Bài giảng Tài chính doanh nghiệp - Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp

Nội dung

Nội dung chương này đề cập đến các mô hình quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và quản lý

các khoản phải thu.

Mục tiêu

• Trình bày được khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn.

• Trình bày được mục đích của việc quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và khoản phải thu.

• Nắm rõ được các mô hình quản lý hàng tồn kho và ý nghĩa của các mô hình đó.

• Nắm rõ được các mô hình quản lý ngân quỹ và ý nghĩa của các mô hình đó.

• Trình bày được mục đích và quy trình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp.

• Trình bày được đặc điểm của chính sách tín dụng thương mại

pdf 20 trang phuongnguyen 600
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Tài chính doanh nghiệp - Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Tài chính doanh nghiệp - Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp

Bài giảng Tài chính doanh nghiệp - Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 57 
BÀI 4 QUẢN LÝ TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP 
Hướng dẫn học 
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Chương 6, sách "Tài chính doanh nghiệp", PGS.TS Lưu Thị Hương và PGS.TS Vũ 
Duy Hào đồng chủ biên, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, 2013 
2. Chương 16, 17, sách "Giáo trình Tài chính doanh nghiệp", TS Bùi Văn Vần và TS. 
Vũ Văn Ninh đồng chủ biên, Nxb Tài chính, 2013. 
3. Chương 15, 16, 17, sách "Quản trị Tài chính doanh nghiệp", Nguyễn Hải Sản, Nxb 
Thống kê, 2010. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi trực tiếp với giảng viên trên diễn đàn. 
Nội dung 
Nội dung chương này đề cập đến các mô hình quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và quản lý 
các khoản phải thu. 
Mục tiêu 
• Trình bày được khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn. 
• Trình bày được mục đích của việc quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và khoản phải thu. 
• Nắm rõ được các mô hình quản lý hàng tồn kho và ý nghĩa của các mô hình đó. 
• Nắm rõ được các mô hình quản lý ngân quỹ và ý nghĩa của các mô hình đó. 
• Trình bày được mục đích và quy trình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp. 
• Trình bày được đặc điểm của chính sách tín dụng thương mại. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
58 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
Tình huống dẫn nhập 
Công ty Toyota Nhật Bản: Hệ thống quản lý hàng tồn kho "Just In Time" (JIT) 
Những năm 1930, Hãng ô tô Ford (Hoa Kỳ) lần đầu tiên áp dụng hệ thống dây chuyền để lắp ráp 
xe, một dạng sơ khai của phương pháp JIT - cung cấp đúng lúc, kịp thời và chính xác số lượng 
hàng hóa cần thiết kể cả về thời điểm giao hàng và số lượng cần giao. 
Đến những năm 1970, Hãng Ô tô Toyota (Nhật Bản) hoàn thiện phương pháp trên và nâng thành 
lý thuyết Just in thuế. Hãng ô tô Nhật Bản Toyota đã phát triển hệ thống dây chuyền sản xuất của 
Ford, phát huy ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của hai hình thái sản xuất trên. 
JIT phát huy tác dụng hiệu quả trong nhiều nhà máy của Nhật và đến thập niên 80, JIT bắt đầu 
xâm nhập vào Hoa Kỳ. General Electric là một trong những tô chức đầu tiên ứng dụng JIT. Ngày 
nay, khái niệm JIT ngày càng được chấp nhận và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. 
Phương pháp JIT là gì? Tại sao Toyota lại sử dụng hệ thống này trong quản lý 
hàng tồn kho? Ưu, nhược điểm và điều kiện áp dụng của phương pháp này là gì? 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 59 
4.1. Khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn 
Tài sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử dụng 
hoặc thu hồi dưới hoặc bằng 12 tháng, gồm 3 loại chính 
là Tiền, khoản Phải thu ngắn hạn và Hàng tồn kho. 
Thứ nhất, tiền, bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân 
hàng không kỳ hạn, vàng, bạc, kim khí, đá quý và tiền 
đang chuyển. Ngoài ra, các khoản đầu tư ngắn hạn có 
thời hạn thu hồi (đáo hạn) không quá 3 tháng, có khả 
năng chuyển đổi thành tiền dễ dàng (như kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc) được 
xem xét tương đương với tiền. 
Trong các loại tài sản tại doanh nghiệp, tiền có tính thanh khoản cao nhất, là phương 
tiện thanh toán, đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp. 
