Bài giảng Sản phụ khoa 1 - Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai - Bài: Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi

Mục tiêu bài giảng

Sau khi học xong, sinh viên có khả năng:

1. Trình bày được các giai đoạn của sự phát triển noãn nang

2. Trình bày được quá trình sinh tổng hợp steroid sinh dục tại noãn nang và cơ chế 2 tế bào, 2 hormone

3. Trình bày được hoạt động chế tiết hormone của của hạ đồi, của tuyến yên và của buồng trứng

4. Trình bày được phản hồi âm của estrogen, phản hồi dương của estrogen và phản hồi âm của progesterone

5. Giải thích được cơ chế của một số ứng dụng phổ biến hay một số hiện tượng thường gặp trên trục hạ đồi-yên-buồng trứng

pdf 4 trang phuongnguyen 440
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Sản phụ khoa 1 - Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai - Bài: Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Sản phụ khoa 1 - Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai - Bài: Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi

Bài giảng Sản phụ khoa 1 - Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai - Bài: Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi
Tín chỉ Sản Phụ khoa 1 Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai 
Bài giảng trực tuyến Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi 
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền 1 
Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai 
Sự phát triển noãn nang. Sinh tổng hợp steroid sinh dục. 
Trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi. 
Đỗ Thị Ngọc Mỹ 1, Âu Nhựt Luân 2 
Mục tiêu bài giảng 
Sau khi học xong, sinh viên có khả năng: 
1. Trình bày được các giai đoạn của sự phát triển noãn nang 
2. Trình bày được quá trình sinh tổng hợp steroid sinh dục tại noãn nang và cơ chế 2 tế bào, 2 hormone 
3. Trình bày được hoạt động chế tiết hormone của của hạ đồi, của tuyến yên và của buồng trứng 
4. Trình bày được phản hồi âm của estrogen, phản hồi dương của estrogen và phản hồi âm của progesterone 
5. Giải thích được cơ chế của một số ứng dụng phổ biến hay một số hiện tượng thường gặp trên trục hạ đồi-yên-buồng trứng 
Noãn bào được dự trữ tại buồng trứng dưới dạng các phức bộ noãn nguyên thủy. Các phức bộ này đều ở trạng thái nghỉ. 
Trong thời kỳ sơ khai của buồng trứng, các noãn nguyên bào (oogonia) di chuyển từ bên ngoài đến buồng trứng và trú đóng ở đó. 
Tại buồng trứng, chúng thực hiện phân bào nguyên nhiễm để tự gia tăng về số lượng. Mỗi noãn nguyên bào sẽ được bao bọc bởi 
vài tế bào tùy hành có nguồn gốc từ phúc mạc nguyên thủy và trung mô. Phức bộ gồm tế bào sinh dục nguyên thủy và các tế bào 
tùy hành được gọi là các nang noãn nguyên thủy (primordial follicle). Cuối thời kỳ này, khi vẫn còn trong giai đoạn phôi, số 
lượng của các nang noãn nguyên thủy đã đạt được đến nhiều triệu. Đột nhiên, toàn bộ các tế bào nguồn dòng sinh dục đều ngưng 
phân chia nguyên nhiễm, đồng thời đi vào phân bào giảm nhiễm thứ nhất. Phân bào giảm nhiễm diễn ra rất chậm chạp. Đến giữa 
thai kỳ, đột nhiên phân bào giảm nhiễm đồng loạt bị ngưng trệ tại mọi noãn nguyên bào. Các nang noãn nguyên thủy đồng loạt đi 
vào trạng thái nghỉ, đến khi được chiêu mộ trở lại sau này. 
Trong mỗi chu kỳ buồng trứng, chỉ có một số ít nang nguyên thủy được chiêu mộ vào tiến trình phát triển noãn nang. Quá 
trình này không lệ thuộc vào các hormone ngoại vi lưu hành. 
Khi bé gái dậy thì, định kỳ một lần mỗi khoảng 30 ngày, ước chừng có 102 noãn nguyên thủy sẽ được chiêu mộ vào chu kỳ buồng 
trứng. Hiện tượng chiêu mộ chỉ chịu tác dụng của các yếu tố nội tiết lân cận (paracrine) hay tự thân (autocrine), mà không chịu 
tác động của các hormone lưu hành trong máu ngoại vi. Một trong các yếu tố này là anti-mullerian hormone, có nguồn gốc từ các 
tế bào tùy hành của các phức bộ lân cận. Các phức bộ noãn nguyên thủy được chiêu mộ tiếp tục tiến trình giảm phân đã bị đình trệ 
trước đó, chuẩn bị cho việc tạo thành giao tử (gamete). Lúc này, chúng được gọi là các nang noãn sơ cấp (primary follicle). 
