Báo cáo loạt ca bệnh hiếm gặp: Bướu sợi vỏ bào buồng trứng trong thai kì

Đặt vấn đề: Bướu sợi vỏ bào thuộc nhóm bướu mô đệm-dây giới bào của buồng trứng, một dạng bướu đặc

nhưng lành tính. Bướu chiếm tỷ lệ thấp và trong thai kỳ chỉ có tỉ lệ dưới 5%. Cho tới nay, chưa có những phác đồ

thống nhất trong chẩn đoán và xử trí bướu sợi vỏ bào trong thai kỳ.

Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và phương cách xử trí bướu sợi vỏ bào trong thai kỳ tại bệnh viện Từ Dũ.

Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca hồi cứu các trường hợp mổ u buồng trứng trong

thai kỳ có kết quả giải phẫu bệnh lý là bướu sợi vỏ bào trong khoảng thời gian từ tháng 01/2015 đến tháng

06/2019

pdf 6 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo loạt ca bệnh hiếm gặp: Bướu sợi vỏ bào buồng trứng trong thai kì", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo loạt ca bệnh hiếm gặp: Bướu sợi vỏ bào buồng trứng trong thai kì

Báo cáo loạt ca bệnh hiếm gặp: Bướu sợi vỏ bào buồng trứng trong thai kì
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 27
BÁO CÁO LOẠT CA BỆNH HIẾM GẶP: 
BƯỚU SỢI VỎ BÀO BUỒNG TRỨNG TRONG THAI KÌ 
Nguyễn Hồng Hoa1, Nguyễn Huỳnh Ngọc Tân1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bướu sợi vỏ bào thuộc nhóm bướu mô đệm-dây giới bào của buồng trứng, một dạng bướu đặc 
nhưng lành tính. Bướu chiếm tỷ lệ thấp và trong thai kỳ chỉ có tỉ lệ dưới 5%. Cho tới nay, chưa có những phác đồ 
thống nhất trong chẩn đoán và xử trí bướu sợi vỏ bào trong thai kỳ. 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và phương cách xử trí bướu sợi vỏ bào trong thai kỳ tại bệnh viện Từ Dũ. 
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca hồi cứu các trường hợp mổ u buồng trứng trong 
thai kỳ có kết quả giải phẫu bệnh lý là bướu sợi vỏ bào trong khoảng thời gian từ tháng 01/2015 đến tháng 
06/2019. 
Kết quả: Có 4 trường hợp phát hiện u sợi vỏ bào trong thai kỳ. Hai trường hợp chỉ phát hiện tình cờ lúc mổ 
lấy thai, không được chẩn đoán trước và trong thai kỳ. Một trường hợp khối u được chẩn đoán là u xơ cơ tử cung 
và được mổ lấy thai vì khối u tiền đạo. Và duy chất có 1 trường hợp phát hiện u lúc thai 20 tuần và có chỉ định 
mổ vì nghi khối u ác tính. Cả 4 trường hợp không có triệu chứng cơ năng, nhưng có 2 trường hợp được chẩn 
đoán trong thai kỳ với một là u xơ cơ tử cung và một là u ác tính. Khảo sát khối bướu trong lúc mổ lấy thai ghi 
nhận kích thước bướu từ 3 đên 18 cm, 50% dính vào tạng xung quanh và 50% có tăng sinh mạch máu. Xử trí 
khối bướu là bóc khối bướu (3/4 trường hợp) nhưng có 1 trường hợp nghi ác tính được tiến hành cắt phần phụ. 
Khối bướu được chẩn đoán là u xơ cơ tử cung được tiến hành bóc khó khăn vì dính và chảy máu nhiều với máu 
mất 5000 mL. 
Kết luận: Bướu sợi vỏ bào trong thai kì khó có được chẩn đoán chính xác trước mổ. Hình ảnh đại thể của 
bướu là điểm quan trọng để dự đoán độ lành ác và cách phẫu thuật. Cách xử trí ban đầu thường được chọn lựa là 
bóc bướu hoặc cắt phần phụ và sau đó sẽ không điều trị tiếp tục với kết quả bướu cỏ sợi bào lành tính. Siêu âm 
trong thai kỳ có thể bỏ sót khối bướu hoặc chẩn đoán không chính xác bản chất của bướu. 