Thứ hai, khoản phải thu. Khoản mục này ghi nhận số tiền còn phải thu của khách hàng và 
các đối tượng khác có liên quan hoặc tiền ứng trước cho người bán nhưng chưa nhận sản 
phẩm. Khi khoản phải thu được thu hồi, ngân quỹ của doanh nghiệp đượcbổ sung. Như 
vậy, hình thái tồn tại của 2 khoản mục Tiền và Phải thu có thể chuyển hóa trực tiếp cho 
nhau nên hoạt động quản lý khoản phải thu và quản lý tiền có mối liên hệ mật thiết, đòi 
hỏi sự chú trọng đúng mức để đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 
Thứ ba, hàng tồn kho. Mặc dù tên gọi là "Hàng tồn kho" song khoản mục này bao gồm 
toàn bộ giá trị của các loại hiện vật dự trữ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh 
nghiệp, gồm Hàng mua đi đường, Nguyên liệu, vật liệu, Công cụ, dụng cụ, Chi phí sản 
xuất, kinh doanh dở dang, Thành phẩm, Hàng hóa, Hàng gửi đi bán, Hàng hóa kho bảo 
thuế (hàng hóa được lưu giữ trong kho chưa phải tính và nộp thuế nhập khẩu và các loại 
thuế liên quan, thường áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). 
Tại sao phải quản lý tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn là gì? 
Có thể hiểu: "Quản lý tài sản ngắn hạn là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành 
và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất 
định". Quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp là công việc quan trọng, cần thực 
hiện nghiêm túc, khoa học. Quá trình này bao gồm 1 loạt các quyết định từ khi có ý 
tưởng hình thành tài sản cho tới khi loại bỏ và thay thế bằng một tài sản khác, thay vì 
chỉ tập trung vận hành, nâng cao hiệu quả sử dụng như một số quan niệm cũ. 
4.2. Quản lý hàng tồn kho 
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh, việc 
tồn tại vật tư hàng hóa dự trữ (tồn kho) là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động 
bình thường của doanh nghiệp. 
4.2.1. Phân loại hàng tồn kho 
Có 2 cách phân loại hàng tồn kho: phân chia theo hình thức vật lý và phân chia theo 
giá trị đầu tư vốn vào chúng. 
 Phân chia theo hình thức vật lý: gắn liền với các giai đoạn của quá trình sản xuất, 
thành tồn kho nguyên liệu, tồn kho sản phẩm dở dang và tồn kho thành phẩm. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
60 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
 Phân chia theo giá trị đầu tư vốn vào chúng: Giả sử chúng ta chia tồn kho thành 03 
nhóm A, B và C. Về mặt số lượng, nhóm A chiếm 15%, nhóm B chiếm 30% và 
nhóm C chiếm 55%, nhưng về mặt giá trị nhóm A chiếm 75%, trong khi nhóm B 
và nhóm C lần lượt chi chiếm 20% và 5%. 
Điều này cho thấy nhóm A chiếm tỷ trọng cao nhất về mặt giá trị, hay nói cách khác 
đi nhóm A là nhóm tồn kho đắt tiền hơn nên cần được kiểm tra thường xuyên hơn. 
Cách kiểm soát tồn kho kiểu này gọi là phương pháp kiểm soát tồn kho ABC. Cách 
chia tồn kho theo giá trị nhằm tập trung sự chú ý quản lý vào những loại tồn kho nào 
có giá trị cao nhất hoặc dễ thất thóat nhất. 
4.2.2. Lợi ích và bất lợi của việc nắm giữ hàng tồn kho 
Nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá 
ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. 
Lợi ích: 
 Giúp công ty chủ động hơn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 
 Tồn kho nguyên vật liệu giúp công ty chủ động trong sản xuất. 
 Tồn kho sản phẩm dở dang giúp cho quá trình sản xuất của công ty được linh hoạt 
và liên tục, giai đoạn sản xuất sau không phải chờ đợi giai đoạn sản xuất trước. 
 Tồn kho thành phẩm giúp chủ động trong việc hoạch định sản xuất, tiếp thị và tiêu 
thụ sản phẩm nhằm khai thác và thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường. 
Bất lợi: 
Làm phát sinh chi phí liên quan đến tồn kho như chi phí kho bãi, bảo quản và các chi 
phí cơ hội do vốn kẹt vào hàng tồn kho. 
Quản trị tồn kho cần lưu ý xem xét sự đánh đổi giữa lợi ích và phí tổn của việc 
duy trì tồn kho. 
4.2.3. Xác định quy mô đặt hàng tối ưu bằng mô hình đặt hàng hiệu quả nhất EOQ 
(Economic Odering Quantity) 
Nhà kinh tế học Baumol đã xây dựng mô hình đặt hàng hiệu quả (Economic Odering 
Quantity - EOQ) để xác định lượng hàng hóa tối ưu mỗi lần cung ứng. Với giả định 
lượng vật tư được tiêu dùng rất ổn định, hàng hóa mỗi lần mua đều bằng nhau (Q) và 
luôn được nhà cung cấp đáp ứng đầy đủ (không cần dự trữ an toàn) nên mức dự trữ 
bình quân trong kho của doanh nghiệp là Q/2. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 61 
Theo Baumol, có 2 loại chi phí chủ yếu liên quan tới hoạt động dự trữ của doanh 
nghiệp là chi phí lưu kho và chi phí đặt hàng. 