Hạ đồi phóng thích các xung GnRH vào hệ thống mạch cửa hạ đồi-yên, làm tuyến yên sản xuất các gonadotropin. 
Hạ đồi là cơ quan cao nhất của trục hạ đồi-yên-buồng trứng. Nhân cung (Arcuate), một nhân xám hạ đồi, định kỳ phóng thích các 
xung Gonadotropin Releasing Hormone (GnRH) vào hệ thống mạch cửa nối hạ đồi và tuyến yên. Dưới ảnh hưởng của các xung 
GnRH, tuyến yên đáp ứng bằng cách chế tiết 2 hormone hướng sinh dục (gonadotropin) là Follicle Stimulating Hormone (FSH) 
và Luteinizing Hormone (LH). Tùy tần số của xung GnRH mà tuyến yên đáp ứng khác nhau, với ưu thế FSH hay ưu thế LH. 
Các gonadotropin chỉ tác động trên các nang noãn thứ cấp, do các nang noãn này đã có thụ thể với gonadotropin trên các tế 
bào tùy hành. Gonadotropin là động lực thúc đẩy sự phát triển noãn nang thứ cấp. 
Phần lớn các noãn sơ cấp sẽ thoái triển. Sau 60 ngày, chỉ còn lại khoảng 10 trong số chúng là đến được giai đoạn kế tiếp. Lúc này, 
các noãn bào vẫn tiếp tục một cách chậm rãi phân bào giảm nhiễm, và được bao bọc bởi, lần lượt từ ngoài vào trong, là các tế bào 
vỏ (theca cell) và các tế bào hạt (granulosa cell). Các nang noãn ở giai đoạn này được gọi là các nang thứ cấp (secondary follicle). 
Trên bề mặt của tế bào vỏ có thụ thể với LH, và trên bề mặt của tế bào hạt có thụ thể với FSH. Các tế bào này bắt giữ các 
gonadotropin, để phát triển tăng về số lượng, tạo nên sự phát triển của các nang thứ cấp. Tại các nang thứ cấp đang phát triển, các 
noãn bào vẫn tiếp tục một cách chậm rãi phân bào giảm nhiễm. Trong khi đó, dưới tác động của gonadotropin, các tế bào tùy hành 
phân chia nguyên nhiễm, đồng thời tổng hợp thụ thể với gonadotropin, làm cho chúng ngày càng nhạy với gonadotropin hơn. 
Dưới tác động của gonadotropin, nang thứ cấp phát triển và chế tiết steroid sinh dục. Dưới tác dụng của LH, tế bào vỏ sản 
xuất androgen. Dưới tác dụng của FSH, tế bào hạt sản xuất estrogen. Các nang thứ cấp phát triển không đồng bộ. 
Dưới tác dụng của LH, tế bào vỏ tổng hợp androstenedione từ cholesterol. Androstenedione từ tế bào vỏ được chuyển đến các tế 
bào hạt ở phía trong của noãn nang, tại đó nó được thơm hóa (aromatisation) thành estrone (E1) nhờ men aromatase P450, dưới tác 
động của FSH. Estrone sẽ chuyển đổi thành estradiol (E2). Estradiol từ tế bào hạt sẽ lưu hành trong máu ngoại vi và tác động lên 
cơ quan đích. Nang noãn càng phát triển thì tổng khối tế bào hạt càng tăng nhanh, làm nồng độ estradiol huyết thanh tăng dần. 
Tuy nhiên, do mỗi nang thứ cấp có số lượng thụ thể với LH và FSH khác nhau, nên khả năng bắt giữ gonadotropin và phát triển 
của các nang thứ cấp là không giống nhau. Hiện tượng này tạo ra một sự không đồng bộ trong phát triển của các nang thứ cấp. 
1 Giảng viên, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: [email protected] 
2 Giảng viên, Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. e-mail: [email protected] 
Tín chỉ Sản Phụ khoa 1 Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai 
Bài giảng trực tuyến Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi 
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền 2 
Do các nang thứ cấp không sở hữu như nhau lượng thụ thể với gonadotropin, nên khả năng phát triển của chúng khác nhau. 
