Bài giảng Rối loạn vận động do thuốc

TÓM TẮT

 Nhiều thuốc điều trị và chất gây nghiện sử dụng bất hợp pháp có thể

gây rối loạn vận động. Trong đó, phổ biến nhất là các thuốc chống

loạn thần và thuốc chống nôn.

 Rối loạn vận động có thể khởi phát cấp tính, bán cấp hoặc hay muộn,

với mức độ từ nhẹ đến nặng, thậm chí đe dọa tính mạng.

 Việc nhận biết sớm rối loạn vận động do thuốc đóng vai trò quan trọng

giúp tiến hành kịp thời các biện pháp xử trí, bao gồm ngừng thuốc

nghi ngờ, chăm sóc hỗ trợ và sử dụng thuốc điều trị trong một số

trường hợp.

pdf 20 trang phuongnguyen 6900
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Rối loạn vận động do thuốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Rối loạn vận động do thuốc

Bài giảng Rối loạn vận động do thuốc
Môc lôc 
Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình 
Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh 
Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy 
ThS. Đặng Bích Việt 
DS. Lương Anh Tùng 
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - 
Trường Đại học Dược Hà Nội. 
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 
RèI LO¹N VËN §éNG DO THUèC 1 
T¹P CHÊT NITROSAMIN: TæNG HîP 
MéT Sè VÊN §Ò CÇN L¦U ý 
Tõ TH¤NG TIN CñA C¸C THUèC 
BÞ THU HåI 
8 
TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O 
PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC 
(tõ th¸ng 11/2018 ®Õn 
th¸ng 7/2019) 
11 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC 15 
Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến  
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 1 
RèI LO¹N VËN §éNG DO THUèC 
Nguồn: Aust Prescr 2019;42:56-61 
Người dịch: Võ Thị Thùy, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lương Anh Tùng 
TÓM TẮT 
 Nhiều thuốc điều trị và chất gây nghiện sử dụng bất hợp pháp có thể 
gây rối loạn vận động. Trong đó, phổ biến nhất là các thuốc chống 
loạn thần và thuốc chống nôn. 
 Rối loạn vận động có thể khởi phát cấp tính, bán cấp hoặc hay muộn, 
với mức độ từ nhẹ đến nặng, thậm chí đe dọa tính mạng. 
 Việc nhận biết sớm rối loạn vận động do thuốc đóng vai trò quan trọng 
giúp tiến hành kịp thời các biện pháp xử trí, bao gồm ngừng thuốc 
nghi ngờ, chăm sóc hỗ trợ và sử dụng thuốc điều trị trong một số 
trường hợp. 
GIỚI THIỆU 
Cả thuốc điều trị và các chất gây 
nghiện sử dụng bất hợp pháp đều có 
thể gây ra các phản ứng có hại trên 
thần kinh, trong đó có rối loạn vận 
động. Nhóm thuốc phổ biến gây rối 
loạn vận động là các thuốc ức chế thụ 
thể dopamin, bao gồm thuốc chống 
loạn thần và thuốc chống nôn (bảng 
1). Các rối loạn có thể ở mức độ nhẹ 
(như run) đến các hội chứng nặng, đe 
dọa tính mạng. Dựa trên thời gian 
khởi phát, có thể phân loại các rối 
loạn vận động thành 3 loại: Cấp tính, 
bán cấp và muộn. 
CÁC RỐI LOẠN CẤP TÍNH 
Rối loạn vận động cấp tính có thể 
xảy ra trong vài phút đến vài ngày sau 
khi dùng thuốc, bao gồm chứng nằm 
ngồi không yên, run, hội chứng an 
thần kinh ác tính, hội chứng serotonin, 
rối loạn tăng thân nhiệt kiểu Parkinson 
và rối loạn trương lực cơ cấp. 
Nằm ngồi không yên 
Chứng nằm ngồi không yên 
(akathisia) là rối loạn vận động khá 
phổ biến, nhưng thường bị xem nhẹ. 
Chứng này có thể xảy ra cấp tính, bán 
cấp hoặc muộn, với các biểu hiện bao 
gồm cảm giác bồn chồn, dễ bị kích 
thích, căng thẳng, nhưng không nhất 
thiết phải thể hiện thành các dấu hiệu 
thực thể. Nằm ngồi không yên khác 
với hội chứng chân không nghỉ 
(restless leg syndrome) thường có 
mức độ nghiêm trọng hơn và các biểu 
hiện thường nặng hơn về đêm. Các 
thuốc đã được ghi nhận liên quan đến 
chứng nằm ngồi không yên bao gồm 
thuốc ức chế thụ thể dopamin, thuốc 
ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin 
(SSRI), thuốc chống động kinh và 
cocain. Phản ứng có hại này có thể 
xảy ra sau khi bắt đầu sử dụng thuốc 
ức chế thụ thể dopamin, tăng liều 
hoặc chuyển sang dùng thuốc thay 
thế. 