Chi phí lưu kho bao gồm những hao phí để dự trữ hàng hóa như chi phí bốc xếp, 
bảo hiểm, thuê kho bãi, điện, nước, hao hụt/mất mát... (được ký hiệu C1 cho một 
đơn vị vật tư). Nếu doanh nghiệp mua càng nhiều hàng hóa, mức dự trữ bình quân 
càng lớn, tổng chi phí lưu kho tăng lên. 
Chúng ta giả định chi phí lưu kho cho 1 đơn vị vật tư là C1. Lượng hàng hóa dự trữ 
bình quân trong kho là C/2. Do đó tổng chi phí lưu kho (ký hiệu TCC) là C1 × Q/2 
Chi phí đặt hàng: Chi phí đặt hàng là tập hợp tất cả những chi phí cho việc mua 
hàng như giao dịch, vận chuyển, quản lý... (ký hiệu C2 cho một lần đặt hàng). 
Trong một phạm vi nhất định về lượng hàng hóa đặt mua, C2 thường không đổi nên 
mua càng nhiều, càng có lợi. Như vậy, Baumol cũng phát hiện quan hệ tỷ lệ nghịch 
giữa hai loại chi phí kể trên. 
Gọi D là tổng lượng vật tư cần sử dụng trong kỳ, số lần cần đặt hàng trong một kỳ 
bằng D/Q. Do đó, tổng chi phí đặt hàng trong kỳ bằng (C2 × D/Q). Vì mức tồn kho 
bình quân bằng Q/2 nên tổng chi phí lưu kho trong kỳ là (C1 × Q/2). Cuối cùng, nhà 
quản lý phải giải bài toán tìm Q để tổng cả 2 loại chi phí trên là nhỏ nhất. 
Tổng chi phí dự trữ = Tổng chi phí lưu kho + Tổng chi phí đặt hàng 
 (TIC) (TCC) (TOC) 
Hay: 
TIC = C1 × Q/2 + C2 × D/Q 
Mô hình đặt hàng hiệu qủa (EOQ)
2
3 
TCC 
TOC
QQ*
TIC
C
Lượng đặt hàng tối ưu là
lượng đặt hàng mà tại đó tổng
chi phí dự trữ là nhỏ nhất. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
62 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
Kết quả Q* = 2 2
1
DC
C 
Ví dụ : Công ty A dự định sử dụng 26.000 đơn vị sản phẩm trong năm sắp tới. Biết 
chi phí mỗi lần đặt hàng là $1.000, chi phí lưu kho cho 1 đơn vị sản phẩm là $1,23. 
Hỏi lượng đặt hàng tối ưu và số lần đặt hàng tối ưu trong năm của doanh nghiệp là 
bao nhiêu? 
Trả lời: Áp dụng công thức trên với D = 26.000, C2 = $1.000 và C1 = $1,23 
2 2 2 26.000 1.000* 6.500
1 1, 23
DCQ
C
 đơn vị 
Như vậy, công ty sẽ đặt hàng mỗi lần là 6.500 đơn vị sản phẩm. 
Số lần đặt hàng tối ưu trong năm của doanh nghiệp là: n* = 26.000 / 6.500 = 4 lần 
Với điểm đặt hàng hiệu quả là 6.500 đơn vị và doanh thu hàng năm là 26.000 đơnvị 
thì công ty sẽ phải đặt hàng 4 lần trong năm. Tốc độ sử dụng hàng tuần sẽ là 
26.000/52 = 500 đơn vị, tức là cứ sau một tuần thì hàng tồn kho giảm đi 500 đơn vị. 
Giá trị đơn vị thực sự nắm giữ trong kho sẽ biến động từ 6.500 xuống 0 trước khi 
chúng ta đặt hàng mới. 
Chú ý: Từ công thức chúng ta thấy rằng Q* tăng cùng với căn bậc hai của doanh thu 
Do đó, với sự tăng của doanh thu cho trước thì sẽ dẫn đến một sự tăng ít hơn trong 
việc tăng hàng tồn kho, vì vậy tỷ lệ hàng tồn kho trên doanh thu sẽ giảm khi công ty 
tăng trưởng. Ví dụ, với mức điểm đặt hàng hiệu quả là 6.500 cho doanh thu hàng năm 
là 26.000 đơn vị, thì hàng tồn kho trung bình là 3.250 đơn vị, hay là $16.000. Tuy 
nhiên, nếu doanh thu tăng 100% lên 52.000 đơn vị, điểm đặt hàng tối thiểu sẽ chỉ tăng 
lên 9.159 đơn vị, tức là 41%, và giá trị hàng tồn kho cũng tăng lên một tỷ lệ phần trăm 
tương ứng. Điều này chỉ ra tính lợi ích tăng theo quy mô khi chúng ta nắm giữ hàng 
tồn kho. 
