Báo cáo hai trường hợp thoát vị vùng thượng vị nguyên phát ít gặp điều trị tại Bệnh viện Dã Chiến 2.1
Thoát vị thượng vị là một dạng ít gặp của thoát vị thành bụng, tại Việt Nam có
rất ít nghiên cứu về loại thoát vị này. Trình bày ca bệnh: hai bệnh nhân đều là quân cảnh
Ghana. Bệnh nhân số 1: nữ - 36 tuổi – béo phì BMI 32.4, chẩn đoán thoát vị thượng vị
nghẹt giờ thứ tư, tạng trong bao thoát vị là mạc nối lớn, đã được phẫu thuật giải phóng
tạng thoát vị, khâu tái tạo thành bụng chỉ không tiêu. Bệnh nhân số 2: nam – 32 tuổi –
thừa cân BMI 28,7, chẩn đoán thoát vị thượng vị, tạng là quai ruột, đã được phẫu thuật
khâu tái tạo thành bụng chỉ không tiêu. Hai bệnh nhân đều không có tái phát sau 3 tháng
tái khám. Bàn luận: tỷ lệ mắc thoát vị thượng vị ở bệnh nhân Châu Phi không có sự khác
biệt giữa nam và nữ. Chẩn đoán có thể căn cứ trên triệu chứng lâm sàng và kết quả siêu
âm. Khi kích thước cổ túi thoát vị < 2cm="" có="" thể="" áp="" dụng="" phương="" pháp="" khâu="" thành="">
đơn thuần, mesh nên được sử dụng cho những trường hợp có đường kính lỗ thoát vị lớn
hơn, phương pháp phẫu thuật nội soi ngày càng được áp dụng rộng rãi. Kết luận: chẩn
đoán thoát vị thượng vị không khó, phẫu thuật mở hay nội soi có/ không sử dụng mesh
tùy thuộc kích thước lỗ khuyết cổ thoát vị và kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo hai trường hợp thoát vị vùng thượng vị nguyên phát ít gặp điều trị tại Bệnh viện Dã Chiến 2.1
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 108 1 Bệnh viện Dã Chiến 2.1 2 Bệnh viện TƯQĐ 108 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thông Phán ([email protected]) Ngày nhận bài: 17/4/2019, ngày phản biện: 22/4/2019 Ngày bài báo được đăng: 30/6/2019 BÁO CÁO HAI TRƯỜNG HỢP THOÁT VỊ VÙNG THƯỢNG VỊ NGUYÊN PHÁT ÍT GẶP ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN 2.1 Nguyễn Thông Phán1, Vũ Văn Tuấn2, Lại Bá Thành1, Lê Văn Bình1, Nguyễn Văn Đức1, Phạm Thị Thùy1 TÓM TẮT Thoát vị thượng vị là một dạng ít gặp của thoát vị thành bụng, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về loại thoát vị này. Trình bày ca bệnh: hai bệnh nhân đều là quân cảnh Ghana. Bệnh nhân số 1: nữ - 36 tuổi – béo phì BMI 32.4, chẩn đoán thoát vị thượng vị nghẹt giờ thứ tư, tạng trong bao thoát vị là mạc nối lớn, đã được phẫu thuật giải phóng tạng thoát vị, khâu tái tạo thành bụng chỉ không tiêu. Bệnh nhân số 2: nam – 32 tuổi – thừa cân BMI 28,7, chẩn đoán thoát vị thượng vị, tạng là quai ruột, đã được phẫu thuật khâu tái tạo thành bụng chỉ không tiêu. Hai bệnh nhân đều không có tái phát sau 3 tháng tái khám. Bàn luận: tỷ lệ mắc thoát vị thượng vị ở bệnh nhân Châu Phi không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Chẩn đoán có thể căn cứ trên triệu chứng lâm sàng và kết quả siêu âm. Khi kích thước cổ túi thoát vị < 2cm có thể áp dụng phương pháp khâu thành bụng đơn thuần, mesh nên được sử dụng cho những trường hợp có đường kính lỗ thoát vị lớn hơn, phương pháp phẫu thuật nội soi ngày càng được áp dụng rộng rãi. Kết luận: chẩn đoán thoát vị thượng vị không khó, phẫu thuật mở hay nội soi có/ không sử dụng mesh tùy thuộc kích thước lỗ khuyết cổ thoát vị và kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Từ khóa: thoát vị thượng vị, phẫu thuật mở/nội soi. REPORT TWO UNCOMMONLY EPIGASTRIC HERNIA PATIENTS TREATED AT VIETNAM LEVEL 2 FIELD HOSPITAL IN BENTIU, SOUTH SUDAN TRAO ĐỔI HỌC TẬP 109 ABSTRACT: Epigastric hernia is an uncommon form of ventral hernia, it has been rarely studied in Vietnam. Presentation of patients: Both two patients are Ghanania military police. Case 1: 36-year -old – female patient, BMI 32.4, diagnosis: the primary incarcerated epigastric hernia 4 hours, organic hernia sac was a small portion of omentum, the open operation was returned it back to abdominal cavity, repaired with nonabsorbable suture.Case 2: 32 – year –old- male patient, BMI 28.7, diagnosis: the primary epigastric hernia, sac contented apart of jejunum, non-mesh- open repair was performed. The recurrence was not met with them after followed up examination 3 months. Discussion: the propotion of epigastria hernia is equal distribution among gender in African patients. Epigastric hernias are diagnosed based on a physical examination, imaging techniques, such as a CT scan or abdominal ultrasound, may be used to check for complications or other conditions. The open suture repair can be operated to the small size defect (d < 2cm), the wider hernia ring should be repaired with mesh, indicating the ongoing popularity of herniorrhaphy. Conclusion: the epigastric hernia is an uncomplicated diagnosis, the open repair or abdominal laparoscopy with mesh/non-mesh can be performed that depending on the size of defect and technical skill of surgeon. Keywords: epigastric hernia, open repair/ herniorrhaphy 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thoát vị thượng vị là một dạng thoát vị thành bụng ít gặp, chiếm tỷ lệ 1,3 – 3,6% các trường hợp thoát vị thành bụng, xảy ra tại các vị trí trong vùng từ mũi ức đến rốn,[4],[8]. Thoát vị thành bụng thường được điều trị bằng phẫu thuật mở hoặc nội soi, tái tạo thành bụng bằng các lớp khâu với chỉ tiêu hoặc sử dụng tấm lưới (mesh). Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đảm bảo y tế tại Bệnh Viện Dã Chiến Cấp 2 Số 1 (BVDC 2.1) - phái bộ của Liên Hiệp Quốc tại Bentiu- Nam Xu Đăng, chúng tôi đã điều trị hai bệnh nhân thoát vị thượng vị ít gặp này. Chúng tôi xin báo cáo và đưa ra một số bàn luận về chẩn đoán và điều trị hai trường hợp này. 2. TRÌNH BÀY CA BỆNH 2.1. Bệnh nhân số1. + Thông tin chung: . Bệnh nhân nữ, 36 tuổi, cảnh sát quân sự Ghana, BMI: 32,4 kg/m2. . Tiền sử sản khoa: sinh thưởng 04 lần. . Không có tiền sử ngoại khoa và bệnh lý mạn tính khác. + Diễn biến bệnh: TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 110 Bệnh nhân tự phát hiện thấy khối bất thường vùng thượng vị khoảng 2 năm, thỉnh thoảng đau tức sau vận động nặng sau đó tự mất đi, khối này to dần, chưa điều trị gì. Khoảng 20h ngày 05/12/2018 xuất hiện đau dữ dội tại khối bất thường, đau không giảm, được chuyển đến BVDC 2.1 lúc 22h cùng ngày. + Khám lâm sàng: . Tỉnh táo, tiếp xúc tốt. . Mạch: 86 lần/phút; HA: 135/80 mmHg, ToC: 36,8; SpO2: 98% . Không khó thở, nhịp thở đều. . Vùng