Một số ít nang thứ cấp nào sở hữu nhiều thụ thể với gonadotropin hơn sẽ bắt giữ gonadotropin dễ dàng hơn, phát triển tổng khối tế 
bào tùy hành tốt hơn và tự tổng hợp ra nhiều thụ thể với gonadotropin hơn, làm cho chúng càng có khả năng bắt giữ gonadotropin 
tốt hơn nữa. Đa số các nang thứ cấp còn lại sở hữu ít thụ thể với gonadopin hơn, do đó ít có cơ hội bắt giữ gonadotropin, gây hệ 
quả là chúng không phát triển được khối tế bào tùy hành, và không tổng hợp thêm được thụ thể mới với gonadotropin, làm cho 
chúng càng khó có cơ hội bắt thêm gonadotropin để tiếp tục phát triển. 
Nồng độ tăng dần của estradiol lưu hành trong máu ngoại vi phát khởi phản hồi âm, ức chế tuyến yên sản xuất FSH. 
Phát triển của các nang thứ cấp tạo nên sự tăng của nồng độ estradiol. Sự tăng nồng độ estradiol gây nên một phản hồi âm 
(negative feedback) trên tuyến yên, và ức chế hoạt động sản xuất FSH của tuyến yên. Đây là phản hồi thứ nhất của estradiol. Nồng 
độ estradiol càng cao thì phản hồi càng mạnh, FSH càng xuống thấp. Nồng độ FSH giảm dần, và biến thiên theo chiều nghịch với 
sự tăng của estradiol. Hệ quả của tình trạng này là tất cả các nang noãn thứ cấp đang phát triển phải đối mặt với sự thiếu hụt FSH. 
Sự thiếu hụt FSH lưu hành là động lực của sự chọn lọc noãn nang. Chỉ có một nang noãn tốt nhất phát triển đến cùng. 
Trong bối cảnh của sự thiếu hụt toàn thể về FSH, các nang noãn thứ cấp nào có sự phát triển tốt hơn, có nhiều tế bào hạt hơn, 
đồng nghĩa với có nhiều thụ thể và khả năng bắt giữ FSH tốt hơn sẽ thu gom dễ dàng các phân tử FSH hiếm hoi còn lưu hành để 
tiếp tục phát triển. Trong khi đó, với các nang thứ cấp còn lại, do chúng sở hữu rất ít tế bào hạt và rất ít thụ thể với FSH, nên 
chúng sẽ không thể cạnh tranh được về khả năng bắt giữ các phân tử FSH hiếm hoi còn lại. Như vậy tình trạng thiếu hụt FSH, kết 
quả của phản hồi âm của estradiol, là động lực của sự chọn lọc noãn nang. Các nang thứ cấp nào đã phát triển tốt sẽ phát triển 
ngày càng tốt hơn. Các nang thứ cấp nào đã phát triển kém thì ngày càng kém hơn và đi vào thoái triển. Sự cạnh tranh trở nên 
ngày càng khốc liệt, khi các nang thứ cấp lớn sản sinh càng nhiều estradiol, làm cho lượng FSH trở về mức cực thấp. Cuối cùng, 
chỉ có một nang noãn tốt nhất, sở hữu nhiều tế bào tùy hành nhất, có nhiều thụ thể với gonadotropin nhất, sản xuất được nhiều 
estradiol nhất mới có cơ hội phát triển đến tận cùng, gọi là nang trưởng thành (nang de Graaf). 
Nang de Graaf là nang noãn sẵn sàng để phóng noãn. 
Nang de Graaf được tạo thành bởi noãn bào và các tế bào tùy hành. Noãn bào lúc này vẫn còn đang chậm chạp trong tiền kỳ của 
phân bào thứ nhất của phân bào giảm nhiễm. Các tế bào hạt vẫn đang phân chia mãnh liệt theo cấp số nhân dưới ảnh hưởng của 
lượng FSH dồi dào mà nang de Graaf đã tước đoạt được từ máu ngoại vi. Các tế bào vỏ phát triển mạnh và chứa đầy các thụ thể 
với LH, cung cấp androgen cho tế bào hạt. Tổng khối tế bào hạt dồi dào đảm bảo cho nang de Graaf tiếp tục sản xuất ra một khối 
lượng lớn estradiol, đẩy nồng độ estradiol lên cao, vượt một nồng độ ngưỡng, trong một thời gian đủ dài. 
Nồng độ estradiol vượt ngưỡng trong thời gian đủ dài, kích hoạt phản hồi dương, tạo đỉnh LH, gây trưởng thành noãn bào. 