 TIC = TCC + TOC = C1 × (Q/2) + F × (D/Q) 
 = 1,23 × (6.500/2) + 1.000 × (26.000/6.500) 
 = 4.000 + 4.000 = $8.000. 
* TCC = TOC: Điều này đúng cho mọi trường hợp, chứ không chỉ trong trường hợp này. 
Chú ý: Ảnh hưởng của lạm phát: Lạm phát sẽ làm giảm giá trị của tiền nhưng làm 
tăng giá trị của hàng hóa, nên làm tăng giá trị hàng tồn kho, giúp cho bù đắp phần chi 
phí bị khấu hao hay lỗi thời, do đó làm giảm giá trị của C, mà C ở mẫu nên làm tăng 
Q*. Tuy nhiên, lạm phát cũng làm tăng chi phí vốn, do đó đồng thời làm tăng C, nên 
làm giảm Q*. Như vậy không thể biết được lạm phát sẽ ảnh hưởng thế nào đến điểm 
đặt hàng tối ưu. 
Như thế, nếu chi phí lưu trữ lớn, nhà quản lý nên mua vật tư nhiều lần, mỗi lần một ít 
theo nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn. Ngược lại, nếu chi phí đặt hàng cao, doanh 
nghiệp nên tăng số lượng hàng hóa đặt mua mỗi lần, để giảm số lần đặt hàng xuống 
mức thấp nhất. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 63 
Là mô hình được ứng dụng phổ biến song EOQ được xây dựng dựa trên giả thiết nhu 
cầu sử dụng hàng hóa, nguyên vật liệu thay đổi đều đặn theo thời gian và luôn có đủ 
điều kiện để thực hiện các đơn đặt hàng. Điều này chỉ phù hợp với những doanh 
nghiệp sản xuất - kinh doanh chủ động, ổn định theo kế hoạch, trong một thị trường 
hàng hóa dồi dào và ít có biến động vĩ mô. 
Điểm đặt hàng mới 
Theo mô hình EOQ, khi hàng hóa, nguyên vật liệu trong kho vừa được sử dụng hết, 
doanh nghiệp sẽ tiến hành nhập kho lượng hàng mới, đảm bảo hoạt động sản xuất 
kinh doanh không bị gián đoạn, chính vì vậy, cần đặt hàng trước khi xuất kho hết hoàn 
toàn. Trên thực tế, có một khoảng thời gian giữa thời điểm đặt hàng và thời điểm nhận 
được hàng đặt, đó là khoảng thời gian cần thiết để nhà cung cấp chuẩn bị sản xuất và 
giao hàng. Công ty vẫn phải tiếp tục sản xuất trong thời gian chờ này. 
Điểm đặt hàng mới được hiểu là lượng hàng hóa, nguyên vật liệu trong kho mà 
khi số dư khoản mục hàng tồn kho giảm tới đó, doanh nghiệp cần đặt hàng mới. 
Điểm đặt hàng mới = Thời gian chờ hàng đặt × Số lượng hàng sử dụng trong ngày 
Ví dụ: với Công ty nêu trên, giả định toàn bộ số hàng hóa cần sử dụng trong năm là 
26.000 đơn vị, số tuần làm việc là 52 tuần, nhu cầu sử dụng nguyên liệu mỗi tuần là: 
26.000/52 tuần = 500 đơn vị/tuần. Nếu thời gian giao hàng là 2 tuần thì doanh nghiệp 
sẽ tiến hành đặt hàng mới khi lượng nguyên liệu trong kho chỉ còn lại là: 500 × 2 
=1.000 đơn vị. 
Lượng dự trữ an toàn và điểm đặt hàng an toàn 
Trong một số trường hợp như doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh theo mùa vụ; lượng 
cung và giá nguyên vật liệu, hàng hóa thường xuyên biến động; tỷ giá đồng tiền dùng 
để nhập khẩu không ổn định; thủ tục nhập hàng phức tạp; vận chuyển khó khăn, tốn 
nhiều thời gian và chi phí nếu xác định điểm đặt hàng mới theo cách nêu trên, 
doanh nghiệp có thể bị thiếu hụt nguyên vật liệu hoặc thiệt hại về kinh tế (do đặt hàng 
với chi phí cao hơn). Do đó, nhà quản lý thường tính toán một mức dự trữ an toàn, là 
số dư khoản mục hàng tồn kho cho phép doanh nghiệp tiếp tục duy trì sản xuất - kinh 
doanh bình thường trong lúc giải quyết ổn thỏa các vấn đề nêu trên. 
Điểm đặt hàng an toàn = (Thời gian chờ hàng đặt × Số lượng hàng sử dụng trong 
ngày) × Số lượng dự trữ an toàn 
Ví dụ: Để phòng tránh những chậm trễ có thể xảy ra trong quá trình giao dịch và vận 
chuyển nguyên vật liệu về kho, ban lãnh đạo Công ty trên quyết định mức dự trữ an 
toàn là 700 đơn vị hàng hóa, do đó, khi số dư hàng tồn kho bằng 1.000 + 700 = 1.700 
đơn vị, nhà quản lý phải tiến hành đặt hàng mới. Đây chính là điểm đặt hàng an toàn 
cho công ty. 