Chứng nằm ngồi không yên thường 
cải thiện sau khi ngừng thuốc nghi 
ngờ. Các nhóm thuốc đã được sử 
dụng để xử trí phản ứng này bao gồm 
thuốc kháng cholinergic, thuốc chẹn 
beta, các benzodiazepin, mantadin, 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 
Bảng 1: Rối loạn vận động do thuốc 
Rối loạn vận động Thuốc gây ra 
Nằm ngồi không 
yên 
Thuốc ức chế thụ thể dopamin 
Thuốc ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI) 
Thuốc chống động kinh 
Run SSRI 
Lithi 
Thuốc chống trầm cảm ba vòng 
Thuốc chống động kinh (như valproat) 
Thuốc giãn phế quản 
Amiodaron 
Thuốc ức chế miễn dịch (tacrolimus, ciclosporin) 
Hội chứng serotonin 
(thường do quá liều 
hoặc dùng đồng 
thời nhiều thuốc 
kích thích 
serotoninergic) 
SSRI 
Thuốc ức chế tái thu hồi serotonin-noradrenalin (SNRI) 
Thuốc chống trầm cảm ba vòng 
Lithi 
Linezolid 
Opioid (pethidin, tramadol, propentadol) 
Thuốc chống động kinh (valproat, lamotrigin) 
Cỏ thánh John 
Loạn trương lực cơ 
cấp tính 
Thuốc ức chế thụ thể dopamin (ví dụ: thuốc chống loạn thần, 
metoclopramid) 
SSRI 
Opioid 
Methylphenidat 
Rivastigmin 
Albendazol 
Gabapentin 
Cetirizin 
Foscarnet 
Quinin 
Propofol 
Sevofluran 
Hội chứng an thần 
kinh ác tính 
Thuốc chống loạn thần (như haloperidol, fluphenazin, clorpromazin) 
Procloperazin 
Metoclopramid 
Droperidol 
Promethazin 
Tetrabenazin 
Lithi 
Hội chứng 
Parkinson 
Thuốc ức chế thụ thể dopamin (ví dụ: thuốc chống loạn thần) 
Thuốc chẹn kênh calci (ví dụ: flunarizin, cinnarizin) 
Thuốc chống động kinh (như phenytoin, valproat, levetiracetam) 
Thuốc chống trầm cảm (SSRI, thuốc ức chế monoamin oxidase) 
Lithi 
Hóa trị liệu (ví dụ: cytosin arabinosid, cyclophosphamid, vincristin, 
adriamycin, doxorubicin, paclitaxel, etoposid) 
Thuốc ức chế miễn dịch (ví dụ: ciclosporin, tacrolimus) 
Chất độc (ví dụ: 1-methyl-4-phenyl-1,2,3,6-tetrahydropyridin 
(MPTP), thuốc trừ sâu phospho hữu cơ, mangan, methanol, cyanid, 
carbon monoxid, carbon disulfit) 
Rối loạn vận động 
muộn do thuốc 
Thuốc chống loạn thần 
Thuốc chống nôn (như metoclopramid) 
No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 3 
mirtazapin và clonidin. Tuy nhiên, tuy 
nhiên hiệu quả xử trí còn dao động và 
ít được hỗ trợ bởi các bằng chứng tin 
cậy. 
Run 
Run (tremor) do thuốc có thể là run 
tư thế, vận động hoặc cả hai. Phản 
ứng này thường đối xứng và xảy ra 
cấp tính sau khi dùng thuốc hoặc tăng 
liều. Một trường hợp ngoại lệ là run 
thứ phát do valproat, có thể xảy ra 
trong giai đoạn điều trị ổn định hoặc 
xuất hiện muộn (hiếm gặp). Nhiều 
thuốc có thể gây run thứ cấp, bao gồm 
SSRI, lithi, thuốc chống trầm cảm ba 
vòng, thuốc chống động kinh (đặc biệt 
là valproat), thuốc giãn phế quản, 
amiodaron và thuốc ức chế miễn dịch. 
Cần chẩn đoán loại trừ các nguyên 
nhân gây run khác như bệnh 
Parkinson, run vô căn hoặc cường 
giáp. 
Các biện pháp xử trí run bao gồm 
hiệu chỉnh liều dùng hoặc ngừng thuốc 
nghi ngờ (nếu có thể), hoặc chuyển 
sang dùng thuốc thay thế. Nếu cần 
tiếp tục sử dụng thuốc nghi ngờ gây 
run, cần tư vấn kỹ cho bệnh nhân về 
lợi ích và nguy cơ khi dùng thuốc; 
đồng thời, có thể cân nhắc dùng các 
thuốc điều trị run vô căn (như 
propanolol). 
Hội chứng serotonin 
Hội chứng serotonin (serotonine 
syndrome) thứ cấp xuất hiện khi sử 
dụng các thuốc làm tăng hoạt tính 
serotonin (bảng 1). Tương tự các hội 
chứng an thần kinh ác tính khác, hội 
chứng seretonin có thể xảy ra với mức 
độ nhẹ hoặc thậm chí đe dọa tính 
mạng. Các biểu hiện lâm sàng của hội 
chứng này bao gồm: 
- Thay đổi trạng thái tâm thần; 
- Các dấu hiệu quá kích thích thần 
kinh trung ương: 
+ Rối loạn vận động, bao gồm rung 
giật cơ, run, nằm ngồi không yên; 
+ Tăng phản xạ bất thường, rung 
giật, liệt cứng (spasticity) hoặc cứng 
đờ (rigidity), co giật. 
- Rối loạn thần kinh thực vật, bao 
gồm giãn đồng tử, sốt, nhịp tim nhanh. 