Nồng độ vượt ngưỡng trong thời gian dài này là một minh chứng cho thấy nang noãn này là một nang tốt nhất, đáp ứng các điều 
kiện cho quá trình phóng noãn, thụ tinh, làm tổ và mang thai. Khi đó, estradiol gây ra một phản hồi thứ nhì trên tuyến yên. Đây là 
một phản hồi dương (positive feedback). Trong phản hồi này, tuyến yên sẽ đáp ứng bằng cách phóng thích một lượng lớn LH, 
trong một thời gian rất ngắn, tạo một đỉnh cao của LH trong máu ngoại vi. Dưới ảnh hưởng của đỉnh LH, noãn bào nhanh chóng 
hoàn thành phân bào thứ nhất của phân bào giảm nhiễm, ngay sau đó đi vào phân bào thứ nhì của phần bào giảm nhiễm. 36 giờ 
sau khi xuất hiện đỉnh LH, noãn bào đã đi đến tiến kỳ (metaphase) của phân bào thứ nhì của phân bào giảm nhiễm. Tiến trình 
trưởng thành cuối cùng của noãn bào đã hoàn tất. Phân bào giảm nhiễm sẽ dừng lại ở kỳ này, cho đến khi nó được một tinh trùng 
xâm nhập. Sau đỉnh LH, tiến trình phân bào nguyên nhiễm tại các tế bào hạt sẽ dừng lại. Các tế bào hạt ở quanh nang noãn sẽ tách 
khỏi các tế bào hạt còn lại, và cùng với noãn bào tạo ra một cấu trúc sẵn sàng rời khỏi buồng trứng, được gọi là đám mây noãn 
bào (cumulus oophora). Bề mặt buồng trứng nơi có nang noãn cũng mỏng dần. Cuối cùng, nang noãn sẽ bị vỡ và phóng thích 
cumulus oophora. Như vậy, kết quả của phản hồi thứ nhì của estradiol là đỉnh LH tiền phóng noãn. 
Hoàng thể được thành lập từ khối tế bào hạt và tế bào vỏ còn lại trên buồng trứng, bắt đầu chế tiết progesterone. 
Sau khi đã vỡ và phóng thích cumulus oophora, phần còn lại của noãn nang co cụm lại. Các mạch máu xâm nhập vào các tế bào 
bên trong của cấu trúc nang noãn trước đây, cung cấp cholesterol cho chúng và biến chúng thành một cấu trúc mới gọi là hoàng 
thể (corpus luteum). Hoàng thể được tạo lập và được duy trì nhờ LH của tuyến yên. Về phương diện nội tiết, hoàng thể tiếp tục 
sản xuất estradiol, nhưng quan trọng nhất là một steroid sinh dục mới, đặc hữu của hoàng thể: progesterone. Progesterone là 
steroid sinh dục có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị tiếp nhận trứng đã được thụ tinh và duy trì thai kỳ. 
Nồng độ progesterone tăng cao dần, tạo ra một phản hồi âm trên hạ đồi và tuyến yên, ức chế sản xuất LH. 
Dưới tác dụng của LH, các tế bào hoàng thể chế tiết estradiol và progesterone. Sản xuất steroid sinh dục của hoàng thể đạt đến 
đỉnh cao vào khoảng 7 ngày sau phóng noãn. Nồng độ progesterone cao trong máu ngoại vi gây ra một phản hồi âm, ức chế lên 
các tầng trên của trục. Trên hạ đồi, progesterone làm giảm nhịp điệu của các xung GnRH. Do suy giảm kích thích, sản xuất LH 
của tuyến yên bị sút giảm. 
Sút giảm LH dẫn đến sự tiêu vong của hoàng thể, chấm dứt chế tiết steroid sinh dục và chấm dứt một chu kỳ buồng trứng. 
Do không còn được nuôi dưỡng bởi LH, hoàng thể sẽ dần dần đi vào thoái triển, để lại một sẹo trên buồng trứng, gọi là bạch thể 
(corpus albicans). Một chu kỳ phát triển của nang noãn tại buồng trứng đã chấm dứt. Hoàng thể thoái triển không còn sản xuất 
steroid sinh dục nữa, tạo ra một sự sút giảm của cả estradiol và progesterone trong máu ngoại vi. Sự sút giảm của nồng độ các 
steroid sinh dục giải phóng trục hạ đồi-tuyến yên khỏi các ràng buộc của chu kỳ buồng trứng trước và sẵn sàng cho một chu kỳ 
buồng trứng mới. 