4.2.4. Mô hình đặt hàng đúng lúc Just in time (JIT) 
Năm 1950 , hãng xe Toyota của Nhật Bản đã xây dựng hệ thống giao hàng đúng hạn - 
Just In Time (JIT), theo đó việc đặt hàng thực hiện kịp thời, phù hợp với tiến độ sản 
xuất. Nói cách khác, vật tư mua về (bao gồm nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ và cả 
sản phẩm dở dang) được đưa vào sử dụng ngay, nên lượng dự trữ trong kho gần như 
bằng 0, chi ph ... h nghiệp... Do đó, nhà quản lý cần theo dõi thường xuyên và tính 
toán lại giá trị M* khi cần thiết. 
Việc duy trì mức tồn quỹ tối ưu trong dài hạn có ý nghĩa lớn đối với hiệu quả kinh 
doanh của doanh nghiệp song theo mô hình Miller - Orr, số dư ngân quỹ được phép 
dao động trong khoảng từ Mmin tới Mmax, chỉ khi giá trị này bằng hoặc vượt quá hai 
giới hạn trên, các biện pháp xử lý ngân quỹ mới được áp dụng. Điều này rất quan 
trọng trong thực tiễn vì doanh nghiệp không thể luôn hội đủ điều kiện để điều chỉnh 
tồn quỹ về mức tối ưu (độ chênh lệch quá nhỏ, chi phí phát sinh lớn hơn lợi ích kinh tế 
đạt được, hàng hóa trên thị trường tài chính không tương thích với nhu cầu...). Để điều 
chỉnh số dư ngân quỹ về M*, có thể sử dụng một số biện pháp sau: 
Tìm kiếm cơ hội đầu tư thặng dư ngân quỹ 
Khi ngân quỹ thặng dư, trước tiên, nhà quản lý xác định độ lớn và thời gian dư thừa 
tạm thời, từ đó lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp. Mặc dù trong mô hình Baumol và 
Miller - Orr, tiền luôn được giả định chuyển đổi qua/1ại với chứng khoán thanh khoản 
cao song trên thực tế tùy điều kiện của doanh nghiệp và thị trường tài chính, có thể sử dụng 
các phương án khác như giao dịch vàng/ngoại hối, gửi tiết kiệm tại ngân hàng, ủy thác đầu 
tư hay cho vay. 
Mỗi hình thức có ưu, nhược điểm riêng biệt. 
 Đầu tư chứng khoán thanh khoản cao 
Vì thặng dư ngân quỹ chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định nên độ an 
toàn (hay khả năng chuyển thành tiền) và thời hạn là hai điểm cần lưu ý hơn so với 
tỷ lệ sinh lời của chứng khoán. Thông thường, loại chứng khoán được lựa chọn là 
tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu ngân hàng hoặc thương phiếu của công ty 
nổi tiếng (có thứ hạng tín nhiệm cao)... có kỳ hạn ngắn dưới 1 năm. Thủ tục giao 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
70 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
dịch nhanh chóng, dễ dàng cùng mức phí tương đối thấp so với tỷ lệ sinh lời bình 
quân cho phép nhà quản lý chủ động mua/bán các loại chứng khoán này để hưởng 
chênh lệch giá. Tuy nhiên trong một số trường hợp, 
các chứng khoán chỉ được bán theo lô thay vì bán 
riêng lẻ với giá trị giao dịch không tương thích 
hoàn toàn với số tiền thặng dư ngân quỹ. Hoặc 
doanh nghiệp không đủ điều kiện tham gia đầu 
thầu phát hành chứng khoán lần đầu nên phải mua 
trên thị trường thứ cấp, làm gia tăng chi phí. 
 Giao dịch vàng/ngoại hối 
Khi ngân quỹ thặng dư và thị trường vàng/ngoại hối biến động theo hướng có lợi, 
nhà quản lý có thể gia tăng khả năng sinh lời cho doanh nghiệp. Thông qua các tài 
khoản giao dịch trực tuyến, nhận lệnh 24/24 theo sự vận động của thị trường thế 
giới, các nghiệp vụ Arbitrage tiền tệ (kinh doanh dựa trên sự chênh lệch về tỷ giá 
giữa các đồng tiền) hay mua/bán vàng trên sàn giao dịch điện tử (không phải vàng 
vật chất) có thể diễn ra nhanh chóng. Tuy đây là hình thức đầu tư khá chủ động 
song tiềm ẩn nhiều rủi ro vì nhà quản lý khó kiểm soát được tất cả các yếu tố ảnh 
hưởng giá cả trên thị trường quốc tế. Thêm vào đó, nếu quyết định sai lầm dẫn tới 
thua lỗ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong 
tương lai vì nguồn tiền đầu tư là thặng dư ngân quỹ tạm thời. 
