Bàn về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng thông tin kế toán

TÓM TẮT

Nghiên cứu về chất lượng thông tin (CLTT) là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều

nhất trong lĩnh vực hệ thống thông tin kế toán (AIS - Accounting Information System) (Foong, 1999).

Trong nghiên cứu về CLTT, nghiên cứu về đo lường CLTT khá đa dạng, cả về số lượng lẫn quan điểm.

Thông qua việc tổng hợp các công trình nghiên cứu về CLTT từ trước đến nay, chúng tôi tiến hành xác

định xu hướng phát triển của các nghiên cứu về đo lường CLTT từ đó xác định mô hình đo lường CLTT

phù hợp với nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán.

pdf 7 trang phuongnguyen 11440
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng thông tin kế toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng thông tin kế toán

Bàn về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng thông tin kế toán
Science & Technology Development, Vol 18, No Q1 - 2015 
Trang 68 
BÀN VỀ TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN KẾ TOÁN 
REVIEW OF EVALUATION CRITERIA FOR ACCOUNTING INFORMATION QUALITY 
Phạm Quốc Thuần 
Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG - HCM - thuanpq@uel.edu.vn 
(Bài nhận ngày 06 tháng 01 năm 2015, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 02 tháng 03 năm 2015) 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu về chất lượng thông tin (CLTT) là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều 
nhất trong lĩnh vực hệ thống thông tin kế toán (AIS - Accounting Information System) (Foong, 1999). 
Trong nghiên cứu về CLTT, nghiên cứu về đo lường CLTT khá đa dạng, cả về số lượng lẫn quan điểm. 
Thông qua việc tổng hợp các công trình nghiên cứu về CLTT từ trước đến nay, chúng tôi tiến hành xác 
định xu hướng phát triển của các nghiên cứu về đo lường CLTT từ đó xác định mô hình đo lường CLTT 
phù hợp với nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán. 
Từ khóa: Thông tin, chất lượng thông tin, hệ thống thông tin, hệ thống thông tin kế toán, hệ 
thống thông tin quản lý, kế toán tài chính. 
ABSTRACT 
Information quality has been the focus of research in the field of accounting information 
system (AIS) (Foong, 1999). Studies on information quality are diverse in both quantities and 
viewpoints. Through a review of extant studies on information quality, we aim to define the trend of 
studies on information quality, thereby building a suitable evaluation model of information quality in 
the field of accounting. 
Key words: Information, information quality, information system, accounting information 
system, information management system, financial accounting. 
1. CÁC KHÁI NIỆM 
1.1. Thông tin 
Khái niệm về thông tin hết sức đa dạng. 
Chaker Haouet (2008) cho rằng không tồn tại 
một khái niệm duy nhất cho thông tin, các khái 
niệm thay đổi theo lĩnh vực được tham chiếu. 
Trong lĩnh vực MIS, Zmud (1978) cho rằng 
thông tin được thể hiện ở dạng các báo cáo 
được in ở các định dạng khác nhau; English 