Từ khóa: bướu vỏ sợi bào 
ABSTRACT 
A RARE PRESENTATION OF OVARIAN FIBRO THECOMA IN PREGNANCY: CASE SERIES 
Nguyen Hong Hoa, Nguyen Huynh Ngoc Tan 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 27 - 32 
Background: Ovarian fibro thecomas, classified as sex cord-stromal tumors, are solid tumors of the ovary 
but benign. Ovarian fibrothecomas in pregnancies are very rare, accounting for less than 5%. There has not been 
a consensus in its diagnosis and management. 
Objectives: to describe the clinical characteristics of women were diagnosed ovarian fibro thecomas after 
removing ovarian tumor during pregnancy to more understanding symptoms and management. 
Methods: A retrospective review of the medical records of four patients with a diagnosis of ovarian fibro 
thecomas in pregnancy. Diagnosed were based on the pathology of ovary tumor after laparotomy removing 
ovarian tumor in pregnancy or during cesarean section time from January 2015 to June 2019 at Tu Du Hospital. 
Clinical symptoms, sonographic characteristics and surgical method were collected and analyzed. 
1Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. HCM 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hồng Hoa ĐT: 0908285186 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 28
Results: A total 4 cases of fibro thecomas in pregnancy with no symptoms at all. Among them, 2 cases were 
incidentally diagnosed during cesarean delivery, 2 other cases were diagnosed because of supposing previa myoma 
in prenatal examination and malignant ovarian tumor at 20 weeks gestational age. The case supposed malignant 
ovarian tumor underwent unilateral salpingo-oophorectomy and 3 remaining cases were carried out ovarian 
cystecomy during cesarean section. The size of tumor ranged from 3 to 18 cm, adhension with adjacent organs 
and increased blood flow were present in 50% of cases. The case supposed myoma, which got stuck inside the 
surrounding structures, had 5000 mL blood losing during operation. 
Conclusion: Fibro thecomas in pregnancy could be found at the time of cesarean section and gross 
characteristics evaluated to decide the most appropriate treatment option however ovarian cystectomy was first 
choice. Ultrasound is not available for finding and identifying fibro thecomas in pregnancy. 
Keywords: fibro thecoma 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bướu sợi vỏ bào (BSVB) buồng trứng thuộc 
nhóm bướu dây sinh dục của buồng trứng (BT), 
khá hiếm, chiếm tỷ lệ khoảng 1-4,7%(1,2,3,4) các 
bướu tân sinh của buồng trứng. Là bướu lành 
tính nhưng lâm sàng, cận lâm sàng trước mổ rất 
khó phân định với bướu ác tính buồng trứng. 
Trên lâm sàng BSVB buồng trứng có thể đi kèm 
với tình trạng báng bụng, tràn dịch màng phổi 
trong hội chứng Meig. Bướu buồng trứng phát 
hiện trong thai kì với tỷ lệ từ 1-4%(3,4). Như vậy, 
tỷ lệ BSVB trong thai kì là vô cùng hiếm. Tuy 
nhiên, BSVB lại rất khó phân định với ung thư 
buồng trứng. Hơn nữa, các hướng dẫn lâm sàng 
dựa trên bằng chứng về cách xử trí ung thư 
buồng trứng tốt nhất trên phụ nữ mang thai vẫn 
chưa được thống nhất do thiếu các thử nghiệm 
ngẫu nhiên và nghiên cứu đoàn hệ. Vì vậy, rất 
khó để quyết định điều trị cho bệnh nhân ung 
thư buồng trứng khi mang thai. Ngoài ra, BSVB 
thường không có triệu chứng thậm chí siêu âm 
có thể không phát hiện dẫn tới bướu có thể phát 
hiện tình cờ vào thời điểm mổ lấy thai và can 
thiệp điều trị bướu buồng trứng sẽ không thể tối 
ưu. Như vậy, BSVB trong thai kỳ là bệnh rất 
hiếm do đó chúng tôi báo cáo loạt 4 trường hợp 
BSVB đến khám và điều trị tại bệnh viện Từ Dũ 
từ tháng 01/2015 đến tháng 06/2019 để có thêm 
dữ liệu về đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, 
chẩn đoán và xử trí của nhóm bệnh này. 