 Gửi tiết kiệm tại ngân hàng 
Khác với tài khoản tiền gửi thanh toán, hưởng lãi suất không kỳ hạn, tiền gửi tiết 
kiệm có tỷ lệ sinh lời cao hơn (thường từ 2 đến 5 lần). 
Do đó, khi số dư tiền cuối kỳ lớn hơn M*, nhà quản trị có thể yêu cầu chính ngân 
hàng đang quản lý tài khoản của doanh nghiệp chuyển phần chênh lệch nói trên 
thành một khoản tiền gửi có kỳ hạn tương ứng với thời gian dư thừa của ngân quỹ. 
Quyết định này được thực hiện dễ dàng với thủ tục nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu kết 
quả dự báo dòng tiền không chính xác hoặc xảy ra sự cố bất ngờ buộc doanh 
nghiệp rút tiền trước hạn, tỷ lệ sinh lời của khoản đầu tư chỉ bằng lãi suất không 
kỳ hạn (dù thời gian gửi tiền sắp kết thúc). Như thế, quyết định đầu tư không còn ý 
nghĩa, thậm chí gây lãng phí nguồn lực. Vì vậy, dù có độ an toàn ổn định, gửi tiết 
kiệm tại ngân hàng là biện pháp kém chủ động hơn so với hai hình thức nêu trên. 
 Ủy thác đầu tư 
Với sự phát triển của các tổ chức tín dụng, nhà 
quản lý có thể ký kết hợp đồng ủy thác đầu tư 
phần thặng dư ngân quỹ đặc điểm của từng hình 
thức ủy thác (có/không chỉ định danh mục đầu tư, 
có/không chia sẽ rủi ro giữa hai bên, lãi suất thả 
nổi/cố định, thời hạn ngắn, trung hạn...), rủi ro và 
lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ khác nhau. Thông 
thường, tài sản trong danh mục ủy thác là cổ phiếu, trái phiếu. Hình thức này phù 
hợp với các nhà quản lý không đủ điều kiện (năng lực, thời gian, phương tiện...) để tự 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 71 
thực hiện đầu tư. Song giống với gửi tiết kiệm, việc rút vốn trước hạn có thể làm mất 
phần lớn tiền lãi, vì thế cần cân nhắc kỹ lưỡng và lựa chọn hình thức phù hợp. 
 Cho vay 
Trong các hình thức đầu tư thặng dư ngân quỹ, cho cá nhân, tổ chức khác vay là 
hình thức kém linh hoạt nhất. Trong quá trình cho vay, doanh nghiệp không được 
thu hồi vốn trước hạn, đồng thời, có thể xảy ra tình trạng con nợ chậm trễ thanh 
toán lãi và gốc vay nên khi phát sinh nhu cầu đột xuất về tiền, khả năng thanh toán 
của doanh nghiệp dễ dàng bị ảnh hưởng xấu. Thủ tục cho vay cũng như chiết 
khấu, cầm cố hợp đồng vay tiền phức tạp và mất nhiều thời gian. Để đối phó với 
những tình huống như vậy, cần lựa chọn đối tác tin cậy, phân tích kỹ lưỡng năng 
lực tài chính và phương án sử dụng vốn, đồng thời chuẩn bị nguồn tài trợ dự 
phòng khi cần thiết. Tuy có nhiều nhược điểm song đổi lại, tỷ lệ sinh lời từ việc 
cho vay thường cao hơn tất cả các hình thức đầu tư nêu trên, vì thế, đây vẫn là một 
giải pháp được nhà quản lý quan tâm lựa chọn. 
Tìm kiếm nguồn tài trợ bù đắp thâm hụt 
Khi nguồn thu của doanh nghiệp bị thiếu hụt so với nhu cầu thanh toán, nhà quản lý 
có thể tìm kiếm tài trợ từ các hoạt động tương tự như đầu tư thặng dư ngân quỹ bao 
gồm chứng khoán thanh khoản cao, tiết kiệm tại ngân hàng, thu hồi các khoản uỷ thác 
đầu tư hoặc cho vay. 
Trong đó, việc bán các chứng khoán thanh toán cao do doanh nghiệp đang nắm giữ 
được đánh giá là biện pháp hiệu quả nhất do thủ tục nhanh chóng, đơn giản, chi phí 
giao dịch thấp (so với thời gian nắm giữ). Thêm vào đó, doanh nghiệp hoàn toàn chủ 
động về số lượng và thời điểm bán chứng khoán, không cần sự chấp thuận của bất kỳ 
đối tác nào bên ngoài doanh nghiệp. Để rút tiết kiệm hay thu hồi các khoản uỷ thác 
cần thủ tục lâu hơn, trong một số trường hợp phải thương thảo với tổ chức tín dụng. 