Thay đổi trạng thái tâm thần, rối 
loạn thần kinh thực vật, và liệt cứng 
hoặc cứng đờ kèm theo tăng creatin 
kinase là các dấu hiệu chồng lấp với 
hội chứng an thần kinh ác tính. Với hội 
chứng serotonin, quá trình khởi phát 
thường xảy ra rất nhanh, trong vòng 
vài giờ thay vì vài ngày, và các dấu 
hiệu quá kích thích thần kinh trung 
ương thường nổi bật hơn. 
Xử trí: 
Biện pháp xử trí ưu tiên bao gồm 
ngừng thuốc nghi ngờ và chăm sóc hỗ 
trợ. Trong trường hợp hội chứng 
serotonin xảy ra ở mức độ ít nghiêm 
trọng, có thể dùng cyproheptadin, nếu 
có đáp ứng lâm sàng thì tiếp tục sử 
dụng đến khi các triệu chứng thuyên 
giảm. Với trường hợp nặng, có thể sử 
dụng các thuốc như benzodiazepin, 
thuốc đối kháng thụ thể 5 -
hydroxytryptamin 2 (như clorpromazin 
hoặc olanzapin). 
Rối loạn tăng cao thân nhiệt 
kiểu Parkinson 
Rối loạn tăng cao thân nhiệt kiểu 
Parkinson (Parkinsonism-hyperpyrexia 
disorder), còn gọi là cơn bất động, là 
một biến chứng hiếm gặp nhưng có 
thể gây tử vong của bệnh Parkinson. 
Các triệu chứng bao gồm diễn biến 
nặng lên của hội chứng Parkinson (có 
thể kèm theo bệnh não), tăng cao thân 
nhiệt, rối loạn thần kinh thực vật và 
tăng creatin kinase. Rối loạn này 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 
thường gặp nhất ở bệnh nhân ngừng 
hoặc giảm liều thuốc điều trị 
Parkinson. Nhiễm khuẩn hoặc các rối 
loạn chuyển hóa khác có thể thúc đẩy 
khởi phát tình trạng này. Các biểu 
hiện lâm sàng của rối loạn này có thể 
chồng lấp với hội chứng an thần kinh 
ác tính. Cần chẩn đoán loại trừ các 
nguyên nhân khác như nhiễm khuẩn, 
các bất thường chuyển hóa, hoặc đột 
quỵ. Thời gian hồi phục có thể kéo dài 
từ vài giờ đến vài tuần sau khi xử trí. 
Xử trí: 
Biện pháp xử trí chính bao gồm sử 
dụng lại thuốc điều trị Parkinson. Do 
chứng khó nuốt thường xuất hiện trên 
bệnh nhân mắc hội chứng Parkinson 
nghiêm trọng, thuốc thường phải sử 
dụng qua sonde dạ dày. Có thể cân 
nhắc tiêm ngắt quãng hoặc truyền liên 
tục apomorphin trong trường hợp 
phản ứng ở mức độ trung bình hoặc 
nặng. 
Loạn trương lực cơ cấp tính 
Loạn trương lực cơ cấp tính (acute 
dystonic reactions) chủ yếu xảy ra ở 
bệnh nhân trẻ tuổi và xuất hiện sớm 
sau khi dùng thuốc ức chế thụ thể 
dopamin, trong đó có thuốc chống 
nôn (như metoclopramid, proclop-
erazin) và thuốc chống loạn thần. Đặc 
trưng của rối loạn này là co cứng cơ 
đầu cổ cấp tính, ngoài ra có thể xuất 
hiện cơn vận nhãn, tình trạng co cứng 
thân dẫn đến tư thế ưỡn cong, rối 
loạn trương lực cơ chân tay. Loạn 
trương lực cơ thanh quản cấp tính có 
thể dẫn đến tắc nghẽn đường hô hấp, 
đe dọa tính mạng và cần cấp cứu 
ngay lập tức. 
Xử trí: 
Ngừng thuốc nghi ngờ, tiêm tĩnh 
mạch hoặc tiêm bắp thuốc kháng 
chol inergic (benzatropin hoặc 
trihexyphenidyl hydroclorid). Do thuốc 
dùng đường tiêm tĩnh mạch có thời 
gian bán thải ngắn, cần dùng thêm 
một đợt điều trị ngắn thuốc kháng 
cholinergic đường uống sau đó. Các 
benzodiazepin cũng có thể được sử 
dụng. Không tái sử dụng thuốc nghi 
ngờ vì nguy cơ tái phát phản ứng loạn 
trương lực cơ. Cần tư vấn để bệnh 
nhân biết về nguy cơ này. 
Hội chứng an thần kinh ác tính 
Hội chứng an thần kinh ác tính 
(neuroleptic malignant syndrome) là 
phản ứng có hại có khả năng đe dọa 
tính mạng, gây ra do thuốc chống loạn 
thần điển hình và không điển hình 
cũng như các thuốc kháng thụ thể 
dopamin khác, bao gồm tetrabenazin, 
lithi và thuốc chống nôn như 
metoclopramid. Gần đây, tiêu chuẩn 
chẩn đoán dựa trên đồng thuận Delphi 
đã được đưa ra, bao gồm: 
 Dùng thuốc đối kháng thụ thể 
dopamin hoặc ngừng dùng 
thuốc chủ vận thụ thể dopamin 
trong vòng 72 giờ trước đó; 
 Sốt (ít nhất 2 đợt sốt trên 38oC); 
 Cứng đờ; 
 Thay đổi trạng thái tâm thần; 
 Tăng creatin kinase; 
 Rối loạn thần kinh thực vật (bao 
gồm tăng chuyển hóa: Nhịp tim 
nhanh, nhịp thở nhanh); 
 Loại trừ nguyên nhân khác. 
