nhập 
rộng vào mạch bạch huyết và xâm nhập vỏ xơ, 
chưa xâm nhập ra ngoài bao giáp. Như vậy, 
theo tiêu chuẩn Turin 2006, khối u này hoàn 
toàn phù hợp với chẩn đoán “Ung thư biểu mô 
kém biệt hóa của tuyến giáp”.
UTBMKBH có tiên lượng trung gian giữa 
các loại UTBM biệt hóa cao và UTBM bất thục 
sản của tuyến giáp. Trong khi hầu hết UTBM 
bất thục sản có thời gian sống trung bình chỉ 
từ 3 - 6 tháng thì tỉ lệ tử vong của UTBMKBH 
dao động từ 38 - 57% với thời gian sống trung 
bình là 50 - 60 tháng, thời gian sống không tái 
phát bệnh ít hơn 12 tháng.3,7 Tỉ lệ sống 5,10 và 
15 năm của UTBMKBH lần lượt là 50%, 34% 
và 0% thấp hơn so với UTBM biệt hóa cao 
của tuyến giáp là 95%, 86% và 81%. Chúng 
có xu hướng di căn hạch vùng (50 - 85%), di 
căn xa (36 - 85%) trong đó vị trí hay gặp nhất 
là phổi (14 - 54%) và xương (18-33%).⁶ Một 
vài yếu tố tiên lượng tồi cho UTBMKBH như: 
tuổi bệnh nhân ≥ 45, kích thước khối u > 5 cm, 
khi phẫu thuật thấy xâm lấn ra ngoài nhu mô 
giáp, di căn xa tại thời điểm phát hiện, có bộc 
lộ IMP3(immunohistochemical markers like 
insulin-like growth factor mRNA-binding protein 
3).1,6 
Cho đến nay, chưa có phác đồ điều trị riêng 
biệt cho UTBMKBH của tuyến giáp và phẫu 
thuật vẫn là phương pháp chính cho các ung 
thư tiến triển tại chỗ. Các phương pháp điều trị 
sau phẫu thuật như xạ trị ngoài, liệu pháp I-ốt 
phóng xạ, hóa trị vẫn chưa được thành lập.3,6 
Do có sự biến đổi trong lượng I-ốt được hấp 
thu, I-ốt phóng xạ chỉ có hiệu quả trong một 
nhóm nhỏ mặc dù số trường hợp đáp ứng chưa 
rõ. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong cao và lợi ích liệu 
pháp tiềm năng mà liệu pháp I-ốt phóng xạ liều 
cao được đề xuất bởi nhóm các chuyên gia đa 
ngành. Sau kết quả của thử nghiệm “QUYẾT 
ĐỊNH và LỰA CHỌN” được công bố, sorafenib 
và lenvatinib đã được chấp thuận bởi Cục quản 
lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ cho những 
bệnh nhân kháng liệu pháp I-ốt phóng xạ, tái 
phát hoặc di căn.3,7,8 Bệnh nhân chúng tôi báo 
cáo trên 45 tuổi, kích thước khối u dưới 5 cm, có 
xâm nhập bạch mạch, xâm nhập vỏ xơ nhưng 
chưa di căn hạch hay di căn xa, sau phẫu thuật 
bệnh nhân được xạ I-ốt 131, theo dõi định kỳ và 
hiện tại tình trạng sức khỏe ổn định.
V. KẾT LUẬN
Ung thư biểu mô kém biệt hóa của tuyến 
giáp là một thực thể riêng biệt, hiếm gặp và có 
tiên lượng tồi. Do không có hình ảnh tế bào học 
đặc hiệu nên u thường bị chẩn đoán nhầm trên 
tế bào học. Chẩn đoán xác định UTBMKBH 
phải dựa trên mô bệnh học theo tiêu chuẩn 
Turin 2006. Chúng tôi báo cáo một trường hợp 
điển hình về UTBMKBH của tuyến giáp nhằm 
góp phần làm phong phú thêm tổng số trường 
hợp UTBMKBH trong nước và thế giới đồng 
thời cung cấp thêm các dữ liệu về lâm sàng và 
mô bệnh học cho thể bệnh này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Weltgesundheitsorganisation, Lloyd RV, 
Osamura RY, Klöppel G, Rosai J, International 
Agency for Research on Cancer, eds. WHO 
Classification of Tumours of Endocrine Organs. 
4th edition. International Agency for Research 
on Cancer; 2017.
2. Win TT, Othman NH, Mohamad I. Poorly 
differentiated thyroid carcinoma: A hospital-
based clinicopathological study and review of 
literature. Indian J Pathol Microbiol. 2017; 60 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 77
(2):167. doi:10.4103/IJPM.IJPM_457_16
3. Dettmer MS, Schmitt A, Komminoth 
P, Perren A. Poorly differentiated thyroid 
carcinoma : An underdiagnosed entity. Pathol. 
2020; 41 (Suppl 1): 1 - 8. doi:10.1007/s00292-
019-0600-9
4. Volante M, Collini P, Nikiforov YE, et al. 
Poorly differentiated thyroid carcinoma: the 
Turin proposal for the use of uniform diagnostic 
criteria and an algorithmic diagnostic approach. 
Am J Surg Pathol. 2007; 31 (8): 1256 - 1264. 
doi:10.1097/PAS.0b013e3180309e6a
5. Bongiovanni M, Fadda G, Faquin WC. Poorly 
Differentiated Thyroid Carcinoma. Bethesda 
Syst Report Thyroid Cytopathol. Published 
online 2018: 177 - 188. doi:10.1007/978-3-319-
60570-8_10
6. Hannallah J, Rose J, Guerrero MA. 
Comprehensive Literature Review: Recent 
Advances in Diagnosing and Managing Patients 
with Poorly Differentiated Thyroid Carcinoma. 
International Journal of Endocrinology. 
doi:https://doi.org/10.1155/2013/317487
7. DeLellis RA, Lloyd RV, Heitz PU, Charis 
Eng. World Health Organization Classification of 
Tumours: Pathology and Genetics of Tumours of 
Endocrine Organs. IARC; 2004.
8. Xu B, Ghossein R. Genomic Landscape 
of poorly Differentiated and Anaplastic Thyroid 
Carcinoma. Endocr Pathol. 2016; 27 (3): 205 - 
212. doi:10.1007/s12022-016-9445-4
Summary
A CASE REPORT OF POORLY DIFFERENTIATED THYROID 
CARCINOMA AND LITERATURE REVIEW
Poorly differentiated thyroid carcinoma (PDTC) is a malignancy, accounting for 0,3 - 6,7% of 
all thyroid cancers, with intermediate morphology and behavior between well-differentiated and 
anaplastic carcinoma. Their characteristic cytological features are not highly specific and most of 
the PDTC cases are diagnosed cytologically as “suspicious for a follicular neoplasm”. We report 
a case of 61-year-old male patient hospitalized for a mass incidentally identified in his neck. The 
ultrasound revealed hypoechoic nodule of 29 x 47 mm in the left thyroid lobe, with irregular edges 
and peripheral gross calcification. Cytopathological result was papillary thyroid carcinoma but 
histopathological result showed that this was a poorly differentiated carcinoma of the thyroid gland. 
Key words: Poorly differentiated thyroid carcinoma, thyroid cancer.

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_mot_truong_hop_ung_thu_bieu_mo_kem_biet_hoa_cua_tuye.pdf