Bài giảng Tài chính công - Bài 1: Tổng quan về tài chính công

Nội dung

 Những vấn đề chung về tài chính công;

 Vai trò của chính phủ và tài chính công.

Mục tiêu

Mục tiêu của bài nhằm cung cấp cho sinh viên các kiến thức cơ bản về tài chính công với

các nội dung chủ yếu như quan niệm về tài chính công, nội dung và các lĩnh vực về tài

chính công, đặc điểm của tài chính công. Ngoài ra, sinh viên cũng hiểu được vai trò của

chính phủ trong việc thực hiện các chức năng của tài chính công. Sau bài này, sinh viên sẽ

nhận biết vị trí quan trọng của tài chính công trong cấu trúc hệ thống tài chính, phân biệt

được tài chính công với các hoạt động tài chính khác.

pdf 17 trang phuongnguyen 2321
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Tài chính công - Bài 1: Tổng quan về tài chính công", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Tài chính công - Bài 1: Tổng quan về tài chính công

Bài giảng Tài chính công - Bài 1: Tổng quan về tài chính công
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 1 
BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH CÔNG 
Hướng dẫn học 
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Kinh tế học công cộng, NXBKHKT, 1995 (tác giả Joseph E.Stiglitz). 
2. Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB tài chính – Hà nội 2005. 
3. Giáo trình Quản lý thuế, Nguyễn thị Bất, NXB Thống kê 2002. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
 Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. 
Nội dung 
 Những vấn đề chung về tài chính công; 
 Vai trò của chính phủ và tài chính công. 
Mục tiêu 
Mục tiêu của bài nhằm cung cấp cho sinh viên các kiến thức cơ bản về tài chính công với 
các nội dung chủ yếu như quan niệm về tài chính công, nội dung và các lĩnh vực về tài 
chính công, đặc điểm của tài chính công. Ngoài ra, sinh viên cũng hiểu được vai trò của 
chính phủ trong việc thực hiện các chức năng của tài chính công. Sau bài này, sinh viên sẽ 
nhận biết vị trí quan trọng của tài chính công trong cấu trúc hệ thống tài chính, phân biệt 
được tài chính công với các hoạt động tài chính khác. 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
2 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
Tình huống dẫn nhập 
Một vài số liệu về nợ công ở Việt Nam 
Tính đến ngày (24/3/2014), nợ công Việt Nam ở mức 80.092.622.951 USD, và với dân số 
90.525.901 người, hiện tại, mỗi người dân Việt Nam đang gánh 886,59 USD nợ công (khoảng 
18,6 triệu đồng). Nợ công cả nước đã tăng 11,2% so với năm 2013 và chiếm 48% GDP. 
 1. Nợ công từ đâu mà xuất hiện? 2. Nguồn nào sẽ chi trả cho khoản nợ của quốc gia này? 
3. Những ảnh hưởng tác động của nợ công này đến nền kinh tế? 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 3 
1.1. Những vấn đề chung về tài chính công 
1.1.1. Quan niệm về tài chính công 
Quan niệm về tài chính công có quan hệ chặt chẽ với khu vực công và được sử dụng 
để đối lập với khái niệm tài chính tư. 
Theo dòng thời gian, sự tiếp cận khái niệm tài chính công cũng có sự khác nhau giữa 
các nhà kinh tế, sở dĩ như vậy, là vì bối cảnh kinh tế xã hội đã làm thay đổi quan niệm 
về vai trò của nhà nước. 
Quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển (Adam Smith - cha đẻ của kinh tế thị trường) cho 
rằng: tài chính công là khoa học nghiên cứu sự tài trợ cho các khoản chi tiêu công. 
Trong bối cảnh kinh tế hiện đại, Giáo sư Harvey Rosen cho rằng tài chính công là 
“lĩnh vực kinh tế học phân tích thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ”. Với cách 
tiếp cận này, tài chính công không những là khoa học nghiên cứu việc sử dụng các 
công cụ tài chính để tài trợ chi tiêu công, mà còn phân tích các chính sách thu công, 
chi tiêu công nhằm mục đích thực hiện vai trò can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế 
(đây là quan điểm tổng quát hơn). 
Như vậy, cho dù có những cách tiếp cận khác nhau, 
nhưng điểm chung của các nhà kinh tế khi định nghĩa 
phạm trù này là: tài chính công là một nhánh của kinh 
tế học nghiên cứu vai trò của chính phủ thông qua 
phân tích tác động thu, chi ngân sách đến các hoạt 
động kinh tế xã hội. Hay nói cách khác, tài chính công 
cũng được hiểu như kinh tế học của khu vực công hay 
kinh tế công, chủ yếu đề cập đến các hoạt động thu thuế và chi tiêu của chính phủ và 
những ảnh hưởng của nó trong việc phân bổ các nguồn lực và phân phối thu nhập. 