Ngoài tăng creatin kinase, xét 
nghiệm cũng cho thấy tăng bạch cầu, 
rối loạn điện giải, suy thận, xét 
nghiệm chức năng gan bất thường và 
rối loạn đông máu. Hội chứng cũng có 
thể xảy ra ở mức độ nhẹ hơn và 
không có các biểu hiện lâm sàng trên. 
No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 5 
Cần có các bác sĩ chuyên khoa 
đánh giá để chẩn đoán phân biệt (như 
hội chứng serotonin) và chẩn đoán xác 
định. Ví dụ, hội chứng serotonin 
thường khởi phát cấp tính hơn hội 
chứng an thần kinh ác tính. Trong hội 
chứng an thần kinh ác tính, bệnh nhân 
thường bị cứng đờ; còn rung giật cơ, 
tăng phản xạ bất thường kèm giật 
rung, và giãn đồng tử thường gặp hơn 
ở hội chứng serotonin. 
Xử trí: 
Bệnh nhân cần nhập viện điều trị 
ngay nếu nghi ngờ gặp hội chứng an 
thần kinh ác tính. Biện pháp xử trí bao 
gồm gồm ngừng ngay thuốc nghi ngờ, 
chăm sóc hỗ trợ (có thể chăm sóc tích 
cực trong trường hợp nặng), dùng 
thuốc tác dụng trên hệ dopaminergic 
như bromocriptin. Có thể tiêm dưới da 
apomorphin. Có thể sử dụng benzodi-
azepin để giảm tình trạng tiêu cơ vân 
và cải thiện tình trạng cứng đờ. 
Hội chứng thường đạt trạng thái ổn 
định sau đó cải thiện trong vòng 2-3 
tuần sau khi khởi phát. Do đó, cần 
tiếp tục sử dụng bromocriptin trong 
vài tuần để chắc chắn hội chứng đã 
hồi phục. Cần tham khảo ý kiến bác sĩ 
chuyên khoa tâm thần khi xem xét tái 
sử dụng thuốc chống loạn thần cho 
bệnh nhân. 
CÁC RỐI LOẠN BÁN CẤP TÍNH 
Rối loạn bán cấp tính do thuốc có 
thể xảy ra trong vài ngày đến vài tuần 
sau khi sử dụng thuốc. Một số hội 
chứng được liệt kê ở bảng 1 có thể 
xảy ra bán cấp tính. Các rối loạn này 
thường có đáp ứng khi ngừng thuốc 
nghi ngờ. 
Hội chứng Parkinson 
Hội chứng Parkinson do thuốc 
(parkinsonism) đặc trưng bởi vận 
động chậm, cứng đờ và rối loạn tư 
thế. Thuốc là nguyên nhân phổ biến 
thứ 2 gây ra hội chứng Parkinson sau 
bệnh Parkinson tự phát. Một số thuốc 
liên quan đến hội chứng Parkinson 
được liệt kê trong bảng 1. 
Khác với bệnh Parkinson tự phát, 
hội chứng Parkinson do thuốc thường 
có biểu hiện cứng đờ mất vận động có 
tính chất đối xứng, khởi phát sau khi 
sử dụng thuốc vài ngày, vài tuần hoặc 
vài tháng. Hội chứng này đáp ứng 
kém với thuốc điều trị Parkinson điển 
hình (như levodopa, thuốc chủ vận thụ 
thể dopamin và thuốc kháng 
cholinergic). Việc ngừng thuốc nghi 
ngờ thường giúp các triệu chứng hồi 
phục hoàn toàn. 
Một số độc chất cũng có thể gây ra 
hội chứng Parkinson, bao gồm 
1 - m e t h y l - 4 - p h e n y l - 1 , 2 , 3 , 6 -
tetrahydropyridin (MPTP), thuốc trừ 
sâu phospho hữu cơ, mangan, 
methanol, cyanid, carbon monoxid, 
carbon disulfit. Khác với thuốc, các 
độc tố thường phá hủy cấu trúc hạch 
nền không hồi phục, có thể quan sát 
được trên kết quả chụp cộng hưởng từ 
(MRI). 
Rối loạn vận động do levodopa 
Levodopa là nguyên nhân phổ biến 
g â y r ố i l o ạ n v ậ n đ ộ n g 
(levodopa-induced dyskinesia) ở bệnh 
nhân Parkinson. Cơ chế của rối loạn 
này nhiều khả năng do tương quan 
giữa giảm số lượng thụ thể dopamin 
và đáp ứng của cơ thể đối với 
levodopa, hơn là chỉ do quá liều 
levodopa. Các yếu tố nguy cơ của rối 
loạn vận động bao gồm khởi phát 
bệnh Parkinson khi còn trẻ, dùng 
levodopa liều cao, cân nặng thấp, tình 
trạng bệnh nặng. Khai thác chi tiết 
tiền sử giúp xác định thời điểm khởi 
phát và khoảng thời gian xảy ra rối 
loạn vận động, từ đó làm căn cứ để 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
6 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 
hiệu chỉnh liều levodopa. 