(1999) cho rằng thông tin được thể hiện ở dạng 
nội dung cơ sở dữ liệu và kho dữ liệu hoặc đầu 
ra, 
Trong lĩnh vực AIS, thông tin kế toán được 
xác định rõ trong các khái niệm về kế toán. 
Một cách tổng quát, thông tin kế toán bao hàm 
những thông tin kinh tế, tài chính dưới hình 
thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động 
(Luật Kế toán Việt Nam, 2003). 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q1 - 2015 
Trang 69 
Trong bài viết này, chúng tôi khái niệm 
thông tin trong lĩnh vực AIS là dựa trên quan 
điểm của Luật Kế toán Việt Nam. 
1.2. Chất lƣợng 
Cũng như khái niệm về thông tin, có rất 
nhiều khái niệm về chất lượng với ít sự đồng 
thuận (Crosby, 1995). Tùy thuộc quan điểm về 
lĩnh vực nghiên cứu mà khái niệm về chất 
lượng cũng thay đổi. Trong lĩnh vực kế toán, 
chất lượng được khái niệm gắn với nhu cầu của 
người sử dụng thông tin. Theo quan điểm hòa 
hợp giữa IASB và FASB thì chất lượng của kế 
toán được thể hiện ở mục tiêu cung cấp thông 
tin tài chính hữu ích cho những nhà đầu tư, 
người cho vay, các chủ nợ khác hiện hữu và 
tiềm năng trong việc ra quyết định về việc cung 
cấp nguồn lực cho một thực thể (IASB, 2010). 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi khái niệm 
chất lượng trong lĩnh vực kế toán dựa trên quan 
điểm của IASB và FASB. 
1.3. Chất lƣợng thông tin 
Về khía cạnh thông tin, CLTT được định 
nghĩa như là thông tin đáp ứng những đặc điểm 
kỹ thuật hay yêu cầu (Kahn và Strong, 1988). 
Về khía cạnh người sử dụng, CLTT được định 
nghĩa như là thông tin phù hợp đối với người 
sử dụng thông tin (Wang vàStrong, 1996). 
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi đứng 
trên quan điểm người sử dụng để khái niệm 
CLTT. 
CLTT trong lĩnh vực kế toán được xác định 
rõ trong khuôn mẫu các khái niệm của kế toán 
(Conceptual Framework). Theo Luật Kế toán 
Việt Nam, các thuộc tính tác động đến chất 
lượng thông tin kế toán bao gồm: trung thực, 
khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu, có thể so 
sánh (Luật Kế toán Việt Nam, 2003); Theo 
quan điểm hòa hợp giữa IASB và FASB cho 
rằng nếu thông tin tài chính là hữu ích, nó cần 
phải thích đáng và được thể hiện trung thực, 
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi khái niệm 
CLTT dựa trên quan điểm của IASB và FASB, 
theo đó, chất lượng thông tin được đo lường 
bằng thích đáng và trình bày đúng sự thật của 
các thông tin trên báo cáo tài chính. 
2. CÁC MÔ HÌNH ĐO LƢỜNG CHẤT 
LƢỢNG THÔNG TIN 
2.1. Các hƣớng nghiên cứu về chất lƣợng 
thông tin 
Nghiên cứu về CLTT đã được đề cập từ 
những năm 60 và được tiến hành một cách rộng 
rãi trong vòng hai thập kỷ gần đây. Nghiên cứu 
về CLTT được phân thành hai lĩnh vực chủ 
yếu: lĩnh vực MIS và AIS. Dựa vào đặc điểm 
trên chúng tôi tiến hành xem xét các lý thuyết 
xuất phát chủ yếu từ các lĩnh vực MIS và AIS 
và đây cũng là căn cứ cho phép chúng tôi xác 
định mô hình đo lường CLTT thông qua cái 
nhìn đa dạng của liên ngành với trọng tâm là 
MIS và AIS. 
2.2. Mô hình đo lƣờng CLTT trong lĩnh 
vực MIS 