Từ những phân tích trên đây có thể có khái niệm tổng quát về tài chính công như sau: 
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do nhà nước tiến hành, nó 
phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng 
các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của nhà nước và đáp ứng các 
nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội. 
1.1.2. Nội dung và các lĩnh vực thuộc tài chính công 
Nội dung của tài chính công rất phong phú, đa dạng. Cùng với sự phát triển của nền 
kinh tế quốc dân, sự phong phú, đa dạng của tài chính công ngày càng tiến triển nhanh 
hơn, mạnh mẽ hơn. Tùy theo yêu cầu quản lý, người ta có thể phân chia nội dung của 
tài chính công theo các tiêu thức khác nhau. 
1.1.2.1. Theo chủ thể quản lý trực tiếp 
Nếu dựa trên giác độ chủ thể trực tiếp quản lý các quỹ tiền tệ của nhà nước có thể chia 
tài chính công thành các bộ phận: tài chính công tổng hợp; tài chính của các cơ quan 
hành chính nhà nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. 
 Tài chính công tổng hợp 
Tài chính công tổng hợp tồn tại và hoạt động gắn liền với việc tạo lập và sử dụng 
các quỹ công nhằm phục vụ cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
4 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
chức năng kinh tế, xã hội của nhà nước. Theo tính chất của các quỹ tiền tệ, tài 
chính công tổng hợp bao gồm các bộ phận: ngân sách nhà nước và các quỹ tài 
chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước. 
Chủ thể trực tiếp quản lý ngân sách nhà nước là nhà nước (chính phủ Trung ương 
và chính quyền địa phương các cấp) thông qua các cơ quan chức năng của nhà 
nước (cơ quan Tài chính, Kho bạc nhà nước). 
Chủ thể trực tiếp quản lý các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước là 
các cơ quan nhà nước được nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức và quản lý từng quỹ 
đó (quỹ Dự trữ nhà nước; quỹ Bảo hiểm xã hội). 
 Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước 
Bộ máy nhà nước được tổ chức bao gồm 3 hệ thống: các cơ quan lập pháp, các cơ 
quan hành pháp và các cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa phương. Các cơ 
quan hành chính thuộc bộ phận thứ 2 trong hệ thống kể trên. 
Tuy nhiên, do hoạt động của các cơ quan lập pháp và các cơ quan tư pháp cũng 
mang tính chất “hành chính” như các cơ quan hành chính, đồng thời chúng cũng 
có những đặc điểm tương đồng về nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động và yêu 
cầu sử dụng kinh phí. Do đó, trong lĩnh vực quản lý tài chính, 3 loại cơ quan kể 
trên được xếp vào cùng một dạng là các cơ quan hành chính. 
Các cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ 
cung cấp các dịch vụ hành chính công cho xã hội. 
Các cơ quan này được phép thu một số khoản thu 
về phí và lệ phí nhưng số thu đó là không đáng kể. 
Do đó, nguồn tài chính đảm bảo cho các cơ quan 
hành chính hoạt động gần như do ngân sách nhà 
nước cấp toàn bộ. Nguồn tài chính ở đây được sử 
dụng để duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước và 
thực hiện các nghiệp vụ hành chính, cung cấp các dịch vụ hành chính công thuộc 
chức năng của cơ quan. 
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính các cơ quan hành chính nhà nước là các cơ quan 
hành chính nhà nước. 
 Tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập 
Các đơn vị sự nghiệp công lập là các đơn vị thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội 
công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành 
kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này không nhằm mục tiêu lợi nhuận 
mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Với cách phân loại của GFS, thì các đơn vị sự 
nghiệp công lập chính là các thể chế phi lợi nhuận, phi thị trường. Các đơn vị này 
tham gia hoạt động ở tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. 
Trong quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta, người ta 
thường gọi tắt là các đơn vị sự nghiệp Văn - Xã và các đơn vị sự nghiệp kinh tế 
(nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông, thuỷ lợi). 
Do hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ yếu, ở các đơn vị sự nghiệp công 
lập số thu thường không lớn, không ổn định, hoặc không có thu. Do đó, sự hình 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 5 
thành nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập thường có sự xuất hiện của 
các nguồn: 
o Ngân sách nhà nước; 
o Đơn vị tự thu; 
o Nguồn khác. 
