Báo cáo loạt ca đặt đường tiêm dưới da duy trì trong chăm sóc giảm nhẹ
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, tiện lợi và an toàn trong sử dụng kỹ thuật đặt đường tiêm dưới da (TDD)
duy trì nhiều ngày trong Chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) cho người bệnh ung thư (UT).
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca với 8 ca lâm sàng BNUT điều trị tại khoa CSGN, BVUB TP. HCM
từ tháng 6-9/2018. Sử dụng phiếu khảo sát để thu thập số liệu. Thống kê mô tả được sử dụng để phân tích
số liệu.
Kết quả:
TDD duy trì nhiều ngày có thể sử dụng cho bất kỳ BN ở mọi lứa tuổi, tuổi, mọi chẩn đoán và mọi chỉ số
KPS, đặ biệt là với KPS thấp (30-50) khi BN có chỉ định kiểm soát các triệu chứng khó chịu và bị giới hạn việc
dùng thuốc bằng đường uống.
Tính hiệu quả trong kiểm soát triệu chứng trên BN đạt mức độ cao (87.5%).
Không ghi nhận tai biến tại chỗ, tính an toàn trên BN đạt mức độ cao (100%).
Tính an toàn khi thực hiện kỹ thuật trên thân nhân BN đạt mức độ cao (87.5%).
Tính tiện lợi trên BN và thân nhân BN đạt mức độ cao (87.5%-100%).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo loạt ca đặt đường tiêm dưới da duy trì trong chăm sóc giảm nhẹ
ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 470 BÁO CÁO LOẠT CA ĐẶT ĐƯỜNG TIÊM DƯỚI DA DUY TRÌ TRONG CHĔM SÓC GIẢM NHẸ HOÀNG THỊ MỘNG HUYỀN,1 ĐẶNG HUY QUỐC THỊNH2, PHẠM THANH HUYÊN3, TRỊNH HỒNG GẤM3, NGUYỄN THỊ TUYẾT NGA3, TRẦN KIM NGUYÊN3, LÊ NHẬT THANH TUYỀN3, NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN3, LÊ THỊ THANH LANG3, BÙI THỊ HOÀNG YẾN3, NGUYỄN THỊ THÚY AN3, NGUYỄN NGỌC HƯƠNG THẢO4, PHAN ĐỖ PHƯƠNG THẢO4, QUÁCH THANH KHÁNH5 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả, tiện lợi và an toàn trong sử dụng kỹ thuật đặt đường tiêm dưới da (TDD) duy trì nhiều ngày trong Chĕm sóc giảm nhẹ (CSGN) cho người bệnh ung thư (UT). Phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca với 8 ca lâm sàng BNUT điều trị tại khoa CSGN, BVUB TP. HCM từ tháng 6-9/2018. Sử dụng phiếu khảo sát để thu thập số liệu. Thống kê mô tả được sử dụng để phân tích số liệu. Kết quả: TDD duy trì nhiều ngày có thể sử dụng cho bất kỳ BN ở mọi lứa tuổi, tuổi, mọi chẩn đoán và mọi chỉ số KPS, đặ biệt là với KPS thấp (30-50) khi BN có chỉ định kiểm soát các triệu chứng khó chịu và bị giới hạn việc dùng thuốc bằng đường uống. Tính hiệu quả trong kiểm soát triệu chứng trên BN đạt mức độ cao (87.5%). Không ghi nhận tai biến tại chỗ, tính an toàn trên BN đạt mức độ cao (100%). Tính an toàn khi thực hiện kỹ thuật trên thân nhân BN đạt mức độ cao (87.5%). Tính tiện lợi trên BN và thân nhân BN đạt mức độ cao (87.5%-100%). Kết luận/ Kiến nghị: Tính hiệu quả, an toàn, tiện lợi trên BN đạt mức độ cao. Tính an toàn, tiện lợi trên thân nhân BN đạt mức độ cao. Cần thiết phải có một nghiên cứu cụ thể, khoa học với cỡ mẫu lớn hơn để kết quả thu gặt được mang tính thuyết phục. Bệnh viện cần thiết có chương trình tập huấn trong bệnh viện để tất cả các ĐD biết rõ qui trình, kỹ thuật và hoàn toàn yên tâm trong thực hành lâm sàng CSGN đặc biệt là chĕm sóc các BN cận tử, khi việc đưa thuốc vào cơ thể thông qua đường uống bị giới hạn nhằm kiểm soát tốt các triệu chứng cuối đời, nâng cao hiệu quả, chất lượng sống cho từng người bệnh. ABSTRACT Continous subcutaneous injection in palliative care: Case series Objective: To access efficiency and convenience, safety in continous subcutaneous injection in palliative care for cancer patients. 