Bài giảng Quản trị tài chính - Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn (Bản đẹp)

Nội dung

Bài học này trước hết trình bày khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn, sau đó đi vào tìm

hiểu hoạt động quản lý hàng tồn kho, quản lý ngân quỹ, và quản lý khoản phải thu.

Mục tiêu

Sau khi học xong bài học này, sinh viên có thể thực hiện được các việc sau:

 Trình bày được khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn.

 Trình bày được mục đích của việc quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và khoản phải thu.

 Nắm rõ được các mô hình quản lý hàng tồn kho và ý nghĩa của các mô hình đó.

 Nắm rõ được các mô hình quản lý ngân quỹ và ý nghĩa của các mô hình đó.

 Trình bày được mục đích và quy trình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp.

 Trình bày được đặc điểm của chính sách tín dụng thương mại.

pdf 20 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Quản trị tài chính - Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn (Bản đẹp)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Quản trị tài chính - Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn (Bản đẹp)

Bài giảng Quản trị tài chính - Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn (Bản đẹp)
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 173 
BÀI 8 
QUẢN LÝ TÀI SẢN NGẮN HẠN 
Hướng dẫn học 
Doanh nghiệp cần duy trì, sử dụng các tài sản lưu động như tiền mặt, hàng tồn kho, khoản 
phải thu như những yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất – kinh doanh. Mục 
tiêu quan trọng nhất của quản lý vốn và tài sản lưu động là đảm bảo cho quá trình sản xuất –
kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong chương này, 
chúng ta sẽ nghiên cứu những nội dung cơ bản nhất về quản lý tài sản lưu động trong các 
doanh nghiệp. 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Chương 6, sách “Tài chính doanh nghiệp”, PGS.TS Lưu Thị Hương và PGS.TS 
Vũ Duy Hào đồng chủ biên, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, 2013. 
2. Chương 16,17, sách “Giáo trình Tài chính doanh nghiệp”, TS Bùi Văn Vần và 
TS. Vũ Văn Ninh đồng chủ biên, Nxb Tài chính, 2013. 
3. Chương 15,16,17, sách “Quản trị Tài chính doanh nghiệp”, Nguyễn Hải Sản, Nxb 
Thống kê, 2010. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc 
qua email. 
 Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. 
Nội dung 
Bài học này trước hết trình bày khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn, sau đó đi vào tìm 
hiểu hoạt động quản lý hàng tồn kho, quản lý ngân quỹ, và quản lý khoản phải thu. 
Mục tiêu 
Sau khi học xong bài học này, sinh viên có thể thực hiện được các việc sau: 
 Trình bày được khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn. 
 Trình bày được mục đích của việc quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và khoản phải thu. 
 Nắm rõ được các mô hình quản lý hàng tồn kho và ý nghĩa của các mô hình đó. 
 Nắm rõ được các mô hình quản lý ngân quỹ và ý nghĩa của các mô hình đó. 
 Trình bày được mục đích và quy trình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp. 
 Trình bày được đặc điểm của chính sách tín dụng thương mại. 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
174 TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 
Tình huống dẫn nhập 
Công ty Toyota Nhật Bản: Hệ thống quản lý hàng tồn kho “Just In Time” (JIT) 
Những năm 1930, Hãng ô tô Ford (Hoa Kỳ) lần đầu tiên áp dụng hệ thống dây chuyền để lắp ráp 
xe, một dạng sơ khai của phương pháp JIT – cung cấp đúng lúc, kịp thời và chính xác số lượng 
hàng hóa cần thiết kể cả về thời điểm giao hàng và số lượng cần giao. 
Đến những năm 1970, Hãng ô tô Toyota (Nhật Bản) hoàn thiện phương pháp trên và nâng thành 
lý thuyết Just in time. Hãng ô tô Nhật Bản Toyota đã phát triển hệ thống dây chuyền sản xuất của 
Ford, phát huy ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của hai hình thái sản xuất trên. 
JIT phát huy tác dụng hiệu quả trong nhiều nhà máy của Nhật và đến thập niên 80, JIT bắt đầu 
xâm nhập vào Hoa Kỳ. General Electric là một trong những tổ chức đầu tiên ứng dụng JIT. Ngày 
nay, khái niệm JIT ngày càng được chấp nhận và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. 
Phương pháp JIT là gì? Tại sao Toyota lại sử dụng hệ thống này trong quản lý 
hàng tồn kho? Ưu, nhược điểm và điều kiện áp dụng của phương pháp này là gì? 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 175 
8.1. Khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn 
Tài sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử 
dụng hoặc thu hồi dưới hoặc bằng 12 tháng, gồm 
3 loại chính là Tiền, khoản Phải thu ngắn hạn và 
Hàng tồn kho. 