thượng vị có một khối bất thường, kích thước khoảng 4x4 cm, ranh giới tương đối rõ, không di động, không dính da, không thay đổi kích thước khi ấn, mật độ căng, đau nhiều tại khối, đau tăng khi sờ nắn. . Không có dấu hiệu bất thường tại các vùng khác của ổ bụng. . Âm đạo sạch, ngoài chu kỳ kinh nguyệt. + Cận lâm sàng: . Công thức máu và sinh hóa máu trong giới hạn hình thường, không rối loạn nước và điện giải. . X quang tim phổi và X quang ổ bụng: không có bất thường. . Siêu âm: vùng đường trắng trên rốn khoảng 4cm có khối hỗn hợp âm kích thước 2,5x4,5x4,7 (cm), lượng dịch ước lượng khoảng 60 ml, nghĩ đến hình ảnh thoát vị nghẹt đường trắng trên rốn, tạng trong bao thoát vị là mạc nối lớn. Hình 2.1: Hình ảnh siêu âm của bệnh nhân Boateng Fr. Ag., nữ - 36 tuổi. + Chẩn đoán: Thoát vị đường trắng giữa trên rốn biến chứng nghẹt giờ thứ 4 + Phẫu thuật: Bệnh nhân được phẫu thuật cấp cứu, dưới gây mê nội khí quản. Đường mổ theo đường trắng giữa trên rốn khoảng 6cm, thành bụng rất dày TRAO ĐỔI HỌC TẬP 111 nhiều mỡ. Bộc lộ thấy khối thoát vị nằm trên đường trắng giữa phía trên rốn khoảng 4cm, khối có đường kính khoảng 4cm, vỏ bao thoát vị viêm dày. Mở bao thấy có dịch tiết màu vàng trong, tạng trong bao thoát vị là mạc nối lớn, nhiều vị trí viêm dày, dính với cổ túi thoát vị về phía mũi ức nên không di động được và gây nghẹt. Lỗ thoát vị kích thước khoảng 3x3 cm, vòng cổ viêm xơ, chắc. Tiến hành giải phóng phần mạc nối lớn, cắt bỏ các phần viêm xơ, đẩy vào ổ bụng. . Cắt bao thoát vị, đóng phúc mạc mối túi bằng chỉ Vicryl 3/0. . Khâu phục hồi (cân cơ) thành bụng bằng chỉ Prolene 2/0 mối rời, đóng vết mổ. Tổng thời gian phẫu thuật khoảng 80 phút. + Sau mổ 3 ngày BN ổn định, ra viện. Sau 3 tháng tái khám, vết mổ đã liền sẹo tốt, không tái phát. 2.2. Bệnh nhân số 2. + Thông tin chung: . Bệnh nhân nam, 32 tuổi, cảnh sát quân sự Ghana, BMI: 28,7 kg/m2. . Không có tiền sử ngoại khoa và bệnh lý mạn tính khác. + Diễn biến bệnh: Bệnh nhân tự phát hiện thấy khối bất thường vùng thượng vị khoảng 8 tháng, thỉnh thoảng đau tức sau vận động nặng, không liên quan với bữa ăn, sau đó tự mất đi; khối này to dần, chưa điều trị gì. Đến khám tại BVDC 2.1 ngày 27/12/2018 và hẹn nhập viện ngày 02/01/2019 để phẫu thuật. + Khám lâm sàng: . Tim mạch, hô hấp trong giới hạn bình thường. . Vùng thượng vị có một khối bất thường, kích thước khoảng 3x3 cm, ranh giới tương đối rõ, không di động, không dính da, không thay đổi kích thước khi ấn, đau tức khi sờ nắn , mật độ có mềm hơn. . Không có dấu hiệu bất thường tại các vùng khác của ổ bụng. + Cận lâm sàng: . Công thức máu và sinh hóa máu trong giới hạn bình thường. . X quang tim phổi và X quang ổ bụng: không có hình ảnh bất thường. . Siêu âm: vùng đường trắng trên rốn khoảng 3cm có khối hỗn hợp âm kích thước 3,2 x 3,5 x 2,8 (cm), tạng trong bao thoát vị là quai tiểu tràng. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 112 Hỉnh 2.2: hình ảnh khối thoát vị đường trắng trên rốn của BN Agyei M., 32 tuổi. + Chẩn đoán trước mổ: Thoát vị đường trắng giữa trên rốn, tạng nghi là tiểu tràng. + Phẫu thuật: . Bệnh nhân được phẫu thuật dưới gây mê nội khí quản. . Mở bụng theo đường trắng giữa trên rốn khoảng 6cm, thành bụng dày nhiều mỡ. Bộc lộ thấy trên rốn khoảng 3cm có một khối thoát vị đường kính khoảng 3 cm, vỏ bao thoát vị dày. . Mở bao thoát vị thấy tạng thoát vị là quai hỗng tràng, hồng, mềm mại, nhu động tốt, xung quanh không có dịch, không dính vỏ bao và cổ túi. Lỗ thoát vị kích thước khoảng 2.5x2 cm, cổ túi viêm xơ, chắc. . Tiến hành đưa quai hỗng tràng về ổ bụng. . Khâu phục hồi phúc mạc mối túi bằng chỉ Vicryl 3/0. . Khâu phục hồi thành bụng bằng chỉ Prolene 2/0, đóng các lớp thành bụng. + Bệnh nhân được chăm sóc hậu phẫu 3 ngày, sau đó chuyển về đơn vị điều trị tiếp. Sau 3 tháng tái khám, vết mổ đã liền sẹo tốt, không tái phát. TRAO ĐỔI HỌC TẬP 113 Hình 2.3: hình ảnh lỗ thoát vị của bệnh nhân nam, Agyei M., 32 tuổi. 3. BÀN LUẬN 3.1. Đặc điểm chung. - Thoát vị đường trắng giữa trên rốn là một typ hay gặp nhất của thoát vị thượng vị, được xác định khi vị trí lỗ thoát vị nằm trong giới hạn đường trắng giữa dưới mũi ức 3cm và trên rốn 3cm, [9]. Độ tuổi hay gặp là tuổi trưởng thành từ 20 – 50, rất hiếm gặp ở bệnh nhân cao tuổi, [5], [9]. Tỷ lệ mắc giữa nam và nữ, theo các nghiên cứu trên đối tượng bệnh nhân Châu Âu, nam gặp nhiều hơn nữ từ 2 -3 lần. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu với đối tượng bệnh nhân Châu Phi, thì tỷ lệ nam và nữ không có sự khác biệt, các tác giả này đặt ra giả thuyết nguyên nhân do phụ nữ Châu Phi thường phải thực hiện nhiều công việc nặng nhọc hàng ngày, [8]. Hai bệnh nhân của chúng tôi (01 BN nữ, 01 BN nam), ở độ tuổi trung niên. là nhân viên cảnh sát quân sự Ghana, công việc thực hiện hàng ngày phải vận động nhiều, không phân biệt nam nữ. - Về nguyên nhân, cho đến nay có ba giả thuyết có tính thuyết phục giải thích nguyên nhân sự mất vững của đường trắng giữa: thuyết về lỗ khuyết sau sự thoái hóa nhánh mạch máu nuôi dưỡng tại chỗ của Moschowitz; thuyết của Askar về sự bất thường phân bố các sợi cân bao cơ thẳng bụng đan chéo từ hai phía tạo thành đường trằng; và một nghiên cứu về sự bất thường của các sợi Collagen trong cấu trúc của cân cơ đường trắng giữa. Trong đó, lý thuyết của Askar được nghiên cứu lâm sàng với cỡ mẫu lớn ủng hộ, theo thuyết này, cấu trúc đường trắng giữa đảm bảo vững chắc khi có sự đan chéo ba lần của các sợi cân và gân từ hai phái, có khoảng 30% - 40% TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 114 dân số sự đan chéo chỉ cómột lần. Thoát vị thượng vị chỉ xảy ra ở nhóm bệnh nhân này, [8]. Hình 3.1. Các mô hình về cấu trúc đường trắng giữa của Askar, [8]. - Các yếu tố nguy cơ: các vận động của cơ thể làm tăng mạnh, đột ngột áp lực trong ổ bụng là yếu tố tăng nguy cơ mắc thoát vị thành bụng nói chung. Do vậy, thoát vị thượng vị cũng như thoát vị bụng hay xảy ra ở những người thường phải mang vác nặng, vận động với cường độ cao như vận động viên cử tạ, người tham gia lao động quân sự; người có bệnh phổi mạn tính, béo phì, hút thuốc lâu năm, tiểu đường; phụ nữ sinh đẻ nhiều lần, bệnh nhân lạm dụng Corticoid, [2], [9]. - Hai bệnh nhân của chúng tôi đều là quân nhân của đơn vị Ghana, béo phì: BN nữ có BMI 32,4 kg/m2, tiền sử đẻ thường 4 lần; BN nam có BMI 28,7 kg/m2. 