Song nhược điểm lớn nhất là nguy cơ mất phần lớn số lãi suất đầu tư do rút vốn trước 
hạn. Đồng thời, cả ba hình thức bán chứng khoán, rút tiết kiệm, thu hồi vốn uỷ thác 
đểu chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp đã có sẵn những tài sản này và giá trị của 
chúng tương đương với khoản thâm hụt ngân quỹ. Đối với các doanh nghiệp thường 
xuyên có số dư ngân quỹ nhỏ hơn M*, biện pháp nên chọn là đi vay ngắn hạn từ cá 
nhân, tổ chức khác. Mặc dù thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian hơn, phải thoả mãn 
các điều kiện tín dụng, chịu sự giám sát trong quá trình sử dụng vốn và đặc biệt phải 
trả lãi vay nhưng vay nợ có thể đáp ứng gần như không giới hạn nhu cầu vốn của 
doanh nghiệp (cả quy mô lẫn thời hạn). 
4.4. Quản lý khoản phải thu 
4.4.1. Chính sách tín dụng thương mại 
Để tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ngoài các chiến lược về chất lượng sản 
phẩm, về quảng cáo, về giá cả, về dịch vụ giao hàng, và các dịch vụ sau khi mua bán 
như vận chuyển, lắp đặt..., quan hệ mua bán chịu, hay còn gọi là tín dụng thương mại, 
là một trong những mắt xích quan trọng tạo ra thắng lợi trong hoạt động giao thương 
của doanh nghiệp. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
72 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
Tín dụng thương mại, trên khía cạnh doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng, cũng có 
thể đem lại nhiều rủi ro cho hoạt động kinh doanh. 
 Ưu điểm 
o Tăng doanh thu bán hàng. Do được trả tiền 
chậm nên sẽ có nhiều khách hàng đến mua 
hàng của doanh nghiệp hơn, làm cho doanh thu 
tăng. Đồng thời, khi đó doanh nghiệp sẽ quy 
định mức giá cao hơn đối với người mua hàng 
vì doanh nghiệp bị chậm trễ trong việc trả tiền 
và tiền có giá trị theo thời gian. 
o Giảm chi phí tồn kho của hàng hóa. 
o Sử dụng tài sản cố định hiệu quả hơn, hạn chế phần nào về hao mòn vô hình. 
 Nhược điểm 
o Có thể tăng chi phí cho doanh nghiệp (chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài 
trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ). 
o Rủi ro mất vốn lớn khi người mua không trả tiền (thời hạn cấp tín dụng càng 
dài thì rủi ro càng lớn). 
4.4.2. Phân tích tín dụng thương mại 
Những tác động trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính sách tín dụng thương 
mại phù hợp, đánh giá được khả năng tín dụng của khách hàng để quyết định có cấp 
tín dụng thương mại hay không, phân tích khoản tín dụng được đề nghị trên khía cạnh 
so sánh thu nhập và chi phí tăng thêm, và lập kế hoạch theo dõi đối với mỗi khoản tín 
dụng được cấp. 
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng 
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng bắt đầu 
bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín 
dụng hợp lý, sau đó là việc xác minh phẩm chất tín 
dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín 
dụng của khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn 
tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng thương 
mại có thể được cấp. 
Tuy nhiên, việc thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng của các nhà quản trị tài chính phải đạt 
tới sự cân bằng thích hợp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng đặt ra quá cao sẽ loại bỏ nhiều 
khách hàng tiềm năng và sẽ giảm lợi nhuận, còn nếu tiêu chuẩn được đặt ra quá thấp 
có thể làm tăng doanh thu, nhưng sẽ có nhiều khoản tín dụng có rủi ro cao và chi phí 
thu tiền cũng cao. 
Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng có thể là kiểm tra bảng cân đối tài 
sản, bảng kế hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp, xuống tận nơi để kiểm tra tìm hiểu 
qua các khách hàng khác. 
Khi thực hiện việc phân tích khả năng tín dụng của khách hàng người ta thường đánh 
giá những tiêu chuẩn sau: 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 73 
 Phẩm chất, tư cách tín dụng. Tiêu chuẩn này nói lên tinh thần trách nhiệm của khách 
hàng trong việc trả nợ. Điều này cũng chỉ phán đoán trên cơ sở việc thanh toán các 
khoản nợ trước đây đối với doanh nghiệp hoặc đối với các doanh nghiệp khác. 
 Năng lực trả nợ. Tiêu chuẩn này được dựa vào hai cơ sở là chỉ tiêu về khả năng 
thanh toán nhanh và bảng dự trữ ngân quỹ của doanh nghiệp... 
 Vốn của khách hàng. Đây là tiêu chuẩn đánh giá về tiềm năng tài chính dài hạn. 