Thứ nhất, tiền, bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi 
ngân hàng không kỳ hạn, vàng, bạc, kim khí, đá quý 
và tiền đang chuyển. Ngoài ra, các khoản đầu tư 
ngắn hạn có thời hạn thu hồi (đáo hạn) không quá 3 
tháng, có khả năng chuyển đổi thành tiền dễ dàng 
(như kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc) được xem xét tương đương với tiền. 
Trong các loại tài sản tại doanh nghiệp, tiền có tính thanh khoản cao nhất, là phương 
tiện thanh toán, đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp. 
Thứ hai, khoản phải thu. Khoản mục này ghi nhận số tiền còn phải thu của khách hàng 
và các đối tượng khác có liên quan hoặc tiền ứng trước cho người bán nhưng chưa 
nhận sản phẩm. Khi khoản phải thu được thu hồi, ngân quỹ của doanh nghiệp được 
bổ sung. Như vậy, hình thái tồn tại của 2 khoản mục Tiền và Phải thu có thể chuyển 
hóa trực tiếp cho nhau nên hoạt động quản lý khoản phải thu và quản lý tiền có mối 
liên hệ mật thiết, đòi hỏi sự chú trọng đúng mức để đảm bảo khả năng thanh toán của 
doanh nghiệp. 
Thứ ba, hàng tồn kho. Mặc dù tên gọi là “Hàng tồn kho” song khoản mục này bao 
gồm toàn bộ giá trị của các loại hiện vật dự trữ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của 
doanh nghiệp, gồm Hàng mua đi đường, Nguyên liệu, vật liệu, Công cụ, dụng cụ, 
Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang, Thành phẩm, Hàng hoá, Hàng gửi đi bán, Hàng 
hoá kho bảo thuế (hàng hoá được lưu giữ trong kho chưa phải tính và nộp thuế nhập 
khẩu và các loại thuế liên quan, thường áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài). 
Tại sao phải quản lý tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn là gì? 
Có thể hiểu: “Quản lý tài sản ngắn hạn là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành 
và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất 
định”. Quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp là công việc quan trọng, cần thực 
hiện nghiêm túc, khoa học. Quá trình này bao gồm 1 loạt các quyết định từ khi có ý 
tưởng hình thành tài sản cho tới lúc loại bỏ và thay thế bằng một tài sản khác, thay vì 
chỉ tập trung vận hành, nâng cao hiệu quả sử dụng như một số quan niệm cũ. 
Tại sao phải quản lý tài sản ngắn hạn? 
Đánh đổi giữa thanh khoản, hay khả năng đáp ứng nhu cầu hàng hóa và lợi nhuận. 
8.2. Quản lý hàng tồn kho 
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh, việc 
tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ (tồn kho) là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động 
bình thường của doanh nghiệp. 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
176 TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 
8.2.1. Phân loại hàng tồn kho 
Có 2 cách phân loại hàng tồn kho: Phân chia theo hình thức vật lý và phân chia theo 
giá trị đầu tư vốn vào chúng. 
 Phân chia theo hình thức vật lý: gắn liền với các giai đoạn của quá trình sản xuất, 
thành tồn kho nguyên liệu, tồn kho sản phẩm dở dang và tồn kho thành phẩm. 
 Phân chia theo giá trị đầu tư vốn vào chúng: Giả 
sử chúng ta chia tồn kho thành 03 nhóm A, B và 
C. Về mặt số lượng, nhóm A chiếm 15%, nhóm 
B chiếm 30% và nhóm C chiếm 55%, nhưng về 
mặt giá trị nhóm A chiếm 70%, trong khi nhóm 
B và nhóm C lần lượt chỉ chiếm 20% và 10%. 
Điều này cho thấy nhóm A chiếm tỷ trọng cao 
nhất về mặt giá trị, hay nói cách khác đi nhóm A là nhóm tồn kho đắt tiền hơn nên 
cần được kiểm tra thường xuyên hơn. Cách kiểm soát tồn kho kiểu này gọi là 
phương pháp kiểm soát tồn kho ABC. Cách chia tồn kho theo giá trị nhằm tập 
trung sự chú ý và quản lý vào những loại tồn kho nào có giá trị cao nhất hoặc dễ 
thất thoát nhất. 
8.2.2. Lợi ích và bất lợi của việc giữ hàng tồn kho 
Nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá 
ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. 
Lợi ích: 
 Giúp công ty chủ động hơn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 
 Tồn kho nguyên vật liệu giúp công ty chủ động trong sản xuất. 