3.2. Nội dung bao thoát vị. - BN nữ có tạng trong bao thoát vị là mạc nối lớn, khi mở bao thoát vị, trong bao có khoảng 50 ml dịch tiết màu vàng trong, phần mạc nối lớn trong bao thoát vị có nhiều điểm viêm dính vào cổ túi. Để giải phóng tạng, chúng tôi phải gỡ dính và cắt một phần tổ chức viêm xơ của đoạn mạc nối lớn này. Maurice E. Asuquo và cộng sự (2011) đã báo cáo một trường hợp bệnh nhân nữ, 60 tuổi, khối thoát vị đường trắng trên rốn tồn tại 10 năm, kích thước TRAO ĐỔI HỌC TẬP 115 32 cm × 22 cm × 8 cm , đường kính lỗ thoát vị khoảng 3cm, nội dụng trong bao thoát vị là mạc nối lớn cùng với thể tích dịch tiết lúc phẫu thuật khoảng 2,5 lít. Đây là trường hợp thoát vị đường trắng bên vùng thượng vị, với tạng thoát vị và dịch tiết trong bao số lượng lớn, rất hiếm gặp, [6]. Lớp thanh mạc của phúc mạc được cấu tạo bởi lớp tế bào vảy, tiết nhiều dịch làm cho phúc mạc luôn trơn nhẵn; ngoài ra, phúc mạc có hệ thống mạch máu nuôi dưỡng rất phong phú. Do vậy, khi phúc mạc trong bao thoát vị bị nghẹt thường tiết nhiều dịch, thể tích bao thoát vị tăng nhanh, có thể đạt kích thước lớn. - Với BN nam, nội dung bao thoát vị là quai hỗng tràng. Sau khi mở bao, quai ruột còn mềm mại, không viêm dính, dễ dàng đẩy quai ruột vào lại ổ bụng. - Ngoài mạc nối lớn và quai tiểu tràng, nội dung bao thoát vị có thể là đại tràng ngang, phình vị dạ dày. Cho tới nay chưa có báo cáo lâm sàng nào ghi nhận có cùng lúc hai tạng khác nhau trong bao thoát vị thượng vị, [9]. 3.3. Triệu chứng chẩn đoán. - Biểu hiện của thoát vị thượng vị nguyên phát rất thay đổi và phụ thuộc vào từng bệnh nhân, và không có triệu chứng của thoát vị thứ phát sau mổ. Bệnh nhân thường tự cảm giác được một khối bất thường vùng thượng vị trong nhiều năm. Những triệu chứng như đau không liên quan tới chế độ ăn, cảm giác khó chịu, kích thước khối thoát vị tăng lên ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày hoặc khối thoát vị bị nghẹt mới làm cho bệnh nhân đi khám. Có trường hợp ghi nhận khối thoát vị tồn tại 45 năm, đạt kích thước lớn trước khi bị nghẹt. Ngoài ra, ở những bệnh nhân cao tuổi thoát vị thượng vị nghẹt có thể xảy ra đột ngột sau một giãn vỡ phình động mạch chủ bụng hoặc do thủng tạng rỗng, [5]. Khi khám lâm sàng có thể quan sát và sờ thấy khối bất thường vùng thượng vị, nhưng ở bệnh nhân béo phì với khối thoát vị kích thước nhỏ có thể bị bỏ qua triệu chứng này. - Về chẩn đoán cận lâm sàng, siêu âm có thể kết luận hình ảnh của một thoát vị thành bụng với độ nhạy 100% . Chụp cắt lớp vi tính ổ bụng có thể được sử dụng để chẩn đoán kích thước và xác định tạng trong bao thoát vị. Tuy nhiên, những trường hợp thoát vị nghẹt, cần mổ cấp cứu, chỉ định chụp cắt lớp là không cần thiết, [5]. Hai bệnh nhân của chúng tôi đều được chẩn đoán dựa trên triệu chứng lâm sàng và hình ảnh siêu âm, tại cơ sở của BVDC 2.1 cũng không được trang bị máy chụp cắt lớp vi tính. - Phân loại lỗ thoát vị thượng vị theo kích thước: năm 2009, Hiệp hội Thoát vị Châu Âu (EHS) đã đưa ra một hệ thống phân loại cho tất cả các loại thoát vị bụng, TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 