1 ĐDCKI. Điều dưỡng Trưởng Khoa Chĕm sóc Giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 TS.BS. Phó Giám đốc - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 ĐD Khoa Chĕm sóc Giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 4 ThS.BS. Khoa Chĕm sóc Giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 5 ThS.BSCKII. Trưởng Phòng kế hoạch tổng hợp, kiêm Trưởng Khoa Chĕm sóc giảm nhẹ - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 471 Method: A descriptive study conducted on 8 inpatients at Palliative Care Department at Oncology hospital in Ho Chi Minh City. Questionaire was used for data collection. Descriptive statistic were used for data analysis. Results: Continous subcutaneous injection can be applicated for any patient who has incations for pain control and symptoms relief, especially when oral route is limited. As for patients, efficiency in symptom control was high (87.5%), No local complication was observed so safety was high (100%). When patient’s family perform the technique, safety was high (87.5%). Convenience seen in patients and their families was high (87.5% - 100%). Conclusion/implication: Efficiency in symptom control, convenience and safety seen in patients was high with no complication was recorded. As for their families, safety and convenience was high. A more descriptive, more scientific with bigger sample study need to be launched for more convincing results. Furthermore, more training programs for nurses to get to know the procedures, techniques, and completely confident in clinical palliative care, especially in end of life care, when oral route is limited. Keywords: Continous subcutaneous injection, Palliative Care, syringe driver. ĐẶT VẤN ĐỀ Chĕm sóc giảm nhẹ (Palliative care, CSGN) là một lĩnh vực y học mới rất được quan tâm hiện nay, và đặc biệt cần thiết trong lĩnh vực điều trị ung thư (UT). Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), CSGN là một phần thiết yếu của việc chĕm sóc điều dưỡng (ĐD) góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (BN)[1]. Mục tiêu của CSGN là kiểm soát triệu chứng bởi sự kết hợp các biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc. Mục tiêu này đã đạt được sự đồng thuận về các thuốc thiết yếu để điều trị các triệu chứng cụ thể, được biên dịch xuất bản bởi Hiệp hội Quốc tế về Hospice và Chĕm sóc giảm nhẹ (IAHPC)[2]. Trong CSGN và chĕm sóc BN hấp hối, việc quản lý các triệu chứng phức tạp ở BN giai đoạn cuối đòi hỏi phải thường xuyên và kiểm soát tốt, thông qua việc dùng thuốc bằng đường uống hay đường tiêm chích nhưng đều phải đáng tin cậy, hiệu quả và không nặng nề đối với từng BN. CSGN được cung cấp theo nhu cầu của từng cá nhân[1], có thể tính bằng ngày, tuần hoặc tháng trước khi chết và phải luôn sẵn có ở bất cứ nơi nào như