2.2.1. Tổng quan về nghiên cứu CLTT 
trong lĩnh vực MIS 
Vào những năm 60, khi mà MIS bắt đầu 
được sử dụng nhiều hơn và được xem như là 
một công cụ quản lý, chất lượng của hệ thống 
liên quan đến nhu cầu và khả năng quản lý là 
một vấn đề được quan tâm (Ackoff, 1967). 
Sự quan tâm đến việc đánh giá MIS ngày càng 
phát triển mạnh mẽ (Chervany,1970) và được 
tiếp cận bằng cách đo lường hiệu quả dưới 
nhiều cách thức khác nhau của MIS, chẳng hạn 
như đánh giá hệ thống, đánh giá giá trị sử dụng 
của hệ thống (Gallagher, 1974), đánh giá sự hài 
lòng của người sử dụng đối với hệ thống 
(Bailey và Pearson, 1983). 
Trong nghiên cứu của mình, với mục tiêu 
xây dựng một khuôn mẫu cho CLTT, chúng tôi 
đã tiến hành liệt kê tất cả các nghiên cứu về 
MIS kèm theo minh họa chi tiết các thành phần 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q1 - 2015 
Trang 70 
CLTT. Kết quả thống kê cho thấy trong khoảng 
thời gian bắt đầu từ những năm 60 (là thời 
điểm ghi nhận sự phát triển trong nghiên cứu 
về MIS) cho đến nay, các nhà nghiên cứu về 
CLTT trong lĩnh vực MIS đã đưa ra đến 67 tiêu 
chí để đo lường CLTT. Tuy nhiên, trong số 
nghiên cứu về CLTT đã được liệt kê, mô hình 
nghiên cứu của Wang và cộng sự (1995) và 
được thực nghiệm cụ thể hóa bởi Wang và 
Strong (1996) được xem là thống trị về khía 
cạnh lý thuyết CLTT trong lĩnh vực MIS. Các 
mô hình lý thuyết này chứa đựng rất nhiều các 
thuộc tính quan trọng và có điểm giao thoa 
nhiều nhất với mô hình CLTT đứng trên quan 
điểm được công bố của IASB & FASB 2010. 
2.2.2. Mô hình đo lường CLTT trong lĩnh 
vực MIS 
Mô hình đo lƣờng CLTT của Wang và cộng 
sự (1995) 
Wang và cộng sự (1995) đã trình bày một 
bản tóm tắt các mô hình CLTT có thứ bậc của 
họ. Trong mô hình này, CLTT có cấu tạo bao 
hàm bốn thành phần chính: Khả năng truy cập - 
dữ liệu phải có khả năng truy cập; có thể diễn 
giải được - cú pháp và nội dung phải dễ hiểu; 
hữu dụng - ghi nhận kịp thời các biến động và 
đáng tin cậy (được đo lường bởi “đầy đủ”, 
“nhất quán”, “có nguồn gốc” và “chính xác”) - 
Xem Sơ đồ 1. 
Sơ đồ 1. Mô hình về khuôn mẫu CLTT (Wang và cộng sự 1995) 
Mô hình đo lƣờng CLTT của Wang và 
Strong (1996) 
Wang và Strong (1996) đã trình bày kết quả 
của nghiên cứu khảo sát trong đó một loạt các 
thuộc tính được dùng để xác định CLTT được 
đánh giá bởi người sử dụng. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy CLTT được cấu tạo bởi 12 thành 
phần - Xem sơ đồ 2. 
Sơ đồ 2. Mô hình về khuôn mẫu CLTT (Wang và Strong 1996) 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q1 - 2015 
Trang 71 
2.3. Mô hình đo lƣờng CLTT trong lĩnh 
vực AIS 
2.3.1. Tổng quan về nghiên cứu CLTT 
trong lĩnh vực AIS 
Vào năm 1966, Hiệp hội Kế toán Mỹ 
(AAA) đã công bố một báo cáo về nền tảng lý 
thuyết của kế toán (A statement of Basic 
Accounting Theory) (Paul E. Fertig, 1967) và 
nêu rõ rằng mục tiêu chính của lý thuyết kế 
toán là phải đưa ra được các thuộc tính của 
thông tin nhằm đảm bảo tính hữu ích đối với 
người sử dụng thông tin. Công bố của AAA 