116 áp dụng cho cả nguyên phát và thứ phát sau một phẫu thuật vùng bụng. Thoát vị rốn và vùng thượng vị được phân loại bởi vị trí của chúng (ở hoặc gần rốn hoặc ở vùng thượng vị) và bởi kích thước của lỗ thoát vị. EHS phân loại kích thước lỗ thoát vị theo ba mức: . Nhỏ: d < 2 cm, (đường kính), . Trung bình: 2 cm ≤ d ≤ 4 cm, . Lớn: d > 4 cm, [7]. Phân loại này có ý nghĩa trong việc lựa chọn phương pháp tái tạo thành bụng hơn là việc tiên lượng bệnh. 3.4. Phương pháp phẫu thuật. - Phẫu thuật viên có thể lựa chọn phương pháp phẫu thuật mở hay nội soi điều trị thoát vị thượng vị, việc lựa chọn tùy thuộc kinh nghiệm của phẫu thuật viên và trang thiết bị cơ sở điều trị. Cơ sở của chúng tôi là BV dã chiến nên cũng không được trang bị hệ thống mổ NS. - Khi tái tạo thành bụng, có thể khâu tái tạo thành bụng bằng chỉ không tiêu hay chậm tiêu như prolene và Vicryl (chỉ Prolene là chỉ không tiêu); hoặc sử dụng mesh – một tấm lưới bằng chất liệu tổng hợp. Hiện nay các tác giả đều nhất trí với lỗ thoát vị kích thước nhỏ (d < 2cm) có thể khâu tái tạo thành bụng bằng chỉ đơn thuần, [1], [3], [4]. Hai bệnh nhân của chúng tôi đều có kích thước lỗ thoát vị trung bình, d = 3cm, tuy nhiên do điều kiện vật tư y tế tiêu hao của BVDC cấp 2 chỉ cho phép chúng tôi tái tạo thành bụng bằng chỉ prolen 2.0. Bệnh nhân sau 3 tháng theo dõi đường mổ liền tốt, không có hiện tượng tái phát. - Về tỷ lệ tái phát và các biến chứng sau mổ, nhiều nghiên cứu đa trung tâm với cỡ mẫu lớn được thực hiện đều tỷ đưa ra nhận xét tỷ lệ tái phát hay gặp ở các bệnh nhân mổ mở không sử dụng mesh, tỷ lệ này khoảng 28%. Tuy nhiên ở những bệnh nhân phẫu thuật mở, có đặt tấm mesh, lại có tỷ lệ tạo ổ máu tụ vết mổ cao hơn nhóm không sử dụng mesh, [1], [2]. Phẫu thuật nội soi điều trị thoát vị thượng vị đang ngày càng được áp dụng tại nhiều cơ sở y tế do ưu điểm về đường mổ nhỏ, thời gian nằm viện sau mổ ngắn, trường quan sát trong mổ rộng. Các nghiên cứu không khẳng định việc có sử dụng mesh hay không sử dụng mesh khi phẫu thuật nội soi có nguy cơ tái phát cao hơn. Tuy nhiên trong báo cáo của Ponten J. E. H và cộng sự (2014) cho thấy không bệnh nhân nào trong nhóm thoát vị thượng vị điều trị bằng phẫu thuật nội soi tái tạo thành bụng bằng tấm mesh bị tái phát, với thời gian theo dõi sau mổ 6 năm. Vấn đề đau mãn tính sau mổ cũng là vấn đề được quan tâm. Trước khi phân tích số liệu nghiên cứu, các tác giả đặt giả thuyết nhóm sử dụng mesh tái tạo thành bụng sẽ có tỷ lệ đau mãn tính cao hơn so với nhóm không sử dụng, vì họ cho rằng TRAO ĐỔI HỌC TẬP 117 cơ thể sẽ có phản ứng viêm mạn với mesh. Tuy nhiên kết quả thu được sau phân tích không cho thấy sự khác biệt giữa hai nhóm, [3], [9]. - Về vấn đề thoát vị thượng vị và thoát vị rốn ở phụ nữ có thai, các nghiên cứu đều đồng thuận việc điều trị bảo tồn. Nhưng khi xảy ra thoát vị nghẹt vấn đề theo dõi, đánh giá và thời điểm phẫu thuật vẫn là một khó khắn, có rất ít tài liệu hướng dẫn và nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Cần cân nhắc cẩn thận với độ tuổi của thai nhi, các vấn đề về gây mê, cường độ đau, thời gian giam giữ và khả năng giảm thoát vị. Các nội dung của thoát vị cũng là một yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định. Trong giai đoạn mang thai, tử cung sẽ che phần rốn nên không xảy ra thoát vị nghẹt với quai ruột trong túi, nhưng vẫn có thể xảy ra với mạc nối lớn gây đau đớn cho thai phụ. Khi đó, bác sĩ nên thảo luận rõ ràng với bệnh nhân và gia đình các vấn đề liên quan đến việc ra quyết định, các rủi ro và lợi ích của tiếp tục theo dõi hay tiến hành phẫu thuật ngay, [9]. 