Báo cáo ca lâm sàng xử trí và theo dõi chảy máu mũi trên bệnh nhân ung thư vòm hầu
Chảy máu mũi là tình trạng cấp cứu thường gặp ở bệnh nhân ung thư vòm hầu. Bệnh nhân có thể chảy
máu ở cửa mũi trước hay cửa mũi sau hoặc kết hợp cả hai. Việc hiểu rõ phương pháp cầm máu giúp đem lại
lợi ích cho bệnh nhân. Nhân hai ca lâm sàng, chúng tôi muốn tổng quan lại các phương pháp cầm máu ở bệnh
nhân chảy máu mũi.
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo ca lâm sàng xử trí và theo dõi chảy máu mũi trên bệnh nhân ung thư vòm hầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo cáo ca lâm sàng xử trí và theo dõi chảy máu mũi trên bệnh nhân ung thư vòm hầu
ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 100 BÁO CÁO CA LÂM SÀNG XỬ TRÍ VÀ THEO DÕI CHẢY MÁU MŨI TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ VÒM HẦU TRẦN MINH VƯƠNG1, TRẦN LAN PHƯƠNG2, TRẦN THỊ NGỌC THUẬN3, LÊ MINH ĐỨC1 TÓM TẮT Chảy máu mũi là tình trạng cấp cứu thường gặp ở bệnh nhân ung thư vòm hầu. Bệnh nhân có thể chảy máu ở cửa mũi trước hay cửa mũi sau hoặc kết hợp cả hai. Việc hiểu rõ phương pháp cầm máu giúp đem lại lợi ích cho bệnh nhân. Nhân hai ca lâm sàng, chúng tôi muốn tổng quan lại các phương pháp cầm máu ở bệnh nhân chảy máu mũi. ABSTRACT Epistaxis is a frequent emergency in patients with nasopharyngeal cancer. Bleeding can be from the anterior or posterior nasal cavity, or combination of both. To understand comprehensively methods of hemostasis would yield tremendous benefits. for patients. From two cases of epistaxis in nasopharyngeal cancer patients, we review these methods. 1 ĐD. Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 ThS.BS. Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 3 ĐDCKI. Điều dưỡng Trưởng Khoa Xạ 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM MỞ ĐẦU Theo Globocan 2018, ung thư vòm hầu là loại ung thư thường gặp, đứng hàng thứ 6 ở cả hai giới. Bệnh có thể diễn tiến âm thầm mà không có triệu chứng cảnh báo. Khi triệu chứng xuất hiện thường biểu hiện ở hạch cổ, ở tai và ở mũi, triệu chứng thần kinh thường gặp trong giai đoạn bệnh tiến triển. Triệu chứng ở mũi: khoảng 30% bệnh nhân có chảy máu mũi, khạc ra máu, nghẹt mũi một bên hay 2 bên (có thể gây giọng nói mũi) hay cảm giác khó chịu vùng sau mũi. Chảy máu mũi có thể xảy ra ở bệnh nhân chưa điều trị hoặc đã xạ trị. Đây là tình trạng cấp cứu xảy ra ở bệnh nhân ung thư vòm hầu, việc cấp cứu có thể gặp khó khĕn nếu không nắm rõ những đặc điểm cũng như phương pháp cầm máu. Tại Khoa Xạ 3, bệnh viện Ung Bướu TP. HCM, tình trạng chảy máu trong ung thư vòm hầu là khá phổ biến, và nhiều trường hợp chảy máu ồ ạt, diễn tiến rất nhanh, vì thế việc hiểu thêm về các phương pháp cầm máu qua cửa mũi trước và cửa mũi sau là rất cần thiết và cấp bách để tránh những rủi ro do chảy máu trong ung thư vòm hầu gây ra. GIẢI PHẨU HỌC VÒM HẦU Vòm hầu là phần cao nhất của hầu, còn gọi là tỵ hầu