Mục tiêu 
Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học 
qua siêu âm, hình ảnh đại thể lúc phẫu thuật 
và phương pháp phẫu thuật của BSVB trong 
thai kỳ. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân được nhập viện, phẫu thuật và có 
kết quả giải phẫu bệnh là BSVB BT tại bệnh viện 
Từ Dũ trong khoảng thời gian từ tháng 1/2015 
đến tháng 6/2020. 
Tiêu chí chọn mẫu 
Bệnh nhân có kết quả giải phẫu bệnh của 
bệnh viện Từ Dũ cho lần mổ lấy khối bướu là 
BSVB BT. 
Tiêu chí loại trừ 
Mắc các bướu BT khác kèm theo, hoặc lạc nội 
mạc tử cung trong cơ. 
Mổ lần đầu tiên tại bệnh viện khác. 
Hồ sơ không đầy đủ hoặc thiếu thông tin 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Báo cáo loạt ca hồi cứu. 
Cách tiến hành nghiên cứu 
Bước 1 
Lấy danh sách toàn bộ bệnh nhân được mổ 
với chẩn đoán GPB là BSVB và có thai trong 
khoảng thời gian từ 1/2015 đến 6/2019 từ phần 
mềm quản lý của bệnh viện Từ Dũ, dựa vào mã 
ICD của BSVB là D27.212. Sau khi có được số 
nhập viện của từng bệnh nhân, chúng tôi thu 
thập hồ sơ để thu thập số liệu theo bảng kiểm. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 29
Bước 2 
Thu thập số liệu với bảng thu thập số liệu sẽ 
gồm những thông tin sau: đặc điểm dịch tễ, triệu 
chứng cơ năng và thực thể, hình ảnh học khối u 
trước phẫu thuật, đặc điểm đại thể khối u trong 
lúc phẫu thuật và phương phách phẫu thuật 
điều trị. 
Bước 3 
Nhập số liệu và phân tích số liệu. 
Bước 4 
Viết báo cáo. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 524/ĐHYD-HĐĐĐ, 
ngày 17/10/2019. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã thu 
thập được 4 ca BSVB trong thai kỳ như sau: 
Ca thứ 1 
MSNV: 037559, nhập viện 13.5.2015, Bệnh 
nhân 33 tuổi, Para 0020 với 2 lần sảy thai, Bệnh 
nhân không khám thai đầy đủ và không phát 
hiện có khối u buồng trứng. Nhập viện với chẩn 
đoán thai 39 tuần và Nonstrestest không đáp 
ứng. Siêu âm tại thời điểm nhập viện chỉ ghi 
nhận tình trạng thai, nhau và ối nên cũng không 
phát hiện khối u buồng trứng. Bệnh nhân mổ lấy 
thai với chẩn đoán trước mổ là nonstrestest 
không đáp ứng. Mổ lấy thai được 1 bé trai, 
Apgar 7.8, cân nặng 2900. Trong lúc mổ lấy thai 
phát hiện 1 khối u ở buồng trứng (T) kích thước 
3 cm đường kính, vỏ dày. bề mặt trơn láng, dạng 
đặc di đông, không dịch ổ bụng, buồng trứng (P) 
và các cơ quan khác trong ổ bụng không ghi 
nhận bất thường. Xử trí điều trị bóc và gửi GPB 
có kết quả là BSVB, máu mất trong cuộc mổ 200 
mL. Hậu phẫu bệnh nhân ổn. 