trong bệnh viện, tại nhà người bệnh hay viện dưỡng lão. Vì nhiều lý do, dùng thuốc bằng đường uống có thể bị giới hạn ở các bệnh nhân do giai đoạn bệnh lý như buồn nôn, nôn ói, nuốt khó, rối loạn tri giác[3,4] Việc sử dụng thuốc bằng đường tiêm dưới da duy trì nhiều ngày là thực hành chung trong CSGN để điều trị đau và các triệu chứng khác khi các đường dùng thuốc khác không còn thích hợp hoặc không hiệu quả[1] và được áp dụng rộng rãi cho nhiều đối tượng, không phải chỉ cho những người bệnh đang hấp hối. TDD duy trì nhiều ngày đã trở thành một phần quan trọng của việc chĕm sóc để đảm bảo sự thoải mái cho nhiều BN[5], nâng cao chất lượng chĕm sóc[3]. Chính vì thế, chúng tôi đã triển khai thực hành lâm sàng đặt đường TDD duy trì nhiều ngày trên các BNUT điều trị tại khoa CSGN, BVUB TP. HCM” theo hướng dẫn của Hiệp hội Quốc tế về Hospice và Chĕm sóc giảm nhẹ (IAHPC) để đánh giá tính hiệu quả, an toàn và tiện lợi trong công tác chĕm sóc BN giai đoạn cuối. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu mô tả loạt ca với 8 ca lâm sàng BNUT điều trị tại khoa CSGN, BVUB TP.HCM từ tháng 6-9/ 2018. Sử dụng phiếu khảo sát để thu thập số liệu. Thống kê mô tả được sử dụng để phân tích số liệu. Tiêu chuẩn chọn bệnh Các BNUT điều trị tại khoa CSGN, BVUB cần thiết kiểm soát các triệu chứng nhưng không thể dùng thuốc qua đường miệng, có rối loạn tri giác hoặc/ và CSGN cuối đời. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả loạt ca Tiến hành nghiên cứu và đánh giá kết quả: Ghi nhận thông tin lâm sàng từ hồi cứu hồ sơ bệnh án và các phiếu khảo sát về đặc điểm nhân khẩu học: tuổi, giới, chỉ số hoạt động cơ thể (KPS), chẩn đoán. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 472 Các đánh giá chủ quan từ BN và thân nhân BN về sự thoải mái, tính hiệu quả, an toàn, tiện lợi, mức độ lo lắngMột số các thông tin do ĐD đánh giá: lý do đặt kim, tri giác BN, tai biến tại chỗ, thời gian lưu kim, lý do thay kim, các loại thuốc dùng, thời gian lưu kim. Kết quả Thông tin của đối tượng nghiên cứu Nhận xét: Bảng 1 cho thấy độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 66, ( SD= 16.2) tuổi từ 70-90 chiếm tỉ lệ cao nhất (60%). BN nữ 62.5%; BN nam 37.5%. Chẩn đoán bị UT cho các loại bệnh phổi, gan, tụy, đại tràng, hốc mũi, dạ dày từ 1-2 trường hợp. KPS 50 chiếm tỉ lệ cao nhất 37.5%, KPS 30-40 và 70 chiếm 25%, thấp nhất là KPS 60 chiếm 12.5%. Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu về giới tính, tuổi, chẩn đoán, KPS (n=8) Biến số Tần số Tỷ lệ (%) Giới Nam 3 37.5 Nữ 5 62.5 Tuổi <50 2 25.0 50-70 2 25.0 70-90 4 50.0 X = 66.5 , SD = 16.2) Min - Max 41-84 Chẩn đoán Phổi 1 12.5 Đại tràng 2 25.0 Gan 1 12.5 Tụy 2 25.0 Hốc mũi 1 12.5 Dạ dày 1 12.5 Chỉ số hoạt động cơ thể (KPS) 30-40 2 25.0 50 3 37.5 Loại thuốc dùng (n=8) Nhận xét: Biểu đồ 1,2, cho thấy BN dùng 2 loại thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất 50%, dùng 1 loại là 30% và dùng 3 loại là 20%, trong đó sử dụng Morphin 47%, Dexa 23.5%, Haloperidol 17.7%, Buscoban là thấp nhất 11.8%. ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 473 Bảng 2. Mô tả tỉ lệ thuốc dùng, số ngày đặt kim và lý do đặt kim (n = 8) Tần suất Tỉ lệ Chỉ định Liều dùng Morphin 10mg 8/8 100% Kiểm soát khó thở, đau, 3 – 24mg/ngày Buscopan 2/8 25% Thở khò khè, tĕng tiết đàm nhớt 1-2 ống/ ngày Haloperidon 2mg 3/8 37.5% Mê sảng 1 -4 ống/ ngày Dexa 4mg 4/8 50% ???? 1-2 ống/ ngày Lý do đặt kim (n=8) Không dùng đường miệng 2/8 25% Rối loạn tri giác 3/8 37.5% Chĕm sóc cuối đời 8/8 100% Số ngày TDD 2-18 ngày Nhận xét: Bảng 2 cho thấy 100% BN đều sử dụng Morphin qua đường TDD duy trì; 50% BN có dùng thêm Dexa; Buscoban và Haloperidol được sử dụng với tỉ lệ thấp hơn (25% và 37.5%). 100% BN đặt đường TDD duy trì để kiểm soát triệu chứng cuối đời (đau, khó thở, khò khè, tĕng tiết đàm nhớt, tiếng nấc hấp hối, mê sảng Số ngày TDD từ 2-18 ngày. Đánh giá chủ quan từ BN (n=8) Biểu đồ 3. Đánh giá chủ quan từ BN Nhận xét Biểu đồ 3 cho thấy BN cảm thấy thoải mái khi sử dụng kỹ thuật TDD duy trì nhiều ngày đến 25% ở mức độ 4 và 62.5% ở mức độ 3; có 12.5% BN không cảm thấy thoải mái. Hiệu quả trong kiểm soát triệu chứng ghi nhận được trên BN là 87.5% ở mức độ 4; 12.5% ở mức độ 3. Có đến 50% lo lắng trước khi được giải thích ở mức độ 3 và 50% ở mức độ 1. Sau khi được giải thích thì chỉ còn 40% lo lắng ở mức độ 1. Tính tiện lợi gần 90% ở mức độ 4. 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Sự thoải mái Hiệu quả trong kiểm soát triệu chứng Mức độ lo lắng trước khi được giải thích Mức độ lo lắng sau khi được giải thích Tính tiện lợi Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4 Mức độ 5 không thoải mái ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 474 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Sự thoải mái Thao tác dễ dàng Mức độ lo lắng trước khi được giải thích Mức độ lo lắng sau khi được giải thích An toàn trong thao tác Tính tiện lợi Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4 Mức độ 5 không lo lắng Đánh giá chủ quan từ thân nhân BN (n=8) Biểu đồ 4. Đánh giá chủ quan từ thân nhân Nhận xét Biểu đồ 4 cho thấy thân nhân BN cảm thấy thoải mái khi sử dụng kỹ thuật TDD duy trì nhiều ngày đến 75% ở mức độ 4 và 25% ở mức độ 3. Việc thao tác dễ dàng đạt đến 100% ở mức độ 4 đến 5. Có đến 462.5 lo lắng trước khi được giải thích ở mức độ 3 đến 4 và sau khi được giải thích thì chỉ còn lo lắng ở mức độ 1 (87.5%). Tính an toàn trong thực hiện kỹ thuật 87.5% ở mức độ 4 đến 5, 12.5% đạt mức độ 3. Tính tiện lợi đạt 100% ở mức độ 4 đến 5. Số lần TDD/ ngày và tổng số lần TDD (n=8) Nhận xét: Biểu đồ 5, 6 cho thấy số lần TDD/ ngày cao nhất là 6 lần đạt 50%, cá biệt có 10% TDD đến 12 lần/ ngày. Số BN sử dụng đường TDD cho mục đích cứu hộ cũng khá cao 30%. Tổng số lần BN sử dụng cho việc TDD để kiểm soát triệu chứng cao nhất từ 20-50 lần (40%), ít nhất là >100 lần (10%). ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 475 Tai biến tại chỗ (n=8) Biểu đồ 7. Tai biến tại chỗ Nhận xét: Biểu đồ 7 ghi nhận không có tai biến tại chỗ trên 8 ca lâm sàng. Bảng 3. Số lần thay kim và số ngày thay kim (n=8) Tần số Tỉ lệ Lý do Số ngày thay kim Không thay 5 62.5 BN tử vong 3-5 ngày 1 12.5 Định kỳ 6-8 ngày 2 25.0 Định kỳ Số lần thay kim Không thay 5 62.5 BN tử vong 2-4 lần 2 25.0 5-7 lần 1 12.5 Loại kim sử dụng 100%: kim luồn (catheter) Nhận xét: Bảng 3 cho thấy có 5 trường hợp BN không thay kim do tử vong (62.5%), thời gian thay kim từ 6-8 ngày chiếm 25% và từ 3-5 ngày là 12.5%; Chỉ có 3/8 BN thay kim (37.5%). Loại kim sử dụng trong đặt đường TDD duy trì là kim luồn 100%. BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng BN nữ cao hơn nam (62.5% và 37.5%) với độ tuổi từ 70-90 chiếm tỉ lệ cao nhất 50%, thấp nhất là 41 tuổi và cao nhất là 84 tuổi; chỉ số Karnofski (KPS) cao nhất là 50 chiếm 37.5%, KPS 30-40 và 70 chiếm 25%. Chẩn đoán UT đường tiêu hóa (75%) tương đồng với nghiên cứu của Koivu và CS trên 138 BN ung thư phổ biến nhất là ung thư dạ dày-ruột (33%)[6]. Điều này cho thấy kỹ thuật TDD duy trì nhiều ngày có thể sử dụng cho bất kỳ BN ở mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi chẩn đoán và mọi chỉ số KPS, đặc biệt là với KPS thấp, tiên lượng tử vong, có chỉ định kiểm soát các triệu chứng khó chịu cuối đời và giới hạn trong dùng thuốc bằng đường uống, tương đồng với nghiên cứu của Koivu và CS tại Phần Lan 138 BN cần CSGN[6]. BN dùng 2 loại thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất 50%, 1 loại là 30% và 3 loại là 20% trong đó sử dụng Morphin cho tất cả các trường hợp (8/8 – đạt 100%), nghiên cứu của Koivu và CS là 89.9%[6]. Dexa, Haloperidol, Buscoban là các loại thuốc thường dùng, phù hợp trong CSGN[7], các thuốc thường dùng trong NC của Masman là morphine, midazolam và haloperido[2]. Chỉ định đặt kim 100% BN để kiểm soát triệu chứng cuối đời (đau, khó thở, khò khè, tĕng tiết đàm nhớt, tiếng nấc hấp hối, mê sảng tương đồng nghiên cứu của Koivu[6]. Morphin chỉ được cấp phép sử dụng trong tiêm truyền dưới da (TTDD,CSCI), không được cấp phép sử dụng trong TDD[7]. Việc kiểm soát triệu chứng qua TDD trong CSGN được hỗ trợ bởi kinh nghiệm ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 476 thực hành lâm sàng và các nguồn tham khảo được chấp nhận như Sách giáo khoa Oxford về CSGN hoặc Danh mục CSGN[1,2]. Mặc dù đường TDD được ưu tiên trong CSGN nhưng chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Về opioid, chỉ là thử nghiệm lâm sàng nhỏ và hầu như không được kiểm soát ngẫu nhiên để so sánh với TTM hay tiêm bắp[4,8,9]. Tuy vậy, trong một số nghiên cứu đường TDD vẫn được ưu tiên vì rủi ro biến chứng thấp.[10] Liều lượng thuốc dùng với Morphin là từ 3-24mg/ngày so sánh với Masman, 2015 là < 100mg/24h, là liều thấp đến trung bình. Điều này cho thấy, nhu cầu của từng bệnh nhân sẽ qui định liều lượng thuốc sử dụng[2]. Đánh giá chủ quan về phía BN với mức độ thoải mái khi TDD duy trì nhiều ngày với mức độ trong bình (<75%), đặc biệt có 12.5% (1/8) BN hoàn toàn không cảm thấy thoải mái. Về hiệu quả kiểm soát triệu chứng ghi nhận được trên BN là mức độ cao (87.5%). Sự lo lắng ở BN được giải tỏa bớt sau khi được giải thích, chỉ còn 40% ở mức độ 1. Tính tiện lợi cũng đạt mức độ cao (87.5%). NC cho thấy thân nhân BN cảm thấy thoải mái khi sử dụng kỹ thuật TDD duy trì nhiều ngày ở mức độ cao (=75%). Việc thao tác dễ dàng đạt đến100% ở mức độ cao (4 đến 5). Tương tự như BN, khi được giải thích đúng mức sự lo lắng