hay mũi hầu. Đây là một khoang cân mạc gắn kết giữa hốc mũi và khẩu hầu. Vòm hầu có thể xem như một hình hộp với các giới hạn giải phẫu như sau: Thành trên của vòm hầu còn gọi là nóc vòm hầu, chỉ là một lớp niêm mạc dày độ 2mm. Qua lớp niêm mạc, vòm hầu tiếp giáp với đáy sọ và thân xương bướm. Thành bên: Mỗi thành bên của vòm hầu có một lỗ thông thương với hòm nhĩ qua một ống gọi là ống vòi nhĩ hay ống Eustache. Giới hạn trước của vòm hầu: Vòm hầu tiếp giáp phía trước với cửa mũi sau và vách mũi. Thành sau: qua lớp niêm mạc vòm hầu tiếp giáp với khối cơ trước cột sống cổ. Giới hạn dưới của vòm hầu: Là mặt trên của vòm khẩu cái mềm, qua đó vòm hầu liên quan với khẩu hầu. Mạch máu nuôi dưỡng chủ yếu là 1 nhánh chính và 2 nhánh bên của động mạch cảnh ngoài bao gồm: (1) động mạch hầu lên và 2 nhánh của động mạch hàm (2) động mạch vidian (3) động mạch bướm khẩu cái. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 101 Hình 1. Cấu trúc liên quan các thành của vòm hầu NGUYÊN NHÂN CHẢY MÁU TRONG UNG THƯ VÒM HẦU Chảy máu mũi trong ung thư vòm hầu có thể chảy máu từ cửa mũi trước hoặc từ cửa mũi sau. Tình trạng này có thể gặp ở bệnh nhân chưa điều trị (chảy máu từ sang thương bướu) và cả ở bệnh nhân đã điều trị. Chảy máu từ bướu Chảy máu ở cửa mũi trước do bướu xâm lấn hốc mũi, bệnh nhân chảy có tình trạng máu chảy ra từ mũi không khạc ra máu. Chảy máu cửa mũi sau do vị trí bướu nằm ở thành sau vòm hầu, xuất phát từ hố Rosenmuller nên bệnh nhân có triệu chứng khạc ra máu, trong tình trạng chảy máu cấp cứu bệnh nhân thường chảy từ mũi và chảy nhiều xuống họng, nếu không cấp cứu kịp thời máu sẽ chảy vào đường dẫn khí gây tử vong. Chảy máu mũi sau xạ trị Tổn thương mạch máu sau xạ được cho là nguyên nhân gây chảy máu đáng kể sau khi điều trị xạ trị. Nhiều yếu tố có thể liên quan, bao gồm thiếu oxy tại chỗ, tái phân bố mạch máu, nhiễm trùng mũi, rối loạn chức nĕng mũi và mũi, khô niêm mạc, tái phát khối u, và suy dinh dưỡng. Chảy máu vòm hầu sau xạ được định nghĩa là xuất huyết đột ngột >100ml hoặc chảy máu liên tục hơn 300mL ở vùng mũi họng trong một thời gian ngắn. Tình trạng này thường nguy hiểm, với nhiều biến chứng và tỷ lệ tử vong được báo cáo đã thay đổi từ 35,7% đến 100% . XỬ TRÍ CẦM MÁU Khi xuất hiện chảy máu mũi phải đảm bảo đường thở trên, thiết lập đường truyền. Máu, cục máu đông, chất nhầy trong vùng họng nên được hút sạch ngĕn chặn tắc nghẽn khí quản. Trong khi đó tùy thuộc vào vị trí chảy máu mà ta có các phương thức xử trí phù hợp như: Như nhét mèche cửa mũi trước, nhét mèche cửa mũi sau, chèn bóng cao su (sử dụng sonde foley), cầm máu qua nội soi Nhét mèche mũi trước Cách làm: Dùng đèn Clar chiếu sáng, hút sạch máu cục trong mũi, đặt thuốc tê hoặc xịt thuốc tê, nhét mèche theo hình võng. Mục đích: Đè ép mạch máu làm ngừng chảy máu. Thời gian để mèche không quá 24h. Nhược điểm: không chèn ép đúng ngay vị trí chảy máu. Hình 2. Nhét mèch cữa mũi trước