Ca thứ 2 
MSNV 1669, nhập viện 6.3.2015. Bệnh nhân 
25 tuổi, Para 0000.Bệnh nhân nhập viện lúc 20 
tuần với chẩn đoán ban đầu u buồng trứng trái 
to trên thai 20 tuần. Khảo sát hình ảnh chụp MRI 
trước phẫu thuật có: buồng trứng phải bình 
thường kích thước 22x17 mm, vùng hông trái có 
khối bất thường 74x88x50 mm (trước sau x cao x 
ngang), u dạng đặc đơn thùy, có vỏ bao rõ, tín 
hiệu trung gian trên t2w thấp trên t1w, có hình 
mạch máu bên trong. Chu cung trống. Không có 
hạch phì đại. Cùng đồ có dịch. Khảo sát các tầng 
bụng với các chuỗi xung Coronal, axial T2W 
haste: Gan, mật, tụy, lách, thận (T) và hai tuyến 
thượng thận không thấy tổn thương khư trú. 
Thận (P) ứ nước độ II và dãn niệu quản d# 8mm. 
Một thai trong tử cung. Kết luận: U dạng mô đặc 
vùng hông (T) có gợi ý k buồng trứng 
(Dysgerminoma?) - Thai trong tử cung - Thận 
(P) ứ nước độ II và dãn niệu quản. 
+ CA 125: 20,32 U/ml, HE4: 45,33 pmol/L và 
AFP: 6,1ng/ml. 
+ Can thiệp phẫu thuật vào lúc thai 20 tuần: 
mổ thám sát đường dọc dưới rốn, quan sát có 
khối u buồng trứng kích thước 10 cm đường 
kính, dạng đặc, có dính ít vào cơ quan lân cận và 
có mạch máu tăng sinh, tiến hành cắt phần phụ 
bên có u gửi sinh thiết lạnh. Khi kết quả sinh 
thiết lạnh có kết quả “BSVB lành tính” thì tiến 
hành đóng bụng và dưỡng thai tiếp tục. Kết cục 
hậu phẫu bệnh nhân ổn và sinh ngã âm đạo lúc 
thai 38 tuần. 
Ca thứ 3 
Bệnh nhân 38 tuổi, nhập viện 10/11/2016, 
MSNV: 093890, Para 0000, Không phát hiện khối 
u trong quá trình khám thai. Nhập viện vì thai 
39 tuân, ối vỡ non. Bệnh nhân được mổ lấy thai 
và bóc u vì phát hiện khối u buồng trứng (T) 
kích thước 5x4x3 cm, vỏ dày, bề mặt trơn láng, 
dạng đặc di đông, không dịch ổ bụng, buồng 
trứng (P) và các cơ quan khác trong ổ bụng 
không ghi nhận bất thường. Hậu phẫu bệnh 
nhân ổn. 
Ca thứ 4 
Bệnh nhân 24 tuổi, nhận viện 6/10/2016. 
MSNV: 082497. Para 0010 với 1 lần thai lưu. 
Khám thai ghi nhận khối u xơ cơ tử cung lớn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 30
dần theo thời gian từ tuần 13 của thai kỳ. Vào 
thời điểm nhập viện siêu âm ghi nhận: một thai 
39 tuần với cùng đồ sau lệch T dính vào thành tử 
cung khối echo kém dạng đặc, bờ đều, giới hạn 
tương đối rõ, kích thước 190x91x85 mm, 2 buồng 
trứng không quan sát được. Lúc này, kết luận 
của siêu âm không nghĩ nhiều là khối u xơ cơ tử 
cung nhưng cũng không biết rõ bản chất của 
khối u. Mổ lấy thai được tiến hành với chẩn 
đoán U xơ tử cung gây u tiền đạo. Quan sát 
trong lúc phẫu thuật có BT (P) bình thường, BT 
(T) có 1 khối u 100x80 x180 mm dạng đặc, dính 
vào hốc chậu và cùng đồ sau- mặt trước trực 
tràng, Tiến hành gỡ dính, cắt u nhưng có tình 
trạng chảy máu rất nhiều từ mạc treo sigma, trực 
tràng trên, phúc mạc thành bụng chậu và các 
nhánh mạch máu nuôi u do đó phải thắt động 
mạch hạ vị, máu mất tổng cộng 5000 ml. Kết quả 
giải phẫu bệnh là u sợi vỏ bào lành xuất huyết. 