Tùy thuộc thời gian xảy ra rối loạn 
vận động, thường có thể giảm liều 
dùng levodopa mà vẫn đảm bảo hiệu 
quả điều trị. Với rối loạn vận động 
nhẹ, không gây khó chịu cho bệnh 
nhân và không ảnh hưởng đến các 
chức năng của cơ thể, có thể không 
cần hiệu chỉnh liều levodopa. Có thể 
sử dụng amantadin để kiểm soát rối 
loạn vận động do levodopa. Với bệnh 
nhân ở giai đoạn sau của bệnh, cần 
chuyển bệnh nhân đến bác sĩ chuyên 
khoa để xem xét việc ... ”, accessed on 8/10/2019. 
4. EMA (2019), “Sartan medicines: 
companies to review manufacturing 
processes to avoid presence of 
nitrosamine impurities”, accessed on 
08/10/2019. 
5. Cục Quản lý Dược, Công văn số 16813/
QLD-CL về việc về việc phát hiện thuốc 
chứa Ranitidine có chứa tạp chất NDMA 
vượt giới hạn cho phép, 16814/QLD-CL 
về việc về việc thu hồi thuốc chứa 
Ranitidine có chứa tạp chất NDMA vượt 
giới hạn cho phép, ngày 02/10/2019. 
6. FDA (2019), “FDA announces voluntary 
recall of Sandoz ranitidine capsules 
following detection of an impurity”, dated 
24/9/2019. 
7. Health Canada (2019), “Health Canada 
requests that companies stop distributing 
ranitidine drugs in Canada while it 
assesses NDMA; additional products 
being recalled”, dated 26/9/2019. 
8. EMA (2018), “EMA reviewing medicines 
containing valsartan from Zhejiang 
Huahai following detection of an 
impurity: some valsartan medicines being 
recalled across the EU”, dated 
05/07/2018. 
9. HSA (2019), “HSA Stops Supply of Eight 
Brands of Ranitidine Products in 
Singapore”, accessed on 08/10/2019. 
10. TGA (2019), “Ranitidin -Update- 
c o n t a m i n a t i o n w i t h 
N-ni t rosod imethy lamine” , dated 
22/10/2019. 
TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC 
(tõ th¸ng 11/2018 ®Õn th¸ng 7/2019) 
Trần Ngân Hà 
Trong 9 tháng (từ tháng 11/2018 đến hết 
tháng 7/2019), Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí 
Minh đã tiếp nhận 9375 báo cáo ADR (tăng 
5,4% so với cùng kỳ năm 2018). Trong đó, 
8337 báo cáo ADR được gửi từ các cơ sở 
khám, chữa bệnh và 1087 báo cáo ADR xảy 
ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn vị sản 
xuất, kinh doanh dược phẩm (trong đó có 49 
báo cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, 
chữa bệnh). Số lượng báo cáo ADR luỹ tiến 
theo tháng được thể hiện trong hình 1. Số 
lượng báo cáo ADR tương đối đồng đều giữa 
các tháng, trong đó số lượng báo cáo thấp 
nhất vào tháng 2 (713 báo cáo) và nhiều nhất 
vào tháng 4 (1257 báo cáo). 
Báo cáo ADR từ các cơ sở khám, chữa 
bệnh 
759 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của 63 
tỉnh, thành phố trong cả nước đã gửi báo cáo 
ADR. Phần lớn báo cáo được gửi từ các đơn vị 
ở vùng Đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung Bộ 
và Duyên hải miền Trung; và Đông Nam Bộ, 
từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa 
khoa và bệnh viện thuộc khối công lập (hình 
2). Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh và Hà 
Nội có số lượng báo cáo cao nhất (tương ứng 
18,0% và 17,5% tổng số báo cáo nhận được 
của cả nước). Thành phố Đà Nẵng là địa 
phương có công tác báo cáo ADR hiệu quả 
nhất với số báo cáo/1 triệu dân cao nhất 
trong cả nước (456,2 báo cáo/1 triệu dân) 
(hình 3). Các đơn vị có số lượng báo cáo ADR 
cao tập trung tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. 
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện 
Phổi Trung ương là hai đơn vị có số báo cáo 
ADR nhiều nhất trong cả nước, cùng chiếm 
2,6% tổng số báo cáo ADR từ các đơn vị 
khám, chữa bệnh (bảng 1). 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
12 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 
S
ố
 l
ư
ợ
n
g
 b
á
o
 c
á
o
 A
D
R
Tháng 
Hình 1: Số lượng báo cáo ADR từ tháng 11/2018 đến tháng 7/2019 
Hình 2: Phân loại báo cáo ADR theo vị trí địa lý, tuyến và loại hình đơn vị 
No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 13 
Cán bộ y tế tham gia gửi báo cáo chủ yếu 
là dược sĩ (46,3%), bác sĩ - y sĩ (23,9%) và 
tiếp theo là điều dưỡng và nữ hộ sinh 
(21,9%) (hình 4). 