của thân nhân BN chỉ còn 40% ở mức độ 1. Tính an toàn và tiện lợi khi thực hiện kỹ thuật đạt mức độ cao (87.5%-100%). Qua đánh giá chủ quan từ phía BN và thân nhân BN cho thấy nếu NVYT làm tốt công tác tư vấn cũng như hỗ trợ gia đình BN trong suốt quá trình lưu kim thì góp phần không nhỏ trong công tác cải thiện chất lượng sống của BN cũng như hỗ trợ một cách hiệu quả cho gia đình BN trong chĕm sóc người thân của họ tại nhà ở giai đoạn cuối đồng thời cũng giảm áp lực công việc cho người ĐD. Số lần TDD/ ngày cao nhất là 6 lần (4/4), cá biệt có 1 trường hợp là 12 lần/ ngày. Số BN sử dụng đường TDD cho mục đích cứu hộ cũng khá cao (3/8). Số lần thực hiện TDD cho BN để kiểm soát triệu chứng tới cá biệt lên đến >200 lần (1/8), trung bình từ 20-50 lần (4/4). Thời gian sử dụng đường TDD là 2-18 ngày ít hơn nghiên cứu của Koivu (2-376 ngày)[6]. Như vậy, với việc đi lập lại một thao tác TDD, nếu chúng ta không đặt đường TDD duy trì nhiều ngày thì BN sẽ phải đau đớn khổ sở chịu đựng việc tiêm chích nhiều như thế nào. Có 5/8 trường hợp (62.5%) BN không thay kim do tử vong (2-3 ngày). Số ngày lưu kim <14 ngày (100%), được tuân thủ theo hướng dẫn của Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục CSGN của trường Đại học Queeslan, Úc. Không có trường hợp nào gặp tai biến tại chỗ theo ghi nhận của loạt ca nghiên cứu, có thể do do lượng ca báo cáo nhỏ, thời gian lưu kim không dài (thời gian lưu kim có thể đến 14 ngày[11] và 100% sử dụng kim luồn dưới da thay thế cho kim cánh bướm. Điều này tương đồng với nghiên cứu của Ross và cộng sự, 2002: Teflon cannulae có liên quan với việc giảm tai biến tại chỗ khi so sánh với kim cánh bướm bằng kim loại[12] và việc sử dụng Dexa trong quá trình TDD cũng có thể làm giảm các tai biến tại chỗ dexamethasone[1,13]. KẾT LUẬN Qua thực hành lâm sàng 8 trường hợp sử dụng kỹ thuật TDD duy trì nhiều ngày trong CSGN cho BNUT giai đoạn muộn tại khoa CSGN, BVUB, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Việc TDD duy trì nhiều ngày có thể sử dụng cho bất kỳ BN ở mọi lứa tuổi, tuổi, mọi chẩn đoán và mọi chỉ số KPS, đặc biệt là với KPS thấp (30-50), tiên lượng tử vong, BN có chỉ định cần kiểm soát các triệu chứng khó chịu và giới hạn việc dùng thuốc bằng đường uống. Các loại thuốc sử dụng trong TDD duy trì như Haloperodol, Buscopan, Dexa đều được cấp phép sử dụng trong TDD và TTDD; riêng Morphin, loại thuốc chủ yếu dùng trong CSGN thì chỉ có giấy phép sử dụng trong TTDD, việc TDD được hướng dẫn bởi Hiệp hội Quốc tế về Hospice và Chĕm sóc giảm nhẹ (IAHPC) và rất nhiều quốc gia cũng tuân theo khuyến cáo này (Bỉ, Canada, Hà Lan, Phần Lan Úc). 100% BN trong CSGN cuối đời có sử dụng Morphin và nhu cầu của từng bệnh nhân sẽ qui định liều lượng thuốc sử dụng. 2. Hiệu quả kiểm soát triệu chứng trên BN đạt mức độ cao. 3. Tính an toàn trên BN đạt mức độ cao, không ghi nhận tai biến tại chỗ (100%). 4. Tính an toàn khi thân nhân BN thực hiện kỹ thuật TDD đạt mức độ cao (87.5%). 