Nhét mèche cửa mũi sau: Chảy máu từ cửa mũi sau Phương pháp đặt mèche mũi sau: Nếu chảy máu mũi do thương tổn phía sau và trên của hốc mũi hoặc đã đặt mèche mũi trước rồi mà không có hiệu quả thì phải áp dụng thủ thuật đặt mèche mũi sau. Cầm máu cửa mũi sau bằng gạc Gạc sẽ được cuộn lại và được đưa vào cửa mũi sau thông qua catheter từ mũi qua vòm hầu và xuống miệng. Cuộn gạc được cố định ở đoạn cuối ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 102 catheter và đẩy ngược lên trên, catheter kéo ra ngoài nhằm mục đích đưa cuộn gạc vào vị trí thành sau vòm hầu, cố định ở cửa mũi sau, chèn ép vào điểm chảy máu. Cố định catheter ở cửa mũi trước bằng gạc. Hình 3. Cầm máu cửa mũi sau bằng gạc Chèn bóng cao su Có thể dùng ống Foley hoặc ống chuyên dùng có ống thông khí ở giữa cho bệnh nhân thở qua mũi. Nếu bệnh nhân có sốc và thay đổi tình trạng tri giác, hay không bảo vệ được đường thở, đường thở phải được kiểm soát trước khi tiến hành thủ thuật. Biến chứng: Viêm xoang, hoại tử vách ngĕn mũi, áp xe, ngất thần kinh. Sử dụng ống Foley Dụng cụ: - Gĕng tay, gạc, que đè lưỡi, banh mũi, kềm Kelly, kẹp rốn. - Sonde Foley 10 - 14 F, bơm tiêm 10ml, nước cất. - Thuốc co mạch (Phenylephrine, Rhinex), thuốc tê tại chỗ (lidocain 2%), kem kháng sinh cho hốc mũi. Thực hiện: - Tư thế bệnh nhân ngồi tư thế thẳng đứng, trừ khi có rối loạn huyết động. - Gây tê niêm mạc hốc mũi, thành sau hầu, khẩu cái mềm bằng Lidocain 2%. - Nhỏ thuốc co mạch vào hốc mũi. - Bôi trơn sonde Foley, đặt vào hốc mũi, đẩy xuống khẩu hầu đến khi phần bơm bóng của sonde nằm hoàn toàn trong khẩu hầu, để tránh tình trạng bóng nằm trong hốc mũi khi bơm. - Bơm 10ml nước cất vào bóng Foley (lưu ý không được bơm quá 30ml). - Rút nhẹ Foley cho đến khi bóng nằm cửa mũi sau (có cảm giác chặt tay). - Cố định Foley bằng nhét gạc cửa mũi trước hoặc có thể sử dụng kẹp rốn cố định Foley giảm tình trạng hoại tử cánh mũi và trật bóng ra khỏi vị trí. Hình 4. Đặt sonde Foley cửa mũi sau Theo dõi sau đặt: - Có thể sử dụng kháng sinh diệt vi khuẩn nhóm Staphyloccocus để dự phòng viêm mũi xoang và sốc nhiễm trùng. - Theo dõi nhịp tim do bóng Foley kích thích thành sau khẩu hầu có thể gây nhịp chậm. - Thời gian đặt bóng từ 72 - 96 giờ. Sử dụng ống sonde 2 bóng Ống sonde 2 bóng giúp chèn ép vào cửa mũi sau và cửa mũi trước. Bóng cửa mũi sau được bơm khoảng 7 - 10ml, sonde được kéo ra ngoài, để cố định bóng vào cửa mũi sau chèn ép vào điểm chảy mái. Tiếp theo sẽ bơm bóng cửa mũi trước khoảng 15 - 30ml để cố định ống cửa mũi sau. Hình 5. Sonde 2 bóng chèn (Nguồn: department-management-posterior-epistaxis/) ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 103 CA LÂM SÀNG Ca lâm sàng 1 Bệnh nhân: Huỳnh T., sinh nĕm 1969, nhập viện vì tình trạng chảy máu mũi/ ung thư vòm hầu đã điều trị ngày 18/9/2019. Bệnh sử 1993: bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vòm hầu, bệnh nhân đã được xạ trị ngoài 24 tia. 