S
ố
 l
ư
ợ
n
g
 b
á
o
 c
á
o
 A
D
R
/1
 t
ri
ệu
 d
â
n
* Dân số tính theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Thống kê năm 2018 
Hình 3: 10 tỉnh/thành phố gửi báo cáo ADR nhiều nhất 
Bảng 1: Danh sách 10 cơ sở khám, chữa bệnh gửi báo cáo ADR nhiều nhất 
STT Đơn vị gửi báo cáo 
Tỉnh/ 
thành phố 
Số báo 
cáo 
Tỷ lệ % 
(n=8337) 
1 Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch TP. Hồ Chí Minh 214 2,6 
2 Bệnh viện Phổi Trung ương Hà Nội 213 2,6 
3 Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội 206 2,5 
4 Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Nghệ An Nghệ An 174 2,1 
5 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City Hà Nội 156 1,9 
6 Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí Quảng Ninh 149 1,8 
7 Bệnh viện Quốc tế Vinh Nghệ An 143 1,7 
8 Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng Đà Nẵng 135 1,6 
9 Bệnh viện Từ Dũ TP. Hồ Chí Minh 129 1,5 
10 Bệnh viện Phụ Sản MêKông TP. Hồ Chí Minh 121 1,5 
Hình 4: Nhân viên y tế gửi báo cáo ADR 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 
Trong số 8337 báo cáo, có 42 báo cáo về 
chất lượng thuốc và 01 báo cáo loại khác. Vì 
vậy, thông tin về thuốc nghi ngờ được thống 
kê trên 8295 báo cáo. Tổng số thuốc nghi 
ngờ được báo cáo là 10179 thuốc (tương ứng 
tỷ lệ 1,22 thuốc/1 báo cáo). Phản ứng có hại 
xảy ra chủ yếu khi sử dụng thuốc theo đường 
tiêm/truyền tĩnh mạch (48,6%). Các thuốc 
nghi ngờ gây ADR được báo cáo thuộc 3 
nhóm chính: kháng sinh (cefotaxim, 
ceftriaxon, ciprofloxacin, ceftazidim, ampicilin/
chất ức chế betalactamase, vancomycin và 
levofloxacin), các thuốc điều trị lao 
(r i fampic in/ isoniazid/pyrazinamid và 
ethambutol), và thuốc giảm đau, chống viêm 
(diclofenac). Cefotaxim vẫn là thuốc nghi ngờ 
gây ra ADR được báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 
8,9% (bảng 2). 
STT Hoạt chất Số lượng Tỷ lệ % (n=8295) 
1 Cefotaxim 737 8,9 
2 Diclofenac 547 6,6 
3 Ceftriaxon 497 6,0 
4 Ciprofloxacin 438 5,3 
5 Rifampicin/isoniazid/pyrazinamid 392 4,7 
6 Ethambutol 365 4,4 
7 Ceftazidim 275 3,3 
8 Ampicilin/chất ức chế men betalactamase 272 3,3 
9 Vancomycin 234 2,8 
10 Levofloxacin 212 2,6 
Bảng 2: Danh sách 10 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất 
Báo cáo ADR từ các đơn vị sản xuất, 
kinh doanh dược phẩm 
Trong giai đoạn từ tháng 11/2018 đến 
tháng 7/2019, 32 đơn vị sản xuất và kinh 
doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR và 38 
đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã 
gửi báo cáo tổng hợp định kỳ về Trung tâm DI 
& ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu 
vực TP. Hồ Chí Minh. 
Tổng số báo cáo ADR xảy ra tại Việt Nam đã 
được các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược 
phẩm ghi nhận là 1087 báo cáo, trong đó có 496 
báo cáo nghiêm trọng (chiếm 45,6%). Các chế 
phẩm đang được lưu hành trên thị trường được 
báo cáo nhiều nhất bao gồm erlotinib (11,8%), 
sorafenib (8,2%), dung dịch thẩm phân màng 
bụng (6,3%) và imatinib (5,1%). 
Báo cáo SAE từ các nghiên cứu thử 
nghiệm lâm sàng 
Từ tháng 11/2018 đến hết tháng 7/2019, 
Trung tâm DI & ADR Quốc gia đã nhận được 
1426 báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng (SAE) 
trong 70 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được 
gửi đến từ 47 tổ chức nhận thử tại Việt Nam. 
Kết luận 
Như vậy, số lượng báo cáo ADR trong 
khoảng thời gian 9 tháng (từ tháng 11/2018 
đến tháng 7/2019) vẫn có xu hướng tăng so 
với cùng kỳ năm 2018, tuy nhiên cơ cấu báo 
cáo ADR vẫn tương tự so với giai đoạn trước 
đó. Cụ thể, số lượng báo cáo không đồng đều 
giữa các địa phương, khu vực và các tuyến 
bệnh viện; dược sĩ là đối tượng chính tham 
gia báo cáo ADR. Bên cạnh việc báo cáo ADR 
của các thuốc được sử dụng nhiều (thuốc 
kháng sinh, thuốc điều trị lao, thuốc giảm 
đau, chống viêm) và các phản ứng có hại 
thông thường (dị ứng ngoài da, phản ứng 
phản vệ/sốc phản vệ), cán bộ y tế cần tập 
trung báo cáo phản ứng có hại của các thuốc 
mới được sử dụng tại đơn vị, phản ứng có hại 
mới chưa được ghi nhận và các phản ứng có 
hại cần xét nghiệm cận lâm sàng hoặc thăm 
dò chức năng chuyên biệt. 
Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân 
trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và 
cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và 
mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp 
để triển khai hiệu quả hoạt động giám sát 
ADR. 