Cá biệt, có một số đơn vị sự nghiệp có số thu khá lớn, nhà nước có thể cho các đơn 
vị này áp dụng chế độ tài chính riêng. Với các dịch vụ kể trên, chi tiêu của các đơn 
vị này chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của nhà nước. 
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp công lập là thủ trưởng 
các đơn vị đó. 
Việc phân loại tài chính công theo chủ thể trực tiếp quản lý có thể phát huy tác 
dụng trên các giác độ sau: 
o Giúp cho người đọc có thể dễ dàng nhận thấy 
các cơ quan/đơn vị thuộc phạm vi của tài chính 
công và các cơ quan/đơn vị đó phải có trách 
nhiệm thực hiện tốt các nhiệm vụ quản lý tài 
chính công trong phạm vi được phân cấp; 
o Giúp người đọc tiếp cận với tài chính công một 
cách trực quan- là các pháp nhân đang hiện hữu 
tồn tại và hoạt động ngay trong đời sống kinh tế, xã hội hàng ngày, xóa đi cái 
cảm giác quá trừu tượng của tài chính công như diễn giải về lý thuyết; 
o Giúp cho “người sản xuất” và “người tiêu dùng” các hàng hóa công cộng nhận 
ra nhau dễ hơn, góp phần thúc đẩy sự phát huy quyền và nghĩa vụ của mỗi bên 
ngày một nâng cao. 
1.1.2.2. Theo nội dung quản lý 
Nếu phân loại tài chính công theo nội dung quản lý, thì có thể chia tài chính công 
thành các bộ phận: ngân sách nhà nước; tín dụng nhà nước; và các quỹ tài chính nhà 
nước ngoài ngân sách nhà nước. 
 Ngân sách nhà nước 
Ngân sách nhà nước là mắt khâu quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo trong tài 
chính công. Thu của ngân sách nhà nước được lấy từ mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội 
khác nhau, trong đó thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên tính cưỡng chế là chủ 
yếu. Chi tiêu của ngân sách nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại hoạt động của bộ 
máy nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Ngân sách nhà 
nước là một hệ thống bao gồm các cấp ngân sách phù hợp với hệ thống chính 
quyền nhà nước các cấp. Tương ứng với các cấp ngân sách, quỹ ngân sách nhà 
nước được chia thành: quỹ ngân sách của chính phủ Trung ương; quỹ ngân sách 
của chính quyền cấp tỉnh và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp 
huyện và tương đương; quỹ ngân sách của chính quyền cấp xã và tương đương. 
Phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền nhà nước các cấp, 
quỹ ngân sách lại được chia thành nhiều phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực 
khác nhau, như: phần dùng cho phát triển kinh tế; phần dùng cho phát triển văn 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
6 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
hoá, giáo dục, y tế; phần dùng cho hoạt động của các lĩnh vực xã hội, an ninh, 
quốc phòng 
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng ngân sách nhà nước là 
mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của nhà nước và không 
mang tính hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. 
 Tín dụng nhà nước 
Tín dụng nhà nước bao gồm cả hoạt động đi vay và cho vay của Nhà nước. Tín 
dụng nhà nước thường được sử dụng để hỗ trợ ngân sách nhà nước trong các 
trường hợp cần thiết. Thông qua hình thức tín dụng nhà nước, nhà nước động viên 
các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội 
nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn tài chính của các cấp chính quyền nhà nước trong 
việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, chủ yếu là thông qua việc 
cấp vốn thực hiện các chương trình cho vay dài hạn. Việc thu hút các nguồn tài 
chính tạm thời nhàn rỗi qua con đường tín dụng nhà nước được thực hiện bằng 
cách phát hành Trái phiếu chính phủ như: tín phiếu kho bạc nhà nước; trái phiếu 
kho bạc nhà nước; trái phiếu công trình (ở Việt 
Nam hiện có hình thức trái phiếu đô thị); công trái 
quốc gia (ở Việt Nam là công trái xây dựng Tổ 
quốc) trên thị trường tài chính. 
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và 
sử dụng quỹ tiền tệ qua hình thức tín dụng nhà 
nước là mang tính tự nguyện và có hoàn trả. 
 Các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước (gọi tắt là các quỹ ngoài 
ngân sách) 
Các quỹ ngoài ngân sách là các quỹ tiền tệ tập trung do nhà nước thành lập, quản 
lý và sử dụng nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc xử lý những biến động 
bất thường trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội và để hỗ trợ thêm cho ngân 
sách nhà nước trong trường hợp khó khăn về nguồn tài chính. 