Nhận xét 
Tuổi của 4 ca nghiên cứu đều dưới 40 tuổi và 
đều lần đầu sinh con thai đủ trưởng thành, trong 
đó hai trường hợp là có thai lần đầu và 2 trường 
hợp đã từng có thai nhưng bị sảy thai. 
Trong thai kỳ, cả 4 bệnh nân không có triệu 
chứng thực thể hay chức năng đặc biệt. Hình 
ảnh chẩn đoán trong thai kỳ không phát hiện 
khối u dù vào thời điểm mổ lấy thai khối u có 
bản chất u đặc có kích thước 3-5 cm. Một ca có 
chẩn đoán hình ảnh học trong thai kỳ là u xơ cơ 
tử cung nhưng vào thời điểm trước mổ chỉ ghi 
nhận một khối u đặc và không rõ bản chất. 
Chỉ có một trường hợp có khảo sát đầy đủ về 
hình ảnh học dựa trên MRI và chỉ dấu sinh học 
khối u lúc thai 20 tuần. Hình ảnh MRI thiên về 
khả năng ác tính nhiều nhưng các chất chỉ dấu 
sinh học (CA125, AFP và hCG) rất thấp. 
Ba trường hợp chưa có chẩn đoán trước mổ 
u buồng trứng đã được xử trí bóc u dựa trên 
hình ảnh đại thể một khối u đặc, nhưng vỏ dày 
trơn láng. Riêng có một khối bướu sợi bào quá 
lớn kèm theo chảy máu từ mạch máu nuôi u và 
diện bám dính vào các cơ quan lân cận thì cuộc 
mổ mất máu nhiều. Một trường hợp còn lại 
được mổ chương trình nhưng đã thực hiện cắt 
phần phụ gửi sinh thiết lạnh vì ghi ngờ ác tính. 
BÀN LUẬN 
Tuổi của các bệnh nhân có BSVB trong thai 
kì trẻ hơn so với BSVB nói chung, tuổi trung vị 
của 4 ca nghiên cứu là 29 so với 42,2 ± 15,7, mức 
tuổi thường có BSVB(5,6). Đặc biệt, 2 trong 4 ca ghi 
nhận bướu buồng trứng lớn dần trong thai kì. 
Như vậy có thể có mối liên quan nào giữa BSVB 
buồng trứng với nội tiết sinh dục hay không? Về 
mô học, BSVB bao gồm các nguyên bào sợi hình 
thoi có tế bào chất phong phú sản xuất collagen 
và để xác định khác biệt giữa BSVB lành tính và 
Sarcoma tế bào sợi dựa trên tiêu chí của Prat J(7). 
Đối với bướu sợi BT, có sự tăng sinh của nguyên 
bào sợi với không điển hình hạt nhân từ nhẹ đến 
trung bình, số lượng phân bào của ≤3 trên quang 
trường 10 và ác tính thấp. Ngược lại, các tiêu chí 
Sarcom tế bào sợi là nhân không điển hình từ 
trung bình đến nặng, số lượng phân bào là ≥4 
trên quang trường 10. Tuy nhiên, theo Irving và 
cộng sự số lượng phân bào ≥4 trên quang trường 
10 với độ mô học thấp có thể gặp ở bướu sợi BT 
và họ cho rằng những bướu này là bướu sợi gia 
tăng phân bào(3,8). Bướu tế bào sợi nhuộm lan tỏa 
với vimentin cho thấy dương tính với kháng 
nguyên WT-1, CD56, SMA, desmin, CD34. 
Ngoài ra, chúng có thể nhuộm từng phần yếu 
với inhibin và calretinin, nhưng âm tính với 
CD10, CD 99. Bướu tế bào sợi có thể liên quan 
đến đột biến gen 9q22.3 (gen PTCH), 19p13.3 
(gen STK11). Đột biến gen PTCH có thể liên 
quan đến hội chứng Gorlin do có một số ca bướu 
sợi buồng trứng (BT) kèm hội chứng Gorlin, cả 
hai cùng con đường bệnh sinh(4,9). Tóm lại, vẫn 
chưa có bằng chứng cho thấy có mối liên quan 
giữa nội tiết và BSVB. 