(1966) đã được ca ngợi như là một cột mốc 
quan trọng đánh dấu việc hướng tới một hệ 
thống lý thuyết của kế toán được xem là “xác 
định, đo lường và trao đổi thông tin kinh tế hỗ 
trợ cho việc ra quyết định của người sử dụng 
thông tin” (Sterling, 1967). 
Dựa trên nền tảng lý thuyết về tính hữu ích 
của thông tin được cung cấp bởi AAA (1966, 
1972), FASB (1993, 2010) đã có rất nhiều 
nghiên cứu hướng đến việc làm rõ các thành 
phần và tiêu chuẩn cấu thành nên CLTT kế 
toán và các thành phần, tiêu chuẩn được các 
nhà nghiên cứu đưa ra rất đa dạng. Tuy nhiên 
các thành phần CLTT theo mô hình của FASB, 
IASB được các nhà nghiên cứu hướng đến 
nhiều nhất. 
2.3.2. Các mô hình nghiên cứu tiêu biểu 
về CLTT trong lĩnh vực AIS 
Mô hình của FASB 
Mô hình của FASB thiết lập các thuộc tính 
hữu ích của thông tin được ghi nhận trong các 
tài liệu kế toán thành một hệ thống khái niệm 
hướng tới cung cấp thông tin cho việc ra quyết 
định kinh tế. Người sử dụng thông tin được coi 
là người đưa ra quyết định tổng thể về lợi ích 
của bất kỳ thông tin mà họ nhận được. Thông 
tin phải liên quan đến lĩnh vực và mục đích của 
người sử dụng cũng như cung cấp những tiên 
đoán và phản hồi của người sử dụng và luôn 
luôn sẵn sàng được cung cấp cho người sử 
dụng thì được xem là thích đáng. Thông tin 
trình bày một cách trung thực, trung lập nội 
dung của sự kiện và có đầy đủ bằng chứng để 
kiểm tra tính xác thực thì được xem là đáng tin 
cậy (Reliable). Tính thích đáng và tính đáng tin 
cậy có mối quan hệ với sự nhất quán của nó 
trong việc đo lường, trình bày và so sánh các 
kết quả của một doanh nghiệp theo thời gian và 
giữa các doanh nghiệp với nhau. Mô hình của 
FASB được trình bày ở sơ đồ 3. 
Sơ đồ 3. Mô hình CLTT của FASB (1980, 1993) 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q1 - 2015 
Trang 72 
Mô hình của IASB 
Vào tháng 4 năm 2001, IASB đã đưa ra một 
khuôn khổ các khái niệm làm nền tảng cho việc 
lập và trình bày báo cáo tài chính. Liên quan 
đến các thuộc tính thuộc CLTT kế toán, khuôn 
mẫu khái niệm của IASB cho rằng chất lượng 
được hiểu như là những thuộc tính làm cho 
những thông tin trình bày trên các báo cáo tài 
chính trở nên hữu ích đối với những người sử 
dụng thông tin. IASB đã đưa ra bốn đặc trưng 
chính có liên quan đến chất lượng của thông tin 
kế toán: Tính dễ hiểu; tính thích đáng; 
tính đáng tin cậy; tính có thể so sánh (xem mô 
hình ở sơ đồ 4). 
Sơ đồ 4. Mô hình CLTT của IASB (2001) 
Mô hình hài hòa giữa FASB và IASB 
Thỏa thuận Norwalk được ký ngày 18 tháng 
11 năm 2002 giữa FASB và IASB đã đặt nền 
móng của dự án hội tụ giữa hai cơ quan thiết 
lập chuẩn mực kế toán lớn nhất thế giới. Vào 
tháng 10 năm 2004, hai tổ chức này đã thành 
lập một đề án nhằm thiết lập những tiêu chuẩn 
cho việc trình bày thông tin trên BCTC nhằm 
hướng đến việc cải thiện tính hữu ích của thông 
tin trên BCTC cũng như phát triển một khuôn 
khổ khái niệm chung giữa hai tổ chức. Vào 
cuối tháng 10/2010, Ủy ban đã hoàn tất giai 
đoạn A của dự án, đó là thống nhất vấn đề về 