Sự hình thành và phát triển các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách là nhu cầu 
cần thiết khách quan bắt nguồn từ chính yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô 
nền kinh tế. 
Sự ra đời và tồn tại của từng loại quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách tuỳ thuộc 
vào sự tồn tại các tình huống, các sự kiện kinh tế, xã hội. Khi các tình huống, sự 
kiện đó được giải quyết dứt điểm, trở lại trạng thái bình thường thì cũng là lúc 
từng loại quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách để giải quyết các tình huống, sự 
kiện đó cũng sẽ không còn lý do để tồn tại. Hiện nay ở Việt Nam hệ thống các quỹ 
tài chính nhà nước ngoài ngân sách đang được sắp xếp lại và bao gồm các quỹ chủ 
yếu sau: 
o Quỹ Dự trữ nhà nước (dưới hình thức hiện vật); 
o Quỹ Dự trữ tài chính ; 
o Quỹ Dự trữ ngoại hối (do ngân hàng nhà nước quản lý); 
o Quỹ Tích luỹ trả nợ nước ngoài; 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 7 
o Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm và quỹ Tín dụng đào tạo (hiện nay 2 quỹ này 
đã được sáp nhập vào ngân hàng chính sách xã hội); 
o Quỹ Phòng chống ma tuý; 
o Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam; 
o Quỹ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung 
ương (7 địa phương); 
o Quỹ Bảo hiểm xã hội (bao gồm cả quỹ Bảo hiểm y tế đã được sáp nhập); 
o Và một số quỹ khác. 
Ở các quốc gia khác nhau và ngay ở trong một quốc gia, trong các thời kỳ phát 
triển khác nhau, việc tổ chức bao nhiêu quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách 
nhà nước là không giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế – 
xã hội, trình độ quản lý tài chính công của các quốc gia trong các thời kỳ lịch sử 
nhất định. 
Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc tài chính công 
theo cơ chế nhiều quỹ thành quỹ ngân sách nhà 
nước và các quỹ ngoài ngân sách là phù hợp với 
việc thực hiện phân cấp, phân công quản lý kinh tế 
– xã hội của nhà nước. Điều đó đảm bảo phát huy 
tính tích cực, chủ động sáng tạo của các địa 
phương, các ngành, các đơn vị trong quản lý kinh 
tế, xã hội và là điều kiện thực hiện chuyên môn hoá lao động trong quản lý tài 
chính công đảm bảo cho việc quản lý đó được chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn. 
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng: 
o Do nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách đều 
có nguồn gốc (ít, hoặc nhiều) từ ngân sách nhà nước; nên tổ chức sao cho hợp 
lý số lượng và quy mô các quỹ ngoài ngân sách là điều cần được tính toán, cân 
nhắc nhằm tránh phân tán nguồn lực của tài chính công. 
o Các quỹ ngoài ngân sách không chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi Luật Ngân 
sách nhà nước mà được quản lý theo các quy định riêng vừa gây ra khó khăn 
cho hoạt động quản lý nhà nước đối với các quỹ, làm hạn chế tính đầy đủ, 
chính xác của việc phân tích đánh giá chi tiêu công, hạn chế tính minh bạch 
của ngân sách; vừa khó tránh khỏi sự trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của 
quỹ làm suy yếu tính hiệu quả của hệ thống quỹ trong việc phối hợp các quỹ 
ngoài ngân sách nhằm hỗ trợ ngân sách nhà nước giải quyết các mục ...  dù luôn đảm bảo quyền lợi cho tất cả mọi thành phần trong xã hội nhưng 
thường có xu hướng ưu tiên cho những người khó khăn. 
 Thứ ba, thông qua các cuộc vận động, các phong trào hỗ trợ. Các phong trào 
“toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “vì người nghèo”, các hoạt động 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
10 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
xã hội, từ thiện một mặt thể hiện tinh thần nhân ái, đoàn kết, giúp đỡ nhau của 
các tầng lớp nhân dân đồng thời cũng là sự phân chia lại thu nhập. Những khoản 
giúp đỡ người khó khăn của các doanh nghiệp thường được tính vào chi phí để 
giảm thuế, coi như là một sự khuyến khích của nhà nước đối với việc làm này. 