No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 15 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC 
Nguyễn Thị Tuyến, Lương Anh Tùng 
Các biện pháp mới dự phòng nguy 
cơ tử vong do sai sót về liều dùng 
methotrexat trong điều trị các bệnh lý 
viêm: Khuyến cáo từ EMA 
Ngày 23/8/2019, Cơ quan Quản lý Dược 
phẩm châu Âu (EMA) khuyến cáo áp dụng 
các biện pháp mới để dự phòng sai sót 
nghiêm trọng, có thể gây tử vong, liên 
quan đến liều dùng methotrexat trong điều 
trị các bệnh lý viêm như viêm khớp dạng 
thấp, vảy nến và bệnh Crohn. Các khuyến 
cáo được ra dựa trên kết quả rà soát các 
báo cáo về việc bệnh nhân sử dụng 
methotrexat không đúng cách, mặc dù đã 
thực hiện các biện pháp dự phòng sai sót 
trước đó. 
Đối với bệnh lý viêm, methotrexat cần 
được sử dụng 1 lần/tuần. Việc sử dụng 
thuốc thường xuyên hơn có thể dẫn đến 
các biến cố bất lợi nghiêm trọng. Cuộc rà 
soát của EMA cho thấy sai sót về số lần 
dùng thuốc có thể xảy ra trong tất cả các 
giai đoạn từ khi kê đơn đến khi bệnh nhân 
sử dụng thuốc. 
Các biện pháp dự phòng sai sót mới bao 
gồm giới hạn các cán bộ y tế được phép kê 
đơn methotrexat, bổ sung cảnh báo nổi bật 
hơn trên nhãn thuốc và cung cấp tài liệu 
giáo dục cho bệnh nhân và nhân viên y tế. 
Ngoài ra, để hỗ trợ bệnh nhân dùng thuốc 
1 lần/tuần, các viên thuốc sẽ được đóng 
dạng vỉ thay vì đóng vào lọ. Các biện pháp 
này đã được đồng thuận sau khi tham khảo 
ý kiến một số đại diện cán bộ y tế và bệnh 
nhân. 
Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: 
 Methotrexat điều trị các tình trạng viêm thường chỉ sử dụng 1 lần/tuần. Các phản ứng 
có hại nghiêm trọng, bao gồm tử vong, đã xảy ra khi sử dụng thuốc này thường xuyên 
hơn. 
 Methotrexat chỉ nên được kê đơn bởi bác sĩ có chuyên môn và kinh nghiệm về việc sử 
dụng thuốc này. 
 Cán bộ y tế kê đơn hoặc cấp phát methotrexat để điều trị viêm nên: 
 Đọc kỹ tài liệu giáo dục về việc sử dụng methotrexat đường uống; 
 Đảm bảo tuân thủ Hướng dẫn sử dụng thuốc cập nhật nhất của methotrexat khi 
điều trị các bệnh lý viêm; 
 Hướng dẫn rõ ràng cho người bệnh dùng liều 1 lần/tuần; 
 Kiểm tra cẩn thận để đảm bảo bệnh nhân (hoặc người chăm sóc) đã hiểu được 
thuốc này cần được dùng 1 lần/tuần, và kiểm tra lại điều này mỗi lần kê đơn thuốc 
mới hoặc khi cấp phát thuốc; 
 Tư vấn cho bệnh nhân (hoặc người chăm sóc) về các dấu hiệu quá liều methotrexat 
và hướng dẫn họ tìm kiếm hỗ trợ y tế khẩn cấp trong trường hợp nghi ngờ quá liều. 
Thuốc chống đông đường uống tác 
động trực tiếp và nguy cơ biến cố huyết 
khối tái phát: Cảnh báo từ TGA 
Ngày 26/8/2019, Cơ quan Quản lý các 
Sản phẩm Điều trị Úc (TGA) đã đưa ra cảnh 
báo về các thuốc chống đông đường uống 
tác động trực tiếp (DOAC) và nguy cơ các 
biến cố huyết khối tái phát. Cán bộ y tế được 
khuyến cáo rằng Tờ hướng dẫn sử dụng của 
các thuốc chống đông đường uống tác động 
trực tiếp lưu hành tại Úc sẽ được cập nhật 
thông tin mới về gia tăng nguy cơ biến cố 
huyết khối tái phát ở bệnh nhân mắc hội 
chứng antiphospholipid (APS). 
Các thuốc DOAC lưu hành tại Úc bao gồm 
apixaban (tên thương mại Eliquis), 
dabigatran etexilat (Pradaxa) và rivaroxaban 
(Xarelto). 
Theo kết quả rà soát của EMA, việc sử 
dụng các thuốc DOAC ở bệnh nhân mắc hội 
chứng antiphospholipid có thể liên quan đến 
gia tăng tỷ lệ biến cố huyết khối tái phát so 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 
với việc điều trị bằng thuốc kháng vitamin K. 
Mức độ bằng chứng tăng nguy cơ này khác 
nhau giữa các thuốc, nhưng không có đủ 
bằng chứng cho thấy bất kỳ DOAC nào cũng 
an toàn cho bệnh nhân mắc hội chứng 
antiphospholipid, đặc biệt ở bệnh nhân có 
nguy cơ cao như dương tính với cả 3 loại 
kháng thể lupus anticoagulant, anticardiolipin 
và anti-beta2-glycoprotein I. 