Với việc sử dụng ngày càng nhiều siêu âm 
trong tam cá nguyệt đầu tiên, nhiều khối u phần 
phụ tình cờ được phát hiện. Theo Goh W, cho 
thấy 1% thai kì được chẩn đoán có khối u phần 
phụ(7,10) và tỉ lệ này tăng 5% theo các nghiên cứu 
gần(11,12). Các khối u dạng nang đơn giản và chức 
năng rất phổ biến và chúng thường tự hết sau 3 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 31
tháng đầu thai kỳ(8,13). Bướu quái trưởng thành 
cho đến nay là loại u tồn tại, phổ biến nhất trong 
các loại khối u phần phụ được tìm thấy trong 
thai kỳ(14,15). Tuy nhiên, có đến 5% khối u buồng 
trứng trong thai kỳ là ác tính(16,17). Dù rằng trong 
suốt thai kỳ có nhiều lần siêu âm lặp lại nhiều 
lần, nhưng phần lớn khối u phần phụ vẫn không 
được ghi nhận cho đến khi mổ lấy thai hoặc có 
biến chứng xoắn hay vỡ khối u. Trong nghiên 
cứu của chúng tôi, BSVB không có triệu chứng 
cơ năng nhưng với bản chất là mô đặc vẫn 
không thể phát hiện qua các lần siêu âm trong 
suốt thai kỳ thậm chí siêu âm chưa đánh giá 
chính xác bản chất của khối u. Để giải thích cho 
điều này, có lẽ là do u nhỏ, bác sĩ siêu âm chỉ chú 
ý đến thai mà không khảo sát hết hai phần phụ, 
sau đó khi thai to thì khó khảo sát phần phụ hai 
bên. Riêng đối với việc xác định sai bản chất 
khối u trong 2/4 ca nghiên cứu, có lẽ hình ảnh 
siêu âm của BSVB có nhiều điểm gợi ý ác tính 
như bướu đặc, dịch ổ bụng, nhưng có thể hoàn 
toàn lành tính do hình ảnh giống u xơ cơ tử cung 
với cấu trúc dạng mô sợi chiếm ưu thế trong 
bướu. Theo nghiên cứu (NC) của Paladini D(4), 
hình ảnh siêu âm của BSVB buồng trứng 74% là 
bướu đặc, 19% đa thùy, kích thước phần rắn lớn 
nhất trung bình 70 mm, 90% là không có chồi 
nhú, 32% có bóng lưng, 51% dịch túi cùng, 19% 
dịch màng bụng. Trên siêu âm màu Doppler tác 
giả ghi nhận 79% sang thương có phân bố mạch 
máu ít hoặc trung bình (điểm số màu 2 hoặc 3). 
Như vậy, dựa vào siêu âm, 60% trường hợp 
chẩn đoán trước mổ có thể tiên đoán được khả 
năng lành tính và, 47% chẩn đoán được BSVB. 
Từ đó, những nhà khảo sát siêu âm hay nhà lâm 
sàng phải luôn đòi hỏi khảo sát hình ảnh của 
phần phụ 2 bên, đặc biệt là buồng trứng trong 3 
tháng đầu thai kỳ. 
Trong 4 ca nghiên cứu, chỉ có ca thứ 2 có xét 
nghiệm các chất đánh dấu bướu nhưng kết quả 
đều ở mức thấp dù chẩn đoán nghĩ tới khả năng 
ác tính qua hình ảnh MRI. Trị số của các chất này 
rất khó rất khó để giải thích trong thai kỳ. Như 
đối với CA125: CA125 tăng trong tam cá nguyệt 
thứ nhất, bình thường trong tam cá nguyệt thứ 
hai và thứ ba, và vẫn tăng ở thời điểm sanh và 48 
giờ sau đó(1,8). Ngoài ra, BSVB có thể có gia tăng 
CA125 nếu có kèm theo dấu hiệu báng bụng hay 
kích thước bướu trên 10 cm(11,15). Chúng ta có thể 
dự đoán bướu có khả năng lành tính nếu có 1 vài 
đặc điểm ác tính theo tiêu chuẩn của siêu âm 
hay MRI nhưng các chất đánh dấu bướu thấp. 