 Tồn kho sản phẩm dở dang giúp cho quá trình sản xuất của công ty được linh hoạt 
và liên tục, giai đoạn sản xuất sau không phải chờ đợi giai đoạn sản xuất trước. 
 Tồn kho thành phẩm giúp chủ động trong việc hoạch định sản xuất, tiếp thị và tiêu 
thụ sản phẩm nhằm khai thác và thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường. 
Bất lợi: 
 Làm phát sinh chi phí liên quan đến tồn kho như chi phí kho bãi, bảo quản và cả 
chi phí cơ hội do vốn kẹt vào hàng tồn kho. 
 Quản trị tồn kho cần lưu ý xem xét sự đánh đổi giữa lợi ích và phí tổn của việc duy 
trì tồn kho. 
8.2.3. Xác định quy mô đặt hàng tối ưu bằng mô hình EOQ 
Sau khi xác định tổng nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu trong kỳ, nhà quản lý cần cân 
nhắc lượng hàng hóa đặt mua mỗi lần (ký hiệu là Q*). Câu hỏi thường đặt ra là nên 
mua toàn bộ số nguyên vật liệu nói trên trong 1 lần, sử dụng cho cả kỳ hay chia 
nhỏ thành nhiều lần mua hàng. Q* có quan hệ mật thiết với lượng hàng hóa sẽ được 
cất trữ trong kho. Q* là lượng hàng hóa có thể dung hòa giữa lợi ích và thiệt hại khi 
doanh nghiệp dự trữ nhiều (hoặc ít) hơn nhu cầu sử dụng hiện tại. Dự trữ nhiều 
giúp doanh nghiệp chủ động trong sản xuất từ đó đảm bảo tiến độ bàn giao công trình, 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 177 
ít chịu tác động bởi sự biến động giá cả trên thị trường nguyên vật liệu, tận dụng được 
những lợi thế về quy mô (như chiết khấu bán hàng, chi phí đặt hàng, vận chuyển). 
Tuy nhiên, dự trữ nhiều cũng gia tăng chi phí lưu kho (tiền thuê kho bãi, điện, nước, 
bảo vệ, quản lý kho), vật tư có nguy cơ bị giảm giá trị sử dụng do cất trữ quá lâu, 
đồng thời, doanh nghiệp bị ứ đọng vốn trong hàng tồn kho. Nếu dự trữ ít, doanh 
nghiệp bị tác động theo chiều ngược lại. 
Mô hình EOQ 
Tương tự mục tiêu quản lý tiền mặt, nhà kinh tế học Baumol đã xây dựng mô hình đặt 
hàng hiệu quả (Economic Odering Quantity – EOQ) để xác định lượng hàng hóa tối 
ưu mỗi lần cung ứng. Với giả định lượng vật tư được tiêu dùng rất ổn định, hàng 
hóa mỗi lần mua đều bằng nhau (Q) và luôn được nhà cung cấp đáp ứng đầy đủ 
(không cần dự trữ an toàn) nên mức dự trữ bình quân trong kho của doanh 
nghiệp là Q/2. 
Hàng tồn kho 
Q 
Q/2 
 0 Thời gian 
Theo Baumol, có 2 loại chi phí chủ yếu liên quan tới hoạt động dự trữ của doanh 
nghiệp là chi phí lưu kho và chi phí đặt hàng. 
 Chi phí lưu kho: Bên trên chúng ta giả định chi phí lưu kho cho 1 đơn vị vật tư là 
C1. Giả sử giá của 1 đơn vị nguyên liệu là P, giá trị trung bình của số lượng hàng 
tồn kho là A (= Q/2), như vậy thì chi phí trung bình trong việc lưu kho là AxP. 
Ví dụ, bây giờ Q = 4.065, P = $4,92 thì chi phí lưu kho trung bình sẽ là (4.065/2) × 
4,92 = $10.000. Nếu như chi phí vốn của doanh nghiệp là 10% thì chi phí vốn của 
doanh nghiệp cần $1.000 trong việc bảo quản hàng hóa trong 1 năm, và sẽ phải ghi 
giảm giá hàng tồn kho $100 do lỗi thời và khấu hao. Bây giờ giả sử chi phí bảo 
hiểm là $400, chi phí lưu kho là $900 thì tổng chi phí trong việc lưu kho hàng hóa 
sẽ là 1.000 + 900 + 500 + 100 = $2.500. Chi phí này được tính theo phần trăm của 
giá trị hàng tồn kho là = 2.500/10.000 = 25%. Ký hiệu chi phí này là C. 
Tổng chi phí lưu kho trung bình lúc này sẽ là: TCC = C × A × P = 0,25 × 4,92 × 
4.065/2 = $2.500 
Đặt C × P = C1 thì C1 sẽ là tổng chi phí lưu kho một đơn vị. Trong trường hợp này 
C1 = $1,23. 