3.5. Phương pháp vô cảm. - Gây tê tại chỗ có thể được áp dụng trong các phẫu thuật mở điều trị thoát vị thượng vị. Thuốc thường được sử sụng là Lidocain pha nồng độ 0.5 – 1%, kết hợp với lượng nhỏ Adrenaline, thời gian tác dụng có thể kéo dài từ 30 phút đến 3 tiếng. Tuy nhiên, những phẫu thuật tiên lượng kéo dài do thành bụng dày, tạng thoát vị dính nên xem xét gây mê nội khí quản, [3], [4], [9]. Hai bệnh nhân của chúng tôi đều được áp dụng gây mê nội khí quản vì chúng tôi cũng chưa có kinh nghiệm gây tê tại chỗ bằng Lidocain với bệnh nhân gốc Phi. Thực tế trong phẫu thuật cho thấy phương pháp vô cảm đã lựa chọn là hợp lý vì hai bệnh nhân đều béo phì, thành bụng rất dày, tạng thoát vị ở bệnh nhân nữ là mạc nối viêm dính. - Trong trường hợp phẫu thuật nội soi, vô cảm bằng gây mê nội khí quản luôn là lựa chọn đầu tay. 4. KẾT LUẬN Thoát vị thượng vị là trường hợp thoát vị ít gặp của thoát vị thành bụng, tỷ lệ nữ châu Phi gặp nhiều hơn Châu Âu, đặc biệt là các BN béo phì. Chẩn đoán có thể dựa vào triệu chứng lâm sàng và chẩn đoánhình ảnh. Phẫu thuật tái tạo thành bụng sử dụng mesh với trường hợp đường kính trên 2cm có tỷ lệ tái phát thấp. Phẫu thuật nội soi ngày càng được chỉ định rộng do những lợi ích sau mổ của bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aslani n , Brown C. J. (2010), Does mesh offer an advantage over tissue in the open repair of umbilical hernias? A systematic review and meta-analysis, Published online: 16 July 2010! Springer- Verlag 2010. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 18 - 6/2019 118 2. Burcharth J., Pedersen M. S., et tc (2015), The prevalence of umbilical and epigastric hernia repair: a nationwide epidemiologic study, published online: 4 April 2015! Springer-Verlag France 2015. 3. Christoffersen MW, Helgstrand F, Rosenberg J, Kehlet H, Bisgaard T. Lower (2013), reoperation rate for recurrence after mesh versus sutured elective repair in small umbilical and epigastric hernias. A nationwide register study, World J Surg 2013;37:2548-52. 4. David B. Earle, Jennifer A. McLellan (2013), Repair of Umbilical and Epigastric Hernias, Surg Clin N Am 93 (2013) 1057–1089. 5. Fikri M. Abu-Zidan, Kamal Idris, Mohammed Khalifa (2016), Strangulated epigastric hernia in a 90-year-old man: Point-of-Care Ultrasound (POCUS) as a saving kit: Case report, International Journal of Surgery Case Reports 22 (2016) 19–22. 6. Maurice E. Asuquo, Victor I.C. Nwagbara, and Michael O. Ifere (2011), Epigastirc hernia presenting as a giant abdominal interparietal hernia, Int J Surg Case Rep. 2011; 2(8): 243–245. 