Phẫu thuật là lựa chọn điều trị cho u đặc 
buồng trứng. Các phương pháp khác nhau tùy 
theo kích thước và tính chất của khối u, tuổi của 
bệnh nhân và chẩn đoán trước phẫu thuật. Nếu 
chẩn đoán trước phẫu thuật đã được xác lập, bác 
sĩ phẫu thuật nên nỗ lực để bảo tồn khả năng 
sinh sản bằng cách sử dụng một phẫu thuật ít 
xâm lấn. Cắt phần phụ có thể được xem xét cho 
phụ nữ quanh mãn kinh hoặc sau mãn kinh, và 
phẫu thuật cắt bỏ khối u (bóc u) có thể được 
thực hiện ở phụ nữ trẻ. Ngoài ra, có thể phẫu 
thuật nội soi hoặc mổ hở. Theo NC của Cho YS, 
48 trong số 97 bệnh nhân (49,5%) là <40 tuổi, và 
29 trong số 48 bệnh nhân này chưa sinh con. Đối 
với nhóm tuổi này, bảo tồn mô buồng trứng 
bình thường cho khả năng sinh sản có thể là một 
vấn đề quan trọng, và do đó phẫu thuật cắt bỏ u 
buồng trứng đã được thực hiện ở 32 bệnh nhân. 
Nhưng, phần lớn BSVB buồng trứng sẽ phẫu 
thuật cắt phần phụ. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, ca thứ 2 đã được chọn lựa xử trí là phẫu 
thuật lúc thai 20 tuần (giảm nguy cơ sảy thai) và 
cắt phần phụ gửi sinh thiết lạnh. Dù sao, nếu 
chọn lựa cắt khối u gửi sinh thiết lạnh ở ca thứ 2 
sẽ cho bệnh nhân cơ hội bảo tồn buồng trứng tốt 
hơn. Còn 3 ca còn lại đều tiến hành cắt khối u 
nhưng không gửi sinh thiết lạnh vì mổ trong 
tình trạng cấp cứu, chưa có sự chuẩn bị. Tuy 
rằng quyết định điều trị khá chủ quan bởi người 
phẫu thuật viên chính nhưng việc can thiệp tối 
thiểu, cắt khối u buồng trứng là phù hợp. Nếu 
kết quả sau mổ không phải là BSVB lành tính mà 
u buồng trứng ác tính thì phẫu thuật thì 2 sẽ 
được thực hiện để phân giai đoạn- thiết lập chẩn 
đoán và cách thức điều trị. 
Riêng trong ca thứ 4, BSVB đã được chẩn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 32
đoán trong quá trình mang thai và trước mổ là 
khối u xơ cơ tử cung hay u chưa rõ bản chất. Khi 
phẫu thuật có tình trạng dính rất nhiều vào các 
cơ quan lân cận, biến cố này rất hiếm gặp trong 
các nghiên cứu khác(5,6,10,13,14), 50% so với 13,5%. 
Liệu rằng quá trình mang thai đã làm BSVB phát 
triển nhanh, tăng sinh mạch máu và dính vào 
các cơ quan lân cận? Câu trả lời cho vấn đề này 
cần nghiên cứu có cỡ mẫu lớn hơn. 
Nghiên cứu đã ghi nhận được đặc điểm lâm 
sàng, cân lâm sàng, chẩn đoán và xử trí của 3 
trường hợp BSVB trong thai kỳ, một nhóm bệnh 
rất hiếm. Tuy nhiên, nghiên cứu được hồi cứu từ 
hồ sơ bệnh án cho nên thiếu tính đại diện và các 
chẩn đoán dựa vào siêu âm cũng như chẩn 
đoán, xử trí trong lúc phẫu thuật mang nhiều 
tính chủ quan của người bác sĩ do đó chưa mang 
lại những khuyến cáo rõ ràng trong chẩn đoán 
và xử trí BSVB trong thai kỳ. 