5. Tính tiện lợi trên BN và thân nhân BN đạt mức độ cao (87.5%-100%). Kiến nghị Cần thiết phải có một nghiên cứu cụ thể, khoa học với cỡ mẫu lớn hơn để kết quả thu gặt được mang tính thuyết phục. TDD một kỹ thuật ĐD đơn giản, dễ thực hiện nhưng rất hiệu quả trong kiểm soát đau và các triệu chứng khác cho BN, đặc biệt là BN cận tử, không ĐIỀU DƯỠNG - CHĔM SÓC GIẢM NHẸ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 477 dùng thuốc qua đường miệng được. Các thuốc sử dụng đa số có giấy phép sử dụng và khuyến cáo sử dụng từ Hiệp hội Quốc tế về Hospice và Chĕm sóc giảm nhẹ (IAHPC). Vì vậy, Bệnh viện cần thiết có chương trình tập huấn trong bệnh viện để tất cả các ĐD biết rõ qui trình, kỹ thuật và hoàn toàn yên tâm trong thực hành lâm sàng CSGN đặc biệt là chĕm sóc các BN cận tử, khi việc đưa thuốc vào cơ thể thông qua đường uống bị giới hạn nhằm kiểm soát tốt các triệu chứng cuối đời, nâng cao hiệu quả, chất lượng sống cho từng người bệnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dickman A, Schneider J. The syringe driver: continuous subcutaneous infusions in palliative care: Oxford University Press; 2016. 2. Masman AD, van Dijk M, Tibboel D, Baar FPM, Mathôt RAA. Medication use during end-of-life care in a palliative care centre. International journal of clinical pharmacy. 2015;37(5):767-75. 3. Tanguy-Goarin C, Cogulet V. Drugs administration by subcutaneous injection within palliative care. Therapie. 2010;65(6):525-31. 4. Jain S, Mansfield B, Wilcox M. Subcutaneous fluid administration–better than the intravenous approach? Journal of hospital infection. 1999;41(4):269-72. 5. Mitten T. Subcutaneous drug infusions: a review of problems and solutions. International journal of palliative nursing. 2001;7(2):75-85. 6. Koivu L, Polonen T, Stormi T, Salminen E. End- of-life pain medication among cancer patients in hospice settings. Anticancer Res. 2014;34(11):6581-4. 7. Boyd K. Lanakshire Palliative Care Guidelines. 2012 [cited 2018 4 November]; Available from: iveCare/Documents/NHS%20Lanarkshire%20Pa lliative%20Care%20Guidelines.pdf. 8. Caraceni A, Hanks G, Kaasa S, Bennett MI, Brunelli C, Cherny N, et al. Use of opioid analgesics in the treatment of cancer pain: evidence-based recommendations from the EAPC. Lancet Oncol. 2012;13(2):70040-2. 9. Radbruch L, Trottenberg P, Elsner F, Kaasa S, Caraceni A. Systematic review of the role of alternative application routes for opioid treatment for moderate to severe cancer pain: An EPCRC opioid guidelines project. Palliative medicine. 2011;25(5):578-96. 10. de Sousa E, Jepson BA. Midazolam in terminal care. Lancet. 1988;1(8575-6):67-8. 11. Morgan S, Evans N. A small observational study of the longevity of syringe driver sites in palliative care. Int J Palliat Nurs. 2004;10(8):405-12. doi: 10.12968/ijpn.2004.10.8.9532. 12. Abbas SQ, Yeldham M, Bell S. The use of metal or plastic needles in continuous subcutaneous infusion in a hospice setting. American Journal of Hospice and Palliative Medicine®. 2005;22(2):134-8. 13. Reymond L, Charles MA, Bowman J, Treston P. The effect of dexamethasone on the longevity of syringe driver subcutaneous sites in palliative care patients. Medical journal of Australia. 2003;178(10):486-9.
File đính kèm:
bao_cao_loat_ca_dat_duong_tiem_duoi_da_duy_tri_trong_cham_so.pdf