 Thế chấp là xem xét khách hàng dưới giác độ các tài sản riêng mà họ có thể sử 
dụng để đảm bảo cho các khoản nợ. 
 Điều kiện kinh tế, tức là đề cập đến khả năng phát triển của khách hàng, xu thế 
phát triển về ngành nghề kinh doanh của họ... 
Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị 
Cũng như rất nhiều sự phân tích lựa chọn khác, việc phân tích đánh giá khoản tín dụng 
thương mại được đề nghị để quyết định có nên cấp hay không được dựa vào việc tính 
NPV của luồng tiền. 
Theo dõi khoản phải thu 
Để quản lý các khoản phải thu, nhà quản lý phải biết cách theo dõi các khoản phải thu, 
trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường 
người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau: 
 Kỳ thu tiền bình quân 
Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu 
Doanh thu tiêu thu bình quân 1 ngày 
4 
Chẳng hạn, tổng doanh số bán của Công ty A trong tháng 1 là 20 triệu, tháng 2 là 
35 triệu và tháng 3 là 30 triệu đồng. 
Đến ngày 31/3 giá trị hóa đơn bán chịu của tháng 1 là 10% doanh số bán, tháng 2 
là 30% và tháng 3 là 80%. Do vậy đến ngày 31/3 tổng giá trị các khoản phải thu 
là: 0,10 × 20 + 0,30 × 30 + 0,8 × 30 = 35 triệu đồng. 
Doanh thu bình quân ngày là: 85/90 = 0,94 triệu. 
Kỳ thu tiền bình quân là: 35/0,94 = 37 ngày. 
Điều này có nghĩa là phải mất 37 ngày, một đơn vị tiền bán hàng trước đó mới 
được thu hồi. 
Do vậy, khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không 
tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi 
đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời. 
 Sắp xếp "tuổi" của các khoản phải thu 
Theo phương pháp này nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời 
gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu nợ khi đến hạn. 
Ví dụ: Sau khi xem xét các khoản phải thu của Công ty B các nhà quản lý đã lập 
được bảng theo dõi các khoản phải thu bằng bảng sau: 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
74 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
Tuổi của khoản phải thu (ngày) Tỷ lệ của khoản phải thu so với 
tổng số cấp tín dụng 
0 - 15 32% 
16 - 30 30% 
31 - 45 19% 
46 - 60 12% 
61 - 75 4% 
71 - 90 3% 
 Xác định số dư khoản phải thu 
Theo phương pháp này, khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi 
yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán. Sử dụng phương pháp này doanh 
nghiệp hoàn toàn có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng nợ doanh nghiệp. 
Cùng với cách theo dõi khác, người quản lý có thể thấy được ảnh hưởng của các 
chính sách tài chính nói chung và chính sách tín dụng thương mại nói riêng. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 75 
Tóm lược cuối bài 
 Tài Sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử dụng hoặc thu hồi dưới hoặc bằng 12 
tháng. Có 3 loại tài sản ngắn hạn chính doanh nghiệp cần quản lý: tiền, phải thu ngắn hạn, 
hàng tồn kho. Quản lý tài sản ngắn hạn là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành và sử 
dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. 
 Quản lý hàng tồn kho dựa vào hai mô hình: Mô hình đặt hàng hiệu quả (EOQ) và Mô hình 
đặt hàng đúng lúc. 
 Quản lý ngân quỹ (hay quản lý tiền mặt) có thể dựa vào hai mô hình: Mô hình Baumol và mô hình 
Miller-orr, trong đó mô hình Miller-orr có tính ứng dụng cao hơn đối với nhiều doanh nghiệp. 
 Quản lý khoản phải thu cần chú ý đến thiết lập chính sách tín dụng thương mại hiệu quả, hợp 
lý, và thực hiện phân tích tín dụng thương mại của các khách hàng. 
 Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 
76 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 
Câu hỏi ôn tập 
1. Phân tích ưu nhược điểm của việc dự trữ hàng tồn kho, tiền mặt, và khoản phải thu? 
2. So sánh mô hình EOQ và Mô hình cung cấp đúng lúc kịp thời trong quản lý hàng tồn kho? 
3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức tồn kho tối ưu trong mô hình EOQ? 
4. "Doanh nghiệp dư trữ càng nhiều nguyên vật liệu, càng có lợi", đúng hay sai? 
5. So sánh ưu điểm và nhược điểm của mô hình Baumol và Miller-Orr trong quản trị tiền mặt 
của doanh nghiệp. 
6. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức tiền mặt tối ưu theo mô hình Miller-Orr? 
7. "Doanh nghiệp dư trữ càng ít tiền mặt, càng có lợii", đúng hay sai? 
8. Bình luận ý kiến: "Để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp nên bán chịu hàng hóa cho tất cả 
mọi khách hàng". 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_tai_chinh_doanh_nghiep_bai_4_quan_ly_tai_san_ngan.pdf