KẾT LUẬN 
Bướu sợi vỏ bào trong thai kì khó có được 
chẩn đoán chính xác trước mổ, nhưng siêu âm 
đầy đủ 2 phần phụ vào 3 tháng đầu là bắt buộc 
để tránh bỏ sót. Hình ảnh đại thể của bướu là 
điểm quan trọng để dự đoán độ lành ác và cách 
phẫu thuật. Cách xử trí ban đầu thường được 
chọn lựa là bóc bướu hoặc cắt phần phụ và sau 
đó sẽ ngưng phẫu thuật. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Huỳnh Ngọc Tân (2020). Nghiên cứu đặc điểm các 
trường hợp bướu sợi vỏ bào buồng trứng. Luận văn Tốt nghiệp 
Bác sĩ Nội trú, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
2. Chen H, Shen L (2016). Ovarian thecoma-fibroma groups: 
clinical and sonographic features with pathological comparison. 
J Ovarian Res, 9:81. 
3. Irving JA, Alkushi A, Young RH, Clement PB (2006). Cellular 
fibromas of the ovary: a study of 75 cases including 40 
mitotically active tumors emphasizing their distinction from 
fibrosarcoma. Am J Surg Pathol, 30:929-938. 
4. Paladini D, Testa A, Valentin L, Van Holsbeke, Timmerman D 
(2006), Fibroma and fibrothecoma of the ovary – clinical and 
ultrasound findings in a multicenter series of 63 cases. 
Ultrasound in Obstetrics and Gynecology, 28:188-195. 
5. Abdellatif C, Leila A, Riadh BT, Taher M, Abdelhamid K (2008). 
Incidence, clinical analysis, and management of ovarian 
fibromas and fibrothecomas. Am J Obstet Gynecol, 199:s473e1-
473e4. 
6. Leung SW, Yuen PM (2006). Ovarian fibroma: a review on the 
clinical characteristics, diagnostic difficulties, and management 
options of 23 cases. Gynecol Obstet Invest, 62:1-6. 
7. Prat J, Scully RE (1981). Cellular fibromas and fibrosarcomas of 
the ovary: a comparative clinicopathologic analysis of seventeen 
cases. Cancer, 47:2663-2670. 
8. Bottoni P, Scatena R (2015). The role of CA 125 as tumor marker: 
biochemical and clinical aspects. Adv Exp Med Biol, 867:229-273. 
9. Tornos RA, Soslow C (2011). Diagnostic pathology of ovarian 
tumors. Springer, pp.45 
10. Goh W, Bohrer J, Zalud I (2014). Management oft the adnexal 
mass in pregnancy. Curr Opin Obstet Gynecol, 26:49-53. 
11. Timmerman D, Moerman P, Vergote I (1995). Meigs’ syndrome 
with elevated serum CA 125 levels: two case reports and review 
of the literature. Gynecol Oncol, 59:405-412. 
12. Mukhopadhyay A, Shinde A, Naik R (2016). Ovarian cysts and 
cancer in pregnancy. Best Pract Res Clin Obstet Gynaecol, 33:58-72. 
13. Giuntoli R, Vang R, Bristow R (2006). Evaluation and 
management of adnexal masses during pregnancy. Clin Obstet 
Gynecol, 49:492-505. 
14. Yeon JC, Hee SL, Joo MK, Kwan YJ, Mi-La K (2013). Clinical 
characteristics and surgical management options for ovarian 
fibroma/fibrothecoma: A study of 97 cases. Gynecol Obstet Invest, 
76:182-187. 
15. Goh W, Rincon M, Bohrer J, et al (2013). Persistent ovarian 
masses and pregnancy outcomes. J Matern Fetal Neonatal Med, 
26:1090-1093. 
16. Yuanming S, Xiaodong C, Weiguo L, Xing X, Xiaoyun W (2018). 
Ovarian fibroma/fibrothecoma with elevated serum CA125 
level. Medicine, pp.97. 
17. Smith L, Dalrymple J, Leiserowitz G, et al (2001). Obstetrical 
deliveries associated with maternal malignancy in California, 
1992 through 1997. Am J Obstet Gynecol, 184:1504-151. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_loat_ca_benh_hiem_gap_buou_soi_vo_bao_buong_trung_tr.pdf