Tóm lại, chi phí lưu kho bao gồm những hao phí để dự trữ hàng hóa như chi 
phí bốc xếp, bảo hiểm, thuê kho bãi, điện, nước, hao hụt/mất mát... (được ký 
hiệu C1 cho một đơn vị vật tư). Nếu doanh nghiệp mua càng nhiều hàng hóa, mức 
dự trữ bình quân càng lớn, tổng chi phí lưu kho tăng lên. 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
178 TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 
 Chi phí đặt hàng: Chi phí đặt hàng là tập hợp tất cả những chi phí cho việc mua 
hàng như giao dịch, vận chuyển, quản lý... (ký hiệu C2 cho một lần đặt hàng). 
Trong một phạm vi nhất định về lượng hàng hóa đặt mua, C2 thường không đổi 
nên mua càng nhiều, càng có lợi. Như vậy, Baumol cũng phát hiện quan hệ tỷ lệ 
nghịch giữa hai loại chi phí kể trên. 
Gọi D là tổng lượng vật tư cần sử dụng trong kỳ, số lần cần đặt hàng trong một kỳ 
bằng D/Q. Do đó, tổng chi phí đặt hàng trong kỳ bằng (C2 × D/Q). Vì mức tồn kho 
bình quân bằng Q/2 nên tổng chi phí lưu kho trong kỳ là (C1 x Q/2). Cuối cùng, 
nhà quản lý phải giải bài toán tìm Q để tổng cả 2 loại chi phí trên là nhỏ nhất. 
 Trong ví dụ của chúng ta, cho D = 26.000, C2 = $1.000, thì tổng chi phí đặt hàng 
trung bình sẽ là 26.000/4.065 × $1.000 = $6.396. 
Tổng chi phí dự trữ 
Tổng chi phí dự trữ 
(TIC) 
= Tổng chi phí lưu kho 
(TCC) 
+ Tổng chi phí đặt hàng 
(TOC) 
Hay 
TIC = C1 × Q/2 + C2 × D/Q 
Kết quả 2DC2Q* C1 
Với số liệu như trên thì 2 26.000 1.0002DC2Q* 6.500C1 1, 23
 đơn vị 
Với điểm đặt hàng hiệu quả là 6.500 đơn vị và doanh thu hàng năm là 26.000 đơn 
vị thì công ty sẽ phải đặt hàng 4 lần trong năm. Số lượng đặt hàng trung bình sẽ là 
3.250 đơn vị. Tốc độ sử dụng hàng tuần sẽ là 26.000/52 = 500 đơn vị, tức là cứ sau 
một tuần thì hàng tồn kho giảm đi 500 đơn vị. Giá trị đơn vị thực sự nắm giữ trong 
kho sẽ biến động từ 6.500 xuống 0 trước khi chúng ta đặt hàng mới. 
Chú ý: Từ công thức chúng ta thấy rằng Q* tăng cùng với căn bậc hai của doanh 
thu. Do đó, với sự tăng của doanh thu cho trước thì sẽ dẫn đến một sự tăng ít hơn 
trong việc tăng hàng tồn kho, vì vậy tỷ lệ hàng tồn kho trên doanh thu sẽ giảm khi 
công ty tăng trưởng. Ví dụ, với mức điểm đặt hàng hiệu quả là 6.500 cho doanh 
thu hàng năm là 26.000 đơn vị, thì hàng tồn kho trung bình là 3.250 đơn vị, hay là 
$16.000. Tuy nhiên, nếu doanh thu tăng 100% lên 52.000 đơn vị, điểm đặt hàng tối 
thiểu sẽ chỉ tăng lên 9.159 đơn vị, tức là 41%, và giá trị hàng tồn kho cũng tăng lên 
một tỷ lệ phần trăm tương ứng. Điều này chỉ ra tính lợi ích tăng theo quy mô khi 
chúng ta nắm giữ hàng tồn kho. 
TIC = TCC + TOC = C1 × (Q/2) + F × (D/Q) 
= 1,23 × (6.500/2) + 1.000 × (26.000/6.500) 
= 4.000 + 4.000 = $8.000. 
 TCC = TOC: Điều này đúng cho mọi trường hợp, chứ không chỉ trong trường 
hợp này. 