 Thứ tư, thông qua việc hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn, thuộc diện chính 
sách. Thời gian qua, việc miễn, giảm phí khám 
chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi hay hỗ trợ cho 
người già từ 80 tuổi trở lên; miễn, giảm học phí 
cho con em các hộ gia đình thuộc diện nghèo, 
hộ gia đình các xã đặc biệt khó khăn, kể cả việc 
hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo, trợ cấp cho 
các đối tượng khó khăn là những chính sách 
an sinh xã hội có ý nghĩa thiết thực, có tác dụng 
an dân sâu sắc. Trong điều kiện hiện nay, có thể mở rộng các đối tượng được 
hưởng trợ cấp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất, đồng thời tăng mức chi cho các 
đối tượng này. 
1.2.2. Chính phủ với việc khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn nhân 
lực công cộng 
 Hiệu quả Pareto 
Hiệu quả là gì? 
Hiệu quả là đưa ra một kết quả mong muốn với chi phí hoặc nỗ lực tối thiểu. Nói 
cách khác, không có nỗ lực hoặc chi phí nào bỏ ra một cách lãng phí, không mang 
lại kết quả hữu ích gì. 
Hiệu quả Pareto? 
Một sự phân bổ nguồn lực được gọi là đạt hiệu quả nếu như không có cách nào 
phân bổ lại các nguồn lực để làm cho ít nhất một người được lợi hơn mà không 
phải làm thiệt hại đến bất kì ai khác. 
Điều kiện đạt hiệu quả Pareto: 
MB = MC hoặc MBC = MSC 
MB: Lợi ích biên 
MC: Chi phí biên 
MSB: Lợi ích biên của xã hội 
MSC: Chi phí biên của xã hội 
 Hoàn thiện Pareto 
Nếu còn tồn tại một cách phân bổ lại các nguồn lực làm cho ít nhất một người 
được lợi hơn mà không làm thiệt hại đến ai khác thì cách phân bổ lại các nguồn 
lực đó là hoàn thiện Pareto so với cách phân bổ ban đầu. 
Nghĩa là: 
Với nguồn lực có hạn và điều kiện công nghệ khoa học kĩ thuật cho trước. 
Nếu ta tránh được lãng phí → Tăng thêm sản phẩm xã hôi → Có người được tiêu 
dùng thêm mà không ảnh hưởng đến người khác → Quá trình này dừng lại khi 
không còn sự lãng phí → tận dụng được tối đa nguồn lực. 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 11 
Tiêu chuẩn hiệu quả Pareto là dựa trên một quan điểm cho rằng, cá nhân phải được 
tự do theo đuổi lợi ích cá nhân, với điều kiện sự theo đuổi đó không làm phương 
hại đến lợi ích của người khác. 
1.2.3. Độc quyền, cạnh tranh và tác động của chính phủ 
1.2.3.1. Độc quyền thường 
 Khái niệm 
Độc quyền thường là trạng thái thị trường chỉ có 
duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm 
không có loại hàng hóa nào thay thế hoặc gần gũi. 
 Nguyên nhân xuất hiện 
o Chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường 
cho các hãng. 
o Chế độ bản quyền với phát minh sáng chế và sở 
hữu trí tuệ tạo cho người có bản quyền vị thế 
độc quyền trên thị trường. 
o Sở hữu nguồn lực đặc biệt: mang lại cho chủ sở hữu thế mạnh độc quyền trên 
thị trường. 
o Giảm chi phí khi sản xuất lớn 
 Tổn thất do độc quyền gây ra 
o Lũng đoạn thị trường: một nhóm các tổ chức hoặc cá nhân có thể can thiệp vào 
thị trường qua giá cả thị trường. 
o Ảnh hưởng tới phúc lợi xã hội. 
 Giải pháp 
o Luật chống độc quyền: ngăn cấm các hành vi nhất định hoặc hạn chế một số cơ 
cấu thị trường nhất định. 
o Đánh thuế, phạt để giảm bớt lợi nhuận siêu ngạch trong độc quyền. 
o Độc quyền nhà nước: bao gồm 2 loại: 
 Sở hữu nhà nước các doanh nghiệp độc quyền: thường áp dụng với các 
ngành trọng điểm quốc gia như khí đốt, điện năng 
 Kiểm soát nhà nước về giá cả và sản lượng của các hãng độc quyền: thường 
được áp dụng phổ biến. Mục đích là buộc hãng độc quyền bán ở mức giá 
cạnh tranh nhưng việc xác định mức giá này là không dễ dàng. Việc quyết 
định mức giá sai lầm có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt hàng hóa. 
1.2.3.2. Độc quyền tự nhiên 
 Khái niệm 
Là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá trình sản xuất cho phép doanh 
nghiệp có thể giảm liên tục chi phí sản xuất khi quy mô sản xuất mở rộng, do đó dẫn 
đến cách tổ chức sản xuất hiệu quả nhất là thông qua một hãng duy nhất. 