Tín chỉ Sản Phụ khoa 1 Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai 
Bài giảng trực tuyến Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi 
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền 3 
Hình 1: Phát triển noãn nang trong chu kỳ buồng trứng 
Primordial follicle : Nang nguyên thủy 
Early primary follicle : Nang sơ cấp sớm 
Late primary follicle : Nang sơ cấp muộn 
Secondary follicle : Nang thứ cấp 
Graafian follicle : Nang trưởng thành (nang de Graaf) 
Rupturing follicle : Nang noãn đang phóng noãn 
Corpus luteum : Hoàng thể 
Corpus albicans : Bạch thể 
Hình 2: Biến động các hormone tuyến yên và steroid sinh dục trong 
chu kỳ buồng trứng 
Phần giữa của hình trình bày các giai đoạn phát triển của noãn nang tại 
buồng trứng. 
Phần dưới của hình cho thấy biến động các steroid sinh dục song hành 
với phát triển noãn nang. 
Phần trên của hình cho thấy biến động của các gonadotropin song hành 
với biến thiên của các steroid sinh dục và cho thấy rõ diễn biến của các 
phản hồi của steroid sinh dục trên trục hạ đồi-tuyến yên. Ghi nhận sự 
giải phóng hoàn toàn của trục hạ đồi-yên đầu chu kỳ, khi tuyến yên 
không còn chịu tác dụng của các phản hồi gây bởi steroid sinh dục. 
Hình 3: Mỗi chu kỳ buồng trứng dài 90-120 ngày, nhưng 
trong đó chỉ có 30 ngày cuối là có các biểu hiện bên ngoài để 
có thể quan sát được. Như vậy, các chu kỳ buồng trứng lần 
lượt xảy ra và có sự chồng lên nhau trong 60-90 ngày đầu 
Mỗi chu kỳ buồng trứng có độ dài 90-120 ngày, kể từ khi nang 
noãn nguyên thủy được chiêu mộ cho đến khi nó thoái hóa 
thành bạch thể. Như vậy, tại mỗi thời điểm nhất định, song 
song xảy ra 3-4 chu kỳ buồng trứng khác nhau. Một chu kỳ 
đang ở trong 30 ngày cuối cùng, đang chịu tác động của các 
gonadotropin và đang sản xuất steroid sinh dục, với những 
thay đổi về hình thái và nội tiết mà ta thấy được. Một chu kỳ 
khác gồm các noãn nang vừa được chiêu mộ, không có những 
thay đổi về hình thái và nội tiết nhìn thấy được. (Các) chu kỳ 
còn lại đang ở trong khoảng giữa của tiến trình, và sẽ được 
nhìn thấy ngay sau khi chu kỳ đang được thấy bị kết thúc. 
Hình 4: Sinh tổng hợp các steroid sinh dục. Cơ chế 2 tế bào, 2 hormone 
Tại noãn nang, tế bào vỏ sở hữu các thụ thể với LH. Chúng bắt giữ LH và phát triển, sinh tổng hợp 
androstenedione từ cholesterol. Một phần androstenedione được sản xuất ra sẽ đi vào máu ngoại vi, là 
nguồn cung cấp androgen lưu hành ở người nữ. Một phần quan trọng của androstenedione sẽ được 
chuyển đến các tế bào hạt, ở phía bên trong của noãn nang. 
Các tế bào hạt này sẽ dùng androstenedione làm nguyên liệu cho quá trình tổng hợp estrogen. Hoạt 
động của tế bào hạt được đảm bảo bởi FSH. Dưới tác động của FSH, tế bào hạt thực hiện quá trình 
sinh tổng hợp estrogen bằng cách thơm hóa androstenedione bằng cách dùng men thơm hóa 
aromatase P450. Sản phẩm của quá trình thơm hóa là Estrone (E1), sẽ được biến chuyển thuận nghịch 
sang estradiol (E2), có hoạt tính nhiều lần mạnh hơn estrone. Estradiol là estrogen chủ lực trong hoạt 
động sinh sản của người nữ. 
Tín chỉ Sản Phụ khoa 1 Bài Team-Based Learning 4-1: Buồng trứng, noãn bào, phôi và thai 
Bài giảng trực tuyến Sinh lý buồng trứng, sự phát triển noãn nang, sinh tổng hợp steroid sinh dục, trục hạ đồi-yên-buồng trứng và các phản hồi 
© Bộ môn Phụ Sản, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tác giả giữ bản quyền 4 
Ứng dụng 
Hãy dùng các hiểu biết về sinh lý chu kỳ buồng trứng và các phản hồi để giải thích các hiện tượng hay các ứng dụng sau: 
Tình huống thứ nhất: Vô kinh do tổn thương vùng hạ đồi 
Một thiếu nữ đến khám vì không thấy có hành kinh dù cô đã được 18 tuổi. Cô được chẩn đoán là vô kinh do suy hạ đồi. 