Chú ý: Ảnh hưởng của lạm phát: Lạm phát sẽ làm giảm giá trị của tiền nhưng 
làm tăng giá trị của hàng hóa, nên làm tăng giá trị hàng tồn kho, giúp cho bù đắp 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 179 
phần chi phí bị khấu hao hay lỗi thời, do đó làm giảm giá trị của C, mà C ở mẫu 
nên làm tăng Q*. Tuy nhiên, lạm phát cũng làm tăng chi phí vốn, do đó đồng thời 
làm tăng C, nên làm giảm Q*. Như vậy không thể biết được lạm phát sẽ ảnh 
hưởng thế nào đến điểm đặt hàng tối ưu. 
Như thế, nếu chi phí lưu trữ lớn, nhà quản lý nên mua vật tư nhiều lần, mỗi lần 
một ít theo nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn. Ngược lại, nếu chi phí đặt hàng cao, 
doanh nghiệp nên tăng số lượng hàng hóa đặt mua mỗi lần, để giảm số lần đặt 
hàng xuống mức thấp nhất. 
Là mô hình được ứng dụng phổ biến song EOQ được xây dựng dựa trên giả thiết 
nhu cầu sử dụng hàng hóa, nguyên vật liệu thay đổi đều đặn theo thời gian và luôn 
có đủ điều kiện để thực hiện các đơn đặt hàng. Điều này chỉ phù hợp với những 
doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh chủ động, ổn định theo kế hoạch, trong một 
thị trường hàng hóa dồi dào và ít có biến động vĩ mô. 
Chú ý: Ảnh hưởng của chiết khấu thương mại. 
Giả sử trong ví dụ trên, nếu doanh nghiệp đặt hàng từ 13.000 sản phẩm trở lên thì 
sẽ được hưởng một khoản chiết khấu thương mại, giảm giá 1% cho một đơn vị sản 
phẩm. Hỏi doanh nghiệp có đặt hàng là 13.000 sản phẩm không. 
Khoản hưởng tiết kiệm từ chiết khấu = 26.000 × 4,92 × 1% = $1.279,2 
Tổng chi phí tồn kho có chiết khấu = (1,23 × 99%) × 13.000/2 + 1.000 × 
26.000/13.000 = $9.915,05 
Tổng chi phí tăng thêm = Tổng chi phí tồn kho có chiết khấu – Tổng chi phí tồn 
kho tối ưu = 9.915,05 – 8.000 = $1.915,05 
Mức ...  kinh doanh của doanh 
nghiệp song theo mô hình Miller – Orr, số dư ngân 
quỹ được phép dao động trong khoảng từ Mmin tới 
Mmax, chỉ khi giá trị này bằng hoặc vượt quá hai 
giới hạn trên, các biện pháp xử lý ngân quỹ mới 
được áp dụng. Điều này rất quan trọng trong thực 
tiễn vì doanh nghiệp không thể luôn hội đủ điều 
kiện để điều chỉnh tồn quỹ về mức tối ưu (độ chênh 
lệch quá nhỏ, chi phí phát sinh lớn hơn lợi ích kinh tế đạt được, hàng hóa trên thị 
trường tài chính không tương thích với nhu cầu...). Để điều chỉnh số dư ngân quỹ về 
M*, có thể sử dụng một số biện pháp sau. 
Tìm kiếm cơ hội đầu tư thặng dư ngân quỹ 
Khi ngân quỹ thặng dư, trước tiên, nhà quản lý xác 
định độ lớn và thời gian dư thừa tạm thời, từ đó lựa 
chọn hình thức đầu tư thích hợp. Mặc dù trong mô 
hình Baumol và Miller – Orr, tiền luôn được giả 
định chuyển đổi qua/lại với chứng khoán thanh 
khoản cao song trên thực tế tùy điều kiện của doanh 
nghiệp và thị trường tài chính, có thể sử dụng các 
phương án khác như giao dịch vàng/ngoại hối, gửi 
tiết kiệm tại ngân hàng, ủy thác đầu tư hay cho vay. 
Mỗi hình thức có ưu, nhược điểm riêng biệt. 
 Đầu tư chứng khoán thanh khoản cao: Vì thặng dư ngân quỹ chỉ diễn ra trong một 
khoảng thời gian nhất định nên độ an toàn (hay khả năng chuyển thành tiền) và 
thời hạn là hai điểm cần lưu ý hơn so với tỷ lệ sinh lời của chứng khoán. Thông 
thường, loại chứng khoán được lựa chọn là tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu 
ngân hàng hoặc thương phiếu của công ty nổi tiếng (có thứ hạng tín nhiệm cao) 
có kỳ hạn ngắn dưới 1 năm. Thủ tục giao dịch nhanh chóng, dễ dàng cùng mức phí 
tương đối thấp so với tỷ lệ sinh lời bình quân cho phép nhà quản lý chủ động 
mua/bán các loại chứng khoán này để hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên trong một 
số trường hợp, các chứng khoán chỉ được bán theo lô thay vì bán riêng lẻ với giá 
trị giao dịch không tương thích hoàn toàn với số tiền thặng dư ngân quỹ. Hoặc 
doanh nghiệp không đủ điều kiện tham gia đầu thầu phát hành chứng khoán lần 
đầu nên phải mua trên thị trường thứ cấp, làm gia tăng chi phí. 