 Chiến lược điều tiết của chính phủ 
o Định giá bằng chi phí trung bình: 
Xăng dầu là hàng hóa 
độc quyền 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
12 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
Chi phí trung bình = ∑ Chi phí sản xuất/Sản lượng 
o Định giá hai phần: 
 Phần 1: Chi phí cố định bình quân. 
 Phần 2: Chi phí biên sản xuất thêm 1 đơn vị sản phẩm (MC) → thị trường 
sẽ có các mức giá khác nhau tương ứng với MC cho từng loại sản phẩm 
khác nhau. 
1.2.4. Những yếu tố ngoại sinh và tác động của chính phủ 
 Khái niệm 
Ngoại ứng là chi phí hoặc lợi ích mang lại cho bên thứ ba mà không được phản 
ánh vào giá cả thị trường (bên thứ ba là một đối tượng khác ngoài người mua và 
người bán). 
 Phân loại: 
o Ngoại ứng tích cực là những lợi ích mang lại 
cho bên thứ ba (không phải người mua và người 
bán) và phần lợi ích đó cũng không được phản 
ánh vào giá bán. 
Ví dụ: sự phát triển khoa học, công nghệ, kỹ 
thuật hiện đại áp dụng trong nông nghiệp mang 
lại ngoại ứng tích cực tăng năng suất sản xuất 
nông nghiệp. 
o Ngoại ứng tiêu cực là những chi phí áp đặt lên 
một đối tượng thứ ba (ngoài người mua và 
người bán trên thị trường) nhưng chi phí đó không được phản ánh trong giá cả 
thị trường. 
Ví dụ: các hiện tượng thiên tai tự nhiên như mưa axit, động đất gây ra các 
chi phí phát sinh bên ngoài. 
 Đặc điểm 
o Ngoại ứng do sản xuất và tiêu dùng gây ra: 
 Ngoại ứng sản xuất tích cực: các nhà máy lớn 
sử dụng hệ thống xử lý chất thải, năng lượng 
sạch bảo vệ môi trường. Ngược lại có những 
nhà máy sản xuất chất thải gây ô nhiễm môi 
trường (ngoại ứng sản xuất tiêu cực). 
 Ngoại ứng tiêu dùng tích cực: một cá nhân 
tiêu dùng một sản phẩm mà sự tiêu dùng này 
mang lại lợi ích cho những người xung 
quanh. Ngược lại một cá nhân hút thuốc lá 
gây hại đến sức khỏe những người xung 
quanh là một ngoại ứng tiêu dùng tiêu cực. 
 Máy móc tạo ra ngoại ứng tích 
cực trong nông nghiệp 
Khí thải tạo ra ngoại ứng tiêu 
cực cho môi trường và xã hội 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 13 
o Ai gây ra tác hại hay chịu tác hại chỉ mang tính tương đối: trong ngoại ứng 
người chịu tác động và gây ra tác động có thể được nhìn dưới nhiều góc độ 
khác nhau. Do đó, nó chỉ mang tính tương đối. 
o Ngoại ứng tích cực, tiêu cực chỉ mang tính tương đối: Cùng một ngoại ứng 
nhưng nó được đánh giá tốt hay xấu phụ thuộc vào quan điểm của người chịu 
tác động. 
o Tất cả các ngoại ứng đều phi hiệu quả: Do ngoại ứng gây ra tác động đến bên 
thứ ba nên nó gây ra chi phí phát sinh thêm → không đạt đến hiệu quả. 
 Giải pháp 
o Giải pháp ngoại ứng tiêu cực: 
 Hợp nhất, đàm phán: Trong trường hợp các bên có liên quan sát nhập với 
nhau cùng khai thác một nguồn lực chung. Tránh gây ra ngoại ứng. 
 Quy định quyền sở hữu: Định lý Coase cho rằng ngoại ứng bắt nguồn từ 
quyền sở hữu những nguồn lực được sử dụng chung không được quy định 
rõ ràng. Nếu chi phí đàm phán là không đáng kể thì có thể đưa ra một giải 
pháp hiệu quả đối với ngoại ứng bằng cách trao quyền sở hữu nguồn lực 
được sử dụng chung cho một bên nào đó và kết quả này không phụ thuộc 
vào bên nào nắm quyền sở hữu nguồn lực. 
 Dùng dư luận xã hội: Trong các trường hợp ngoại ứng có liên quan đến 
nhiều bên, không thể áp dụng biện pháp sát nhập, người ta sẽ dùng dư luận 
xã hội và những lề thói, tập tục xã hội có liên quan làm cho cá nhân lưu tâm 
đến ngoại ứng mà mình gây ra. 