2011, 2015, 2018: Bệnh nhân bị chảy máu mũi, nhập viện để làm xét nghiệm kiểm tra nhưng không thấy bất thường xuất viện. Nay bệnh nhân lại bị chảy máu mũi 2 ngày nhập Khoa Xạ 3 Bệnh viện Ung Bướu. Bác sĩ khám lúc nhập viện: Bệnh tỉnh, tiếp xúc được, da niêm hồng, hạch cổ (T) độ II, 2cm. Các cơ quan khác chưa phát hiện bất thường. Siêu âm cổ: hạch không điển hình viêm. Soi tai mũi họng: không thấy bướu tại vòm hầu. Lúc 12h ngày 19/9/2019 bệnh nhân chảy máu từ mũi điều dưỡng nhét cửa mũi trước nhưng không hiệu quả. 12h30’, bệnh nhân vẫn tiếp tục chảy máu từ mũi và xoang khẩu hầu khoảng 100ml màu đỏ tươi, bệnh nhân lúc này tỉnh, tiếp xúc được, mạch: 80l/p, huyết áp: 160/110mmHg, niêm họng nhạt. Bác sĩ đã xử trí: + Natriclorid 0,9% 500ml pha 2 ống transamin 250mg, TTM XL g/p. + Transamin 250mg 1 ống (TMC). + Tramadol 100mg 1 ống (TB). + TPTTBM khẩn, TQ, TCK, INR. Đồng thời tiến hành đặt Foley cửa mũi sau Cho bệnh nhân ngồi thẳng đứng. Gây tê vùng niêm mạc hốc mũi bằng Lidocain 10%. Bôi trơn sonde Foley. Đặt vào hốc mũi. Sau đó đẩy xuống khẩu hầu đến khi phần bơm bóng của sonde nằm hoàn toàn trong khẩu hầu. Dùng bơm tiêm 10cc bơm 10ml nước cất (không được quá 30ml). Rút nhẹ và từ từ Foley cho đến khi bóng Foley nằm ở cửa mũi sau (ta sẽ có cảm giác chặt tay). Kiểm tra lại thấy đã đặt đúng vị trí Dùng meche cố định thêm ở cửa mũi trước (trong trường hợp bệnh nhân còn chảy máu ra ở cửa mũi trước nên dùng gạc để cố định). Quá trình đặt Foley cầm máu cửa mũi sau trong case lâm sàng này mất khoảng 10 phút. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 104 Theo dõi đến 13h cùng ngày bệnh nhân trong tình trạng tỉnh, tiếp xúc tốt và không còn chảy máu, DHST ổn định (Mạch: 80l/p, HA: 130/90mmHg, SpO2 đạt 95%). Bệnh nhân được rút ống sau 36h. Rút sonde Foley cầm máu cửa mũi sau Tháo meche (gạc) cầm máu ở cửa mũi trước. Dùng bơm tiêm 10cc rút hết nước cất bơm vào bóng Foley ra ngoài. Dùng gạc vừa rút từ từ sonde Foley ra ngoài đồng thời vừa quan sát bệnh nhân. Vệ sinh lại mũi bệnh nhân bằng gòn nhỏ (hoặc meche) thấm NaCl 0,9% một cách nhẹ nhàng và cẩn thận. Ca lâm sàng 2 Bệnh nhân: Trần Vĕn L., sinh nĕm 1962, quê quán: TP. HCM. Bệnh sử Cách nhập viện 1 tháng (4/10/2019) bệnh nhân thường bị đau ½ đầu (T). Bệnh nhân tự đi khám ở phòng khám tư. Được chụp CT scan phát hiện u vòm hầu. Bệnh tỉnh, sụp mi mắt (T) kèm ù tai (T), sưng nề mắt (T) bệnh viện Tai Mũi Họng phẫu thuật nội soi sinh thiết bướu vòm (T), GPB (+) nhập BV. Ung Bướu. Lúc 8h ngày 5/10/2019 bệnh nhân bị chảy máu rỉ rả từ mũi (T), kèm sụp mi (T), đau đầu, Điều dưỡng đánh giá tình trạng bệnh nhân lúc này tỉnh, tiếp xúc tốt, mạch: 94l/p, Huyết áp: 120/80mmHg, đồng thời báo Bác sĩ xử trí: Transamin 250mg 1 ống (TMC). Sodium clorid 0,9% 500ml pha transamin 250mg (TTM) LX g/p. Diclofenac 50mg 1 ống x2 (IM). 