 Giao dịch vàng/ngoại hối: Khi ngân quỹ thặng dư và thị trường vàng/ngoại hối 
biến động theo hướng có lợi, nhà quản lý có thể gia tăng khả năng sinh lời cho 
doanh nghiệp. Thông qua các tài khoản giao dịch trực tuyến, nhận lệnh 24/24 theo 
sự vận động của thị trường thế giới, các nghiệp vụ Arbitrage tiền tệ (kinh doanh 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 187 
dựa trên sự chênh lệch về tỷ giá giữa các đồng tiền) hay mua/bán vàng trên sàn 
giao dịch điện tử (không phải vàng vật chất) có thể diễn ra nhanh chóng. Tuy đây 
là hình thức đầu tư khá chủ động song tiềm ẩn nhiều rủi ro vì nhà quản lý khó 
kiểm soát được tất cả các yếu tố ảnh hưởng giá cả trên thị trường quốc tế. Thêm 
vào đó, nếu quyết định sai lầm dẫn tới thua lỗ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng 
thanh toán của doanh nghiệp trong tương lai vì nguồn tiền đầu tư là thặng dư ngân 
quỹ tạm thời. 
 Gửi tiết kiệm tại ngân hàng: Khác với tài khoản tiền gửi thanh toán, hưởng lãi suất 
không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có tỷ lệ sinh lời cao hơn (thường từ 2 đến 5 lần). 
Do đó, khi số dư tiền cuối kỳ lớn hơn M*, nhà quản trị có thể yêu cầu chính ngân 
hàng đang quản lý tài khoản của doanh nghiệp chuyển phần chênh lệch nói trên 
thành một khoản tiền gửi có kỳ hạn tương ứng với thời gian dư thừa của ngân quỹ. 
Quyết định này được thực hiện dễ dàng với thủ tục nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu kết 
quả dự báo dòng tiền không chính xác hoặc xảy ra sự cố bất ngờ buộc doanh 
nghiệp rút tiền trước hạn, tỷ lệ sinh lời của khoản đầu tư chỉ bằng lãi suất không kỳ 
hạn (dù thời gian gửi tiền sắp kết thúc). Như thế, quyết định đầu tư không còn ý 
nghĩa, thậm chí gây lãng phí nguồn lực. Vì vậy, dù có độ an toàn ổn định, gửi tiết 
kiệm tại ngân hàng là biện pháp kém chủ động hơn so với hai hình thức nêu trên. 
 Ủy thác đầu tư: Với sự phát triển của các tổ 
chức tín dụng, nhà quản lý có thể k ý kết hợp 
đồng ủy thác đầu tư phần thặng dư ngân quỹ 
trong một khoảng thời gian nhất định. Tùy theo 
đặc điểm của từng hình thức ủy thác (có/không 
chỉ định danh mục đầu tư, có/không chia sẽ rủi 
ro giữa hai bên, lãi suất thả nổi/cố định, thời hạn 
ngắn/trung hạn), rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ khác nhau. Thông 
thường, tài sản trong danh mục ủy thác là cổ phiếu, trái phiếu. Hình thức này phù 
hợp với các nhà quản lý không đủ điều kiện (năng lực, thời gian, phương tiện) để 
tự thực hiện đầu tư. Song giống với gửi tiết kiệm, việc rút vốn trước hạn có thể làm 
mất phần lớn tiền lãi, vì thế cần cân nhắc kỹ lưỡng và lựa chọn hình thức phù hợp. 
 Cho vay: Trong các hình thức đầu tư thặng dư ngân quỹ, cho cá nhân, tổ chức khác 
vay là hình thức kém linh hoạt nhất. Trong quá trình cho vay, doanh nghiệp không 
được thu hồi vốn trước hạn, đồng thời, có thể xảy ra tình trạng con nợ chậm trễ 
thanh toán lãi và gốc vay nên khi phát sinh nhu cầu đột xuất về tiền, khả năng 
thanh toán của doanh nghiệp dễ dàng bị ảnh hưởng xấu. Thủ tục cho vay cũng như 
chiết khấu, cầm cố hợp đồng vay tiền phức tạp và mất nhiều thời gian. Để đối phó 
với những tình huống như vậy, cần lựa chọn đối tác tin cậy, phân tích kỹ lưỡng 
năng lực tài chính và phương án sử dụng vốn, đồng thời chuẩn bị nguồn tài trợ dự 
phòng khi cần thiết. Tuy có nhiều nhược điểm song đổi lại, tỷ lệ sinh lời từ việc 
cho vay thường cao hơn tất cả các hình thức đầu tư nêu trên, vì thế, đây vẫn là một 
giải pháp được nhà quản lý quan tâm lựa chọn. 