 Đánh thuế (Thuế Pigou): là loại thuế đánh trên mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra 
của hãng gây ngoại ứng tiêu cực. Giá trị khoản thuế = chi phí ngoại ứng 
biên tại mức sản lượng tối ưu xã hội 
 t = MEC 
Tuy nhiên việc đánh thuế Pigou gặp khó khăn bởi việc xác định thuế suất 
là không dễ dàng. Người ta khắc phục bằng cách đánh thuế gián tiếp lên 
các hàng hóa bổ sung vào hoạt động gây ngoại ứng tiêu cực. 
 Trợ cấp 
Chính phủ có thể sử dụng trợ cấp để làm giảm ngoại ứng tiêu cực. Trong 
trường hợp chính phủ thực hiện trợ cấp cho các doanh nghiệp với mỗi đơn 
vị ngừng sản xuất sẽ được nhận một khoản trợ cấp. 
 Hạn mức xả thải, hạn mức gây ngoại ứng (áp dụng định lý Coase): chính 
phủ sẽ xác lập một quyền xả thải và bán trên thị trường. Các nhà máy phải 
đấu giá để mua giấy phép. Mức giá của giấy phép sẽ bằng với mức mà 
chính phủ mong muốn. Nhà máy nào không mua được hạn mức sẽ phải 
đóng cửa hoặc tìm kiếm công nghệ mới giảm xả chất thải. 
o Giải pháp với ngoại ứng tích cực 
 Trợ cấp: Trợ cấp Pigou là mức trợ cấp trên mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra của 
hãng tạo ra ngoại ứng tích cực, sao cho nó đúng bằng lợi ích ngoại ứng biên 
tại mức sản lượng tối đa xã hội. 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
14 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
→ Kết quả: làm mức giá người tiêu dùng phải trả giảm, mức giá người sản 
xuất được nhận tăng so với mức giá cân bằng trước trợ cấp. 
 Ngoài ra chính phủ có thể tiến hành giảm thuế hoặc cho không. 
1.2.5. Chính phủ với việc cung cấp và sử dụng các hàng hoá, dịch vụ công cộng 
 Khái niệm 
Những loại hàng hóa không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, việc một cá nhân 
này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người 
khác cũng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó. 
 Đặc điểm: 
Hàng hóa công cộng có 2 thuộc tính: 
o Không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng: tiêu dùng của một người không ảnh 
hưởng đển người khác. 
o Không có tính loại trừ người sử dụng: với cùng một loại hàng hóa công cộng 
tất cả người tiêu dùng đều có quyền sử dụng như nhau. 
Dựa vào đặc tính này của hàng hóa công cộng mà người ta phân loại hàng hóa 
công cộng ra thành các loại: 
o Hàng hóa công cộng thuần túy: đầy đủ cả 2 thuộc tính. 
o Hàng hóa công cộng không thuần túy: có thể thiếu 1 trong 2 thuộc tính. 
 Hàng hóa công cộng thuần túy 
o Thường do chính phủ cung cấp để đảm bảo sản lượng đạt được sản lượng hiệu 
quả trong phân bổ nguồn lực. 
o Không có tính cạnh tranh, mọi người đều được 
sử dụng → Chi phí biên để phục vụ thêm cho 
một cá nhân là bằng 0 (MC = 0). 
o Không có tính loại trừ, không có quyền loại trừ 
người sử dụng ra khỏi việc sử dụng → Chi phí 
biên của toàn xã hội MSC cố định, không đổi 
(trong giới hạn). 
o Chi phí biên để sản xuất thêm một đơn vị hàng 
hóa công cộng > 0. 
o Lợi ích biên của toàn xã hội = tổng lợi ích biên của các cá nhân tiêu dùng hàng 
hóa công cộng (MSB = ∑MBi). 
o Mang lại ngoại ứng tích cực → Là 1 dạng đặc biệt của ngoại ứng: một người 
tạo ra một hàng hóa mà tất cả người khác trong cộng đồng đều nhận được tác 
động tích cực của nó thì đã tạo ra hàng hóa công cộng thuần túy. 
o Đường cầu hàng hóa công cộng thuần túy ngược với đường cầu về hàng hóa tư 
nhân thuần túy. 
 Hàng hóa công cộng không thuần túy 
o Hàng hóa có thể định giá 
 Giống như hàng hóa cá nhân nhưng mang lại ngoại ứng tích cực. 
 Có thể định giá được ngoại ứng tích cực nó gây ra. 