mục tiêu và các thuộc tính liên quan đến CLTT 
hữu ích. Các thuộc tính chất lượng của thông 
tin hữu ích theo quan điểm của IASB& FASB 
2010 được trình bày tại chương 3 của báo cáo. 
Báo cáo đã khẳng định rằng tính thích đáng và 
thể hiện trung thực là đặc tính chất lượng nền 
tảng của thông tin kế toán, cụ thể: 
- Thích đáng (relevance): thích đáng của 
thông tin được xem là khả năng tác động 
của thông tin đến việc ra quyết định của 
người sử dụng. Thông tin có thể có 
khả năng ảnh hưởng đến việc ra quyết 
định khi nó mang giá trị dự đoán 
(predictive value), giá trị xác nhận 
(confirmatory value), hay cả hai. 
- Thể hiện trung thực (faithful 
representation): BCTC trình bày các hiện 
tượng kinh tế dưới dạng từ ngữ và các con 
số. Để đảm bảo hữu ích, thông tin tài 
chính không chỉ trình bày các hiện tượng 
một cách thích đáng mà còn phải trình 
bày đúng sự thật các hiện tượng cần được 
trình bày. Để đạt được điều đó, thông tin 
cần phải mang tính toàn vẹn (complete), 
trung lập (neutral) và không sai sót (free 
from error). 
Các thuộc tính làm gia tăng CLTT: Có 
khả năng so sánh (comparability), có thể kiểm 
chứng (verifiability), kịp thời (timeliness) và dễ 
hiểu (understandability) là những thuộc tính 
chất lượng làm gia tăng sự hữu ích của thông 
tin. 
Các đặc điểm CLTT theo quan điểm dự án 
hội tụ giữa IASB và FASB theo Sơ đồ 5 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 18, SỐ Q1 - 2015 
Trang 73 
Sơ đồ 5. Mô hình CLTT kế toán của IASB & FASB 2010 
3. XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH ĐO LƢỜNG 
CLTT TRONG LĨNH VỰC KẾ TOÁN 
Nghiên cứu về CLTT từ lúc bắt đầu (vào 
những năm 60) đến nay đã và đang là một đề 
tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bên 
cạnh đó, trong các công bố của các tổ chức 
nghề nghiệp kế toán; các văn bản pháp lý về kế 
toán của các cơ quan Nhà nước cũng đưa ra các 
khuôn mẫu về CLTT. 
Xuất phát từ đặc điểm khác biệt, sự phân 
nhánh trong nghiên cứu về MIS và AIS cũng 
như đúc kết từ các kết quả nghiên cứu về CLTT 
trước đó, chúng tôi kết luận rằng có sự tồn tại 
khác biệt về mô hình đo lường CLTT trong lĩnh 
vực MIS và AIS. Vì vậy, trong nghiên cứu về 
CLTT, cần phải xác định phạm vi nghiên cứu, 
lĩnh vực nghiên cứu cụ thể để vận dụng mô 
hình đo lường CLTT phù hợp. Đối với nghiên 
cứu CLTT trong lĩnh vực kế toán, mô hình đo 
lường CLTT theo quan điểm hòa hợp giữa 
IASB và FASB là mô hình phù hợp nhất vì các 
lý do sau: 
- Mô hình đo lường về CLTT được công 
bố bởi IASB (2001) và FASB (1980, 
1993) là mô hình đạt được sự đồng 
thuận của phần lớn các nhà nghiên cứu 
trong lĩnh vực AIS. 
- Kế toán là lĩnh vực chịu sự chi phối cao 
về các chuẩn mực, nguyên tắc được ban 
hành bởi các cơ quan Nhà nước và các 
tổ chức nghề nghiệp, vì vậy mô hình về 
CLTT dựa trên quan điểm hội tụ của 
IASB & FASB được công bố bởi IASB 
vào năm 2010 được phần lớn các tổ 
chức Nhà nước và các tổ chức nghề 
nghiệp trong lĩnh vực kế toán chấp 
thuận và tham chiếu khi đề ra khuôn 
mẫu khái niệm về CLTT. 
- Quan điểm hòa hợp giữa IASB và 