TGA đã rà soát vấn đề an toàn trên và 
đang làm việc với nhà cung cấp để cập nhật 
tờ Hướng dẫn sử dụng của apixaban, 
dabigatran etexilat và rivaroxaban về nguy cơ 
trên. 
Thay đổi tên của các thuốc chứa 
liposom để ngăn ngừa sai sót trong sử 
dụng thuốc: Khuyến cáo từ EMA 
Ngày 31/7/2019, EMA thông báo tất cả các 
cơ sở đăng ký thuốc chứa hệ mang thuốc 
liposom được yêu cầu nộp hồ sơ thay đổi tên 
cho các thuốc này để ngăn ngừa sai sót liên 
quan đến việc sử dụng thuốc. 
Khuyến cáo này do CHMP và Nhóm điều 
phối thuốc sử dụng trên người được phê 
duyệt theo quy trình không tập trung và thừa 
nhận lẫn nhau (CMDh) đưa ra trong cuộc họp 
vào tháng 7/2019. Mục đích của việc thay đổi 
tên nhằm phân biệt rõ chế phẩm có hệ mang 
thuốc liposom hay không. Nguyên nhân do 
hai công thức này có thể có đặc tính phân 
phối và giải phóng thuốc khác nhau, và sai 
sót khi nhầm lẫn hai dạng bào chế trong sử 
dụng thuốc có thể gây tác hại nghiêm trọng 
cho bệnh nhân. 
Cho đến nay, chưa có thống nhất trong 
việc đặt tên các thuốc có công thức bào chế 
chứa hệ mang thuốc liposom hoặc liposome 
PEG hóa (pegylated liposomal). Khi tên các 
thuốc chứa liposom được thay đổi, bệnh nhân 
và cán bộ y tế có thể phân biệt rõ hơn các 
dạng thuốc này so với dạng thuốc quy ước 
không chứa liposom. Đây là vấn đề đặc biệt 
quan trọng khi bệnh viện sử dụng công cụ kê 
đơn và cấp phát thuốc điện tử, các dạng 
thuốc này có thể bị nhầm với dạng thuốc 
không chứa liposom. 
Sau khi ghi nhận một số báo cáo về sai sót 
trong sử dụng thuốc, bao gồm cả trường hợp 
tử vong, và có sự tư vấn của Ủy ban Đánh giá 
Nguy cơ Cảnh giác dược (PRAC), CHMP và 
CMDh đồng thuận đưa ra quy định để giảm 
thiểu nguy cơ nhầm lẫn các thuốc này như 
sau: 
- Trong Tóm tắt đặc tính sản phẩm, thuật 
ngữ “liposomal” hoặc “pegylated liposomal” 
cần được bổ sung sau tên thuốc và trước 
nồng độ. 
- Trong trường hợp thuốc được phê duyệt 
với tên “danh pháp quốc tế (INN) + tên công 
ty/nhãn hiệu”, “liposomal” hoặc “pegylated 
liposomal” được bổ sung giữa INN và tên 
công ty/nhãn hiệu trong Tóm tắt đặc tính sản 
phẩm. 
- Thuật ngữ “hệ phân tán” theo quy ước 
của EDQM, hiện đã bao gồm khái niệm 
liposom, nên được dùng thống nhất trong 
thông tin sản phẩm. 
Chỉ sử dụng chất ly giải vi khuẩn 
đông khô (bacterial lysate) để dự phòng 
nhiễm khuẩn hô hấp tái phát: Khuyến 
cáo từ EMA 
Ngày 28/6/2019, EMA khuyến cáo các 
thuốc chứa bacterial lysate, được cấp phép 
điều trị một số bệnh lý hô hấp, chỉ nên được 
sử dụng để dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp tái 
phát ngoại trừ viêm phổi. Khuyến cáo này 
được đưa ra sau một cuộc rà soát các thuốc 
chứa bacterial lysate. Kết quả rà soát cho 
thấy không có đủ bằng chứng chứng minh 
các thuốc này có hiệu quả trong điều trị 
nhiễm khuẩn hô hấp hoặc dự phòng viêm 
phổi, do đó không nên sử dụng cho các mục 
đích này. 
Trong cuộc rà soát này, Ủy ban các Sản 
phẩm thuốc Sử dụng cho người (CHMP) đã 
cân nhắc kết quả của các nghiên cứu lâm 
sàng, dữ liệu về báo cáo phản ứng có hại của 
thuốc, và khuyến cáo từ một nhóm chuyên 
gia về các bệnh nhiễm trùng. 
Mặc dù dữ liệu còn hạn chế, cuộc rà soát 
này đã chỉ ra một số bằng chứng về hiệu quả 
của thuốc trong dự phòng nhiễm khuẩn hô 
hấp tái phát và dữ liệu an toàn phù hợp với y 
văn. Do đó, CHMP khuyến cáo có thể tiếp tục 
sử dụng các thuốc này để dự phòng, tuy 
nhiên các công ty phải cung cấp thêm dữ liệu 
về an toàn và hiệu quả từ các nghiên cứu lâm 
sàng mới vào năm 2026. Hướng dẫn sử dụng 
của các thuốc này cũng sẽ được cập nhật về 
chỉ định mới này và cảnh báo không sử dụng 
thuốc này để dự phòng viêm phổi. 

File đính kèm:

  • pdfroi_loan_von_dong_do_thuoc.pdf