9h (5/10/2019) bệnh nhân còn chảy máu tươi rỉ rả từ mũi (T), điều dưỡng thực hiện nhét meche cửa mũi trước (T) để cầm máu, bác sĩ cho tiêm. Transamin 250mg 1 ống (TMC). Lúc 10h điều dưỡng đánh giá tình trạng bệnh nhân: bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt, mạch: 90l/p, huyết áp: 120/70mmHg, SpO2: 96%, bệnh nhân vẫn tiếp tục chảy máu từ mũi (T) thực hiện cầm máu bằng Foley cửa mũi sau: Cầm máu bằng Foley cửa mũi sau kết hợp với cầm máu bằng gạc cửa mũi trước do máu vẫn còn rỉ rã ra mũi trước (gạc bị thấm nhiều máu từ cửa mũi trước) Sau khi cầm máu bằng Foley cửa mũi sau bệnh nhân tạm thời ngưng chảy máu nhưng vẫn còn rỉ ít từ cửa mũi trước, Bác sĩ cho y lệnh: Transamin 250mg 1 ống (TMC), đồng thời thử lại công thức máu, TS, TQ, TCK. Đến 11h30 cùng ngày, điều dưỡng đánh giá lại tình trạng bệnh nhân: bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt, không còn chảy máu, DHST ổn định (Mạch: 90l/p, huyết áp: 130/80mmHg, SpO2 ở mức 98%). Tiếp tục theo dõi tình trạng chảy máu của bệnh nhân. Sau 48h bệnh nhân được rút ống Foley, không còn tình trạng chảy máu và được tiếp tục theo dõi và điều trị. BÀN LUẬN Hai ca lâm sàng chảy máu nhiều vòm hầu, phương pháp nhét mèch cửa mũi trước không hiệu quả, nhưng sau khi đặt sonde Foley, máu được cầm nhanh chóng. KẾT LUẬN Chảy máu mũi đối với bệnh nhân ung thư vòm hầu trên thực tế thường gặp, là cấp cứu ung thư. Tình trạng này thường diễn ra bất ngờ và không hề có dấu hiệu báo trước. Qua thực tế 2 ca lâm sàng trên để thấy được tính thực tế và tầm quan trọng của các biện pháp cầm máu trong trường hợp xảy ra tình trạng chảy máu. Đặc biệt là phương pháp cầm máu bằng Foley cửa mũi sau. Phương pháp cầm máu bằng Foley cửa mũi sau trên thực tế mang lại hiệu quả rất khả quan, có thể cầm máu nhanh chóng. Điều dưỡng phải biết cách chĕm sóc theo dõi bệnh nhân sau đặt sonde, đặc biệt tại các khoa điều trị ung thư vùng đầu mặt cổ. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Amy S. Wong (2018), Epistaxis: A guide to assessment and management, The Journal Of Family Practice. 67 (12). 2. Eric Goralnick (2016), Posterior Epistaxis Nasal Pack, https://emedicine.medscape.com/. Corry J. Kucik, Timothy Clenney (2005), Management of Epistaxis, Am Fam Physician, 71: 305 - 11, 312. 3. Netter FH (1995), “Atlas of Human Anatomy”, CIBA, New Jersey, pp. 46 - 74. 4. Jiabin Zhan,Shuai Zhang, Xin Wei, Yihui Fu và Jing Zheng (2019) Etiology and management of nasopharyngeal hemorrhage after radiotherapy for nasopharyngeal carcinoma, Cancer Manag Res. 2019; 11: 2171 - 2178. 5. Nancy Lee, A.Dimitrios Colvevas, Karen K.Fu (2010), Cancer of the Nasopharynx, "Leibel and Phillips Textbook of Radiation Oncology 3rd Edition. 6. Simon S.Lo, Jiade J.Lu (2010) “Natural, presenting symptoms, and diagnosis of NPC”, in L.W.Bady, H. P. Heilmann, M.Molls, C.Nieder, editors, Nasopharyngeal cancer multidisciplinary management, 1 st edition, Springer, pp.41 - 50.
File đính kèm:
bao_cao_ca_lam_sang_xu_tri_va_theo_doi_chay_mau_mui_tren_ben.pdf