Hãy giải thích hoạt động của trục hạ đồi-yên, sau khi trả lời các câu hỏi dưới đây, bằng cách đánh dấu (x) vào ô tương ứng. 
Kết quả khảo sát nồng độ GnRH trong hệ mạch cửa hạ đồi-yên: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ FSH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ LH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ estradiol trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ progesterone trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát hiện diện của nang noãn de Graaf trên buồng trứng: Có □ Không □ 
Tình huống thứ nhì: Vô kinh do không có buồng trứng 
Một thiếu nữ đến khám vì không thấy có hành kinh dù cô đã được 18 tuổi. Cô được chẩn đoán là suy buồng trứng do hội chứng 
Turner 46,XO. Siêu âm thấy cô không có cả hai buồng trứng. Biết rằng cô ta không có bệnh lý của hạ đồi và tuyến yên. 
Hãy giải thích hoạt động của trục hạ đồi-yên, sau khi trả lời các câu hỏi dưới đây, bằng cách đánh dấu (x) vào ô tương ứng. 
Kết quả khảo sát hiện diện của nang noãn de Graaf trên buồng trứng: Có □ Không □ 
Kết quả khảo sát nồng độ estradiol trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ progesterone trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ FSH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ LH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Tình huống thứ ba: Dùng thuốc tránh thai 
Một phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai uống liên tục, hàng ngày. Thành phần của viên thuốc gồm ethinyl estradiol (một estradiol 
tổng hợp có hoạt tính mạnh hơn estradiol) và progestogen (một phân tử có hoạt tính giống progesterone nhưng mạnh hơn). 
Hãy giải thích cơ chế tác dụng tránh thai của thuốc, sau khi trả lời các câu hỏi dưới đây, bằng cách đánh dấu (x) vào ô tương ứng. 
Kết quả khảo sát nồng độ FSH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ LH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát hiện diện của nang noãn thứ cấp trên buồng trứng: Có □ Không □ 
Kết quả khảo sát hiện diện của nang noãn de Graaf trên buồng trứng: Có □ Không □ 
Tình huống thứ tư: Điều trị ung thư vú bằng chất ức chế men aromatase P450 
Ung thư vú là một ung thư lệ thuộc estrogen. Chất ức chế men aromatase P450 thường được dùng để điều trị ung thư vú. 
Hãy giải thích nguyên lý của điều trị trên sau khi trả lời các câu hỏi dưới đây, bằng cách đánh dấu (x) vào ô tương ứng. 
Kết quả khảo sát nồng độ estradiol trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ androgen trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát nồng độ FSH trong máu ngoại vi: Cao □ Thấp □ 
Kết quả khảo sát hiện diện của nang noãn thứ cấp trên buồng trứng: Có □ Không □ 
Kết quả khảo sát hiện diện của nang noãn de Graaf trên buồng trứng: Có □ Không □ 
Các câu hỏi vận dụng khác 
5. Trong thụ tinh trong ống nghiệm, chất đối kháng với GnRH được dùng để ngăn phóng noãn sớm. Hãy giải thích cơ chế. 
6. Các chất tương tự GnRH được dùng với liều thật cao một lần duy nhất để gây phóng noãn. Hãy giải thích cơ chế. 
7. Các chất điều hòa chọn lọc thụ thể progesterone (Selective Progesterone Receptor Modulator - SPRM) là một nhóm chất 
tương tự với progesterone, có thể gây tiêu hủy hoàng thể. Người ta dùng nó với mục đích tránh thai. Hãy giải thích cơ chế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TÀI LIỆU ĐỌC THÊM 
1. Yen & Jaffe's reproductive endocrinology, 6th edition. Tác giả Jerome F. Strauss III và Robert L. Barbieri. Nhà xuất bản Saunders Elsevier 2010. 
2. Obstetrics and gynecology 7th edition. Tác giả Beckmann. Hợp tác xuất bản với ACOG. Nhà xuất bản Wolters Kluwer Health 2014. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_san_phu_khoa_1_bai_sinh_ly_buong_trung_su_phat_tri.pdf