 Công viên là hàng hóa công 
cộng thuần túy 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 15 
 Chi phí biên để sản xuất của toàn xã hội = tổng chi phí cá nhân. 
MSC = ∑MCi 
 Lợi ích biên của toàn xã hội = tổng lợi ích cá nhân thu được khi sử dụng 
hàng hóa + ngoại ứng tích cực từ việc sử dụng hàng hóa của cá nhân đó. 
MSB = ∑ (MBi + MEBi) 
MEB < MC: Nhà nước trợ cấp trợ giá. 
MEB > MC: Nhà nước cho không, miễn phí hoàn toàn. 
o Hàng hóa công cộng có tính giới hạn 
Là những hàng hóa mà khi có thêm nhiều người cùng sử dụng thì có thể gây 
tắc nghẽn khiến lợi ích của người tiêu dùng trước bị giảm sút. 
Khi vượt quá giới hạn, nhà nước sẽ tiến hành thu phí để đảm bảo lưu lượng tối 
ưu và hạn chế những người dùng không cần thiết. 
1.2.6. Chính phủ với việc cung cấp và sử dụng các hàng hoá khuyến dụng 
 Khái niệm 
Hàng hóa khuyến dụng là những loại hàng hóa hay dịch vụ mà việc tiêu dùng 
chúng có lợi cho cá nhân và xã hội nhưng cá nhân không tự nguyện tiêu dùng buộc 
chính phủ phải bắt buộc họ sử dụng. 
 Nguyên nhân 
Ngay cả khi có đầy đủ thông tin, người tiêu dùng vẫn có thể có những quyết định 
“tồi”. Mọi người vẫn tiếp tục hút thuốc mặc dầu hút thuốc có hại cho họ, và mặc 
dầu họ biết điều đó. Mọi người không chịu thắt dây an toàn, mặc dù biết rằng thắt 
dây sẽ tăng khả năng sống khi xảy ra tai nạn, và thậm chí biết được tác dụng của 
dây an toàn. Nhiều người vẫn tiếp tục mua ngũ cốc ăn sáng có nhiều đường, mặc 
dầu họ biết rằng nhiều vấn đề nghiêm trọng đã được đặt ra về giá trị dinh dưỡng 
của ngũ cốc đối với con cái họ. Có những người cho rằng chính phủ nên can thiệp 
vào những trường hợp này, khi mà các cá nhân không làm cái vì lợi ích tốt nhất 
của họ; loại can thiệp này là hành vi mạnh mẽ hơn việc chỉ đơn giản cung cấp 
thông tin – Giải pháp đưa ra đó là các bộ luật, các hình phạt. 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
16 TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 
Tóm lược cuối bài 
 Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do nhà nước tiến hành, nó phản 
ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công 
nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung 
của toàn xã hội. 
 Phân loại tài chính công theo nội dung quản lý, thì có thể chia tài chính công thành các bộ 
phận: ngân sách nhà nước; tín dụng nhà nước; và các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách 
nhà nước. Dựa trên giác độ chủ thể trực tiếp quản lý các quỹ tiền tệ của nhà nước có thể chia 
tài chính công thành các bộ phận: tài chính công tổng hợp; tài chính của các cơ quan hành 
chính nhà nước; tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập. 
 Chính phủ có 6 vai trò là: 
o Chính phủ với việc phân phối lại thu nhập và ổn định kinh tế vĩ mô; 
o Chính phủ với việc khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn nhân lực công cộng; 
o Độc quyền, cạnh tranh và tác động của chính phủ; 
o Những yếu tố ngoại sinh và tác động của chính phủ; 
o Chính phủ với việc cung cấp và sử dụng các hàng hoá, dịch vụ công cộng; 
o Chính phủ với việc cung cấp và sử dụng các hàng hoá khuyến dụng. 
 Bài 1: Tổng quan về tài chính công 
TXNHLT05_Bai 1_v1.0014110216 17 
Câu hỏi ôn tập 
1. Tài chính công là gì? 
2. Đặc điểm của tài chính công? 
3. Các cách phân loại tài chính công? 
4. Hệ thống quản lý tài chính công là gì? 
5. Các vai trò của chính phủ với tài chính công? 
6. Chính phủ thể hiện vai trò phân phối lại thu nhập trong xã hội như thế nào? 
7. Chính phủ phân bổ các nguồn lực xã hội theo cách nào? 
8. Độc quyền, ngoại ứng gây tốt thất gì cho xã hội? Giải pháp? 
9. Hàng hóa công cộng là gì? Giải pháp khuyến khích? 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_tai_chinh_cong_bai_1_tong_quan_ve_tai_chinh_cong.pdf