7. Muysoms FE, Miserez M, Berrevoet F et al (2009), Classification of primary and incisional abdominal wall hernias, Hernia,13:407–414 8. Ponten J. E. H. Somers K. Y. A. , Nienhuijs S. W. (2012), Pathogenesis of the epigastric hernia, published online: 10 July 2012! Springer-Verlag 2012 . 9. Townsend CM Jr, Beauchamp RD, Evers BM, Mattox KL (2007), Sabiston textbook of surgery, 18th edn. Saunders Elsevier, Philadelphia. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 119 THỂ LỆ BÀI ĐĂNG TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 Tạp chí Y dược thực hành 175 xuất bản 4 số thường kỳ/năm và các chuyên đề, đăng tải các công trình nghiên cứu, các bài tổng quan về Y-Dược học trong nước và Quốc tế, thông tin về nghiên cứu và đào tạo. I. Một số yêu cầu về bài đăng công trình nghiên cứu khoa học: 1. Bài gửi đăng công trình nghiên cứu khoa học chưa đăng ở bất kỳ tạp chí quốc gia nào. 2. Các thuật ngữ thống nhất theo từ điển Bách khoa Việt Nam. 3. Bài gửi đăng bắt buộc phải đánh máy bằng tiếng Việt, rõ ràng, lề trái 3 cm, lề phải 2 cm, lề trên 2 cm, lề dưới 2 cm. Một bài không dài quá 7 trang khổ A4, font Time New Roman cỡ 13. Các danh từ tiếng Việt Nam nếu dịch từ tiếng nước ngoài phải viết kèm theo tiếng nước ngoài. Các chữ viết tắt phải có chú thích các từ gốc của các chữ viết tắt. 4. Trình tự các mục trong bài viết: a. Đầu đề (tiếng Việt và tiếng Anh). b. Họ và tên tác giả: không ghi học hàm, học vị, chức danh. Có ghi chú nơi công tác của tác giả. c. Nội dung: - Tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh (tối đa 200 từ). - Đặt vấn đề, bao gồm cả phần mục tiêu nghiên cứu của đề tài. - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. - Kết quả. - Bàn luận. - Kết luận. Chỉ sử dụng những bảng biểu, ảnh cần thiết và phải ghi chú thích rõ yêu cầu in vào đoạn nào trong bài, mỗi bài không quá 5 hình. d. Tài liệu tham khảo (không qua 10 tài liệu): Tài liệu tiếng Việt ghi trước, sau đó tài liệu tiếng nước ngoài. Tài liệu tham khảo ghi theo thứ tự: họ tên tác giả, năm xuất bản, tên cuốn sách, bài báo, tạp chí, số trang và trang tham khảo. 5. Mỗi tác giả đứng tên đầu của bài báo chỉ được đăng tối đa một bài trong một số. Bài gửi đăng không trả lại bản thảo. Tác giả ghi số điện thoại và địa chỉ email vào cuối bài. II. Đối với các bài tổng quan, trao đổi học tập, thông tin, bài dịch, kiến thức thường thức: Đối với các bài tổng quan cần có đầy đủ các tài liệu tham khảo và nguồn số liệu đã được trích dẫn trong bài. Tác giả bài tổng quan ghi rõ chức danh, học hàm, học vị, chuyên ngành, cơ quan hoặc Hội chuyên khoa ở phần ghi chú cuối trang đầu tiên của bài viết. Bài tổng quan được đánh bằng tiếng Việt, dài không quá 7 trang khổ A4 (kể cả bảng biểu và tài liệu tham khảo). Các thông tin, bài dịch, kiến thức thường thức cần ghi rõ xuất xứ của nguồn tài liệu. Đối với bài dịch cần chụp toàn văn bản bài báo tiếng nước ngoài gửi kèm bài dịch. *Bài viết xin gửi về: Tòa soạn Tạp chí Y Dược thực hành 175, Bệnh viện Quân y 175 – Số 786 Nguyễn Kiệm, Phường 3, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 069.641192 hoặc gửi qua email: [email protected]
File đính kèm:
bao_cao_hai_truong_hop_thoat_vi_vung_thuong_vi_nguyen_phat_i.pdf