FASB phù hợp với xu hướng hòa hợp và 
hội tụ quốc tế về chuẩn mực kế toán. 
4. KẾT LUẬN 
Mặc dù nghiên cứu về CLTT đã có một quá 
trình phát triển khá lâu dài trên Thế giới – xét 
trong lĩnh vực MIS lẫn AIS, tuy nhiên vẫn còn 
chưa được các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực 
kế toán Việt Nam quan tâm đúng mức. Bài viết 
của chúng tôi đã đúc kết và tìm ra xu hướng 
phát triển của nghiên cứu về CLTT, làm rõ 
Science & Technology Development, Vol 18, No Q1 - 2015 
Trang 74 
những điểm tương đồng và khác biệt đối với 
nghiên cứu về CLTT trong hai lĩnh vực MIS và 
AIS, từ đó đã xác định mô hình đo lường 
CLTT theo quan điểm hòa hợp giữa IASB & 
FASB là mô hình phù hợp cho việc đo lường 
CLTT kế toán. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ackoff, RL. (1967), Management 
Misinformation Systems, Management 
Science 14 (4): B147-B156. 
[2]. Baily, J.E. and S.W. Pearson (1983), 
Development of a Tool For Measuring 
and AnalyzingComputer User 
Satisfaction, Management Science 29(5): 
530-545. 
[3]. Chaker Haouet (2008), Informatique 
décisionnelle et management de la 
performance de l'entreprise, Laboratoire 
Orléanais de gestion IAE d'Orléans. 
[4]. Chervany, N. L. and G. W. Dickson 
(1970), Economic Evaluation of 
Management Information Systems: An 
Analytical Framework, Decision 
Sciences, 1. 296-308. 
[5]. Crosby, Philip B. (1995),Quality Is Still 
Free; Making Qualitv Certain in 
Uncertain Times, McGraw-Hill, New 
York, USA. 
[6]. English, L. p. (1999),Improving Data 
Warehouse and Business Inịonnation 
Quality: Methodes for Reducing Costs 
and Increasing Profìts, John Wiley and 
Sons, Inc, New York, New York, USA. 
[7]. Foong, S. Y. 1999, Effect of end-user 
personal and systems attributes on 
computer-based information 
systemsuccess in Malaysian SMEs, 
Journal of Small Business Management. 
July: 81-87. 
[8]. Gallagher, C.A. (1974), Perceptions of the 
Value o f a Management Information 
System, The Academy of Management 
Journal 17(l):46-55. 
[9]. IASB (2010), Conteptual Framework for 
Financial Reporting 2010, IFRS 
Foundation chapter 1, OB 2; chapter 3, 
QC 4. 
[10]. Kahn, B.K. and Strong, D.M. (1998), 
Product and service performance model 
for information quality: an update.4th 
International Conference on Information 
Quality,Boston, Massachusetts, USA. 
[11]. Paul E. Fertig (1967), A Satement of 
Basic Accounting Theory, Proquest 
Central sep 1967, p 663- 671. 
[12]. Proquest central (2011), IASB Conceptual 
framework, Charter 2011 p 70. 
[13]. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam 
(2003), Luật Kế toán. 
[14]. Wang, R.Y., Storey, V. c. and c. p. Firth, 
c.p. (1995), A Framework for Analysis of 
DataQuality Research, IEEE Transactions 
on Knowledge and Data Engineering 
7(4):623- 640. 
[15]. Wang, R.Y. and D.M. Strong (1996), 
Beyond Accuracy, What Data Quality 
Means to Data Consumers,Journal of 
Management Information Systems 
12(4):5-34. 

File đính kèm:

  • pdfban_ve_tieu_chuan_danh_gia_chat_luong_thong_tin_ke_toan.pdf