Tìm kiếm nguồn tài trợ bù đắp thâm hụt 
Khi nguồn thu của doanh nghiệp bị thiếu hụt so với nhu cầu thanh toán, nhà quản lý 
có thể tìm kiếm tài trợ từ các hoạt động tương tự như đầu tư thặng dư ngân quỹ bao 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
188 TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 
gồm bán chứng khoán thanh khoản cao, rút tiết kiệm tại ngân hàng, thu hồi các khoản 
ủy thác đầu tư hoặc đi vay. 
Trong đó, việc bán các chứng khoán thanh khoản cao do doanh nghiệp đang nắm giữ 
được đánh giá là biện pháp hữu hiệu nhất do thủ tục nhanh chóng, đơn giản, chi phí 
giao dịch thấp (so với chi phí khi sử dụng các hình thức còn lại), vẫn thu được tiền lãi 
đầu tư (phụ thuộc vào thời gian nắm giữ). Thêm vào đó, doanh nghiệp hoàn toàn chủ 
động về số lượng và thời điểm bán chứng khoán, không cần sự chấp thuận của bất kỳ 
đối tác nào bên ngoài doanh nghiệp. Để rút tiết kiệm hay thu hồi các khoản ủy thác 
cần thủ tục lâu hơn, trong một số trường hợp phải thương thảo với tổ chức tín dụng. 
Song nhược điểm lớn nhất là nguy cơ mất phần lớn số lãi đầu tư do rút vốn trước hạn. 
Đồng thời, cả ba hình thức bán chứng khoán, rút tiết kiệm, thu hồi vốn ủy thác đều chỉ 
thực hiện được khi doanh nghiệp đã có sẵn những tài sản này và giá trị của chúng 
tương đương với khoản thâm hụt ngân quỹ. Đối với các doanh nghiệp thường xuyên 
có số dư ngân quỹ nhỏ hơn M*, biện pháp nên chọn là đi vay ngắn hạn từ cá nhân, tổ 
chức khác. Mặc dù thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian hơn, phải thỏa mãn các điều 
kiện tín dụng, chịu sự giám sát trong quá trình sử dụng vốn và đặc biệt phải trả lãi vay 
nhưng vay nợ có thể đáp ứng gần như không giới hạn nhu cầu vốn của doanh nghiệp 
(cả quy mô lẫn thời hạn). 
8.4. Quản lý khoản phải thu 
8.4.1. Chính sách tín dụng thương mại 
Để tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ngoài 
các chiến lược về chất lượng sản phẩm, về quảng 
cáo, về giá cả, về dịch vụ giao hàng, và các dịch vụ 
sau khi mua bán như vận chuyển, lắp đặt..., quan hệ 
mua bán chịu, hay còn gọi là tín dụng thương mại, 
là một trong những mắt xích quan trọng tạo ra thắng 
lợi trong hoạt động giao thương của doanh nghiệp. 
Tín dụng thương mại, trên khía cạnh doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng, có thể 
làm doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và kiếm được lợi nhuận hấp dẫn, nhưng 
cũng có thể đem lại nhiều rủi ro cho hoạt động kinh doanh. 
Ưu điểm: 
 Tăng doanh thu bán hàng. Do được trả tiền chậm nên sẽ có nhiều khách hàng đến 
mua hàng hóa của doanh nghiệp hơn, làm cho doanh thu tăng. Đồng thời, khi đó 
doanh nghiệp sẽ quy định mức giá cao hơn đối với người mua hàng vì doanh 
nghiệp bị chậm trễ trong việc trả tiền và tiền có giá trị theo thời gian. 
 Giảm chi phí tồn kho của hàng hóa. 
 Sử dụng tài sản cố định hiệu quả hơn, hạn chế phần nào về hao mòn vô hình. 
Nhược điểm: 
 Có thể làm tăng chi phí cho doanh nghiệp (chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài 
trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ). 
 Rủi ro mất vốn lớn khi người mua không trả tiền (thời hạn cấp tín dụng càng dài 
thì rủi ro càng lớn). 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 189 
8.4.2. Phân tích tín dụng thương mại 
Những tác động trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính sách tín dụng thương 
mại phù hợp, đánh giá được khả năng tín dụng của khách hàng để quyết định có cấp 
tín dụng thương mại hay không, phân tích khoản tín dụng được đề nghị trên khía cạnh 
so sánh thu nhập và chi phí tăng thêm, và lập kế hoạch theo dõi đối với mỗi khoản tín 
dụng được cấp. 
 Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng 
Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng bắt 
đầu bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu 
chuẩn tín dụng hợp lý, sau đó là việc xác minh 
phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng. 
Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp 
với những tiêu chuẩn tối thiểu mà doanh nghiệp 
đưa ra thì tín dụng thương mại có thể được cấp. 
Tuy nhiên, việc thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng của các nhà quản trị tài chính phải 
đạt tới sự cân bằng thích hợp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng đặt ra quá cao sẽ loại bỏ 
nhiều khách hàng tiềm năng và sẽ giảm lợi nhuận, còn nếu tiêu chuẩn được đặt ra 
quá thấp có thể làm tăng doanh thu, nhưng sẽ có nhiều khoản tín dụng có rủi ro 
cao và chi phí thu tiền cũng cao. 
Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng có thể là kiểm tra bảng cân đối 
tài sản, bảng kế hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp, xuống tận nơi để kiểm tra 
tìm hiểu qua các khách hàng khác. 
Khi thực hiện việc phân tích khả năng tín dụng của khách hàng người ta thường 
đánh giá những tiêu chuẩn sau: 
o Phẩm chất, tư cách tín dụng. Tiêu chuẩn này nói lên tinh thần trách nhiệm của 
khách hàng trong việc trả nợ. Điều này cũng chỉ phán đoán trên cơ sở việc 
thanh toán các khoản nợ trước đây đối với doanh nghiệp hoặc đối với các 
doanh nghiệp khác. 
o Năng lực trả nợ. Tiêu chuẩn này được dựa vào hai cơ sở là chỉ tiêu về khả năng 
thanh toán nhanh và bảng dự trữ ngân quỹ của doanh nghiệp.... 
o Vốn của khách hàng. Đây là tiêu chuẩn đánh giá về tiềm năng tài chính 
dài hạn. 
o Thế chấp là xem xét khách hàng dưới giác độ các tài sản riêng mà họ có thể sử 
dụng để đảm bảo cho các khoản nợ. 
o Điều kiện kinh tế, tức là đề cập đến khả năng phát triển của khách hàng, xu thế 
phát triển về ngành nghề kinh doanh của họ.... 
 Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị 
Cũng như rất nhiều sự phân tích lựa chọn khác, việc phân tích đánh giá khoản tín 
dụng thương mại được đề nghị để quyết định có nên cấp hay không được dựa vào 
việc tính NPV của luồng tiền (tham khảo giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” 
chương 6). 
 Theo dõi khoản phải thu 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
190 TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 
Để quản lý các khoản phải thu, nhà quản lý phải biết cách theo dõi các khoản phải 
thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông 
thường người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau: 
o Kỳ thu tiền bình quân: 
Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu tiêu thụ bình quân 1 ngày 
Chẳng hạn, tổng doanh số bán của Công ty A trong tháng 1 là 20 triệu, tháng 2 
là 35 triệu và tháng 3 là 30 triệu đồng. 
Đến ngày 31/3 giá trị hoá đơn bán chịu của tháng 1 là 10% doanh số bán, tháng 
2 là 30% và tháng 3 là 80%. Do vậy đến ngày 31/3 tổng giá trị các khoản phải 
thu là: 0,10 × 20 + 0,30 × 30 + 0,8 × 30 = 35 triệu đồng. 
Doanh thu bình quân ngày là: 85/90 = 0,94 triệu. 
Kỳ thu tiền bình quân là: 35/0,94 = 37 ngày. 
Điều này có nghĩa là phải mất 37 ngày, một đơn vị tiền bán hàng trước đó mới 
được thu hồi. 
Do vậy, khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không 
tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán. 
Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời. 
o Sắp xếp "tuổi" của các khoản phải thu. 
Theo phương pháp này nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời 
gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu nợ khi đến hạn. 
Ví dụ: Sau khi xem xét các khoản phải thu của Công ty B các nhà quản lý đã 
lập được bảng theo dõi các khoản phải thu bằng bảng sau: 
Tuổi của khoản phải thu 
(ngày) 
Tỷ lệ của khoản phải thu so với tổng 
số cấp tín dụng 
0 – 15 32% 
16 – 30 30% 
31 – 45 19% 
46– 60 12% 
61– 75 4% 
71– 90 3% 
o Xác định số dư khoản phải thu. 
Theo phương pháp này, khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi 
yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán. Sử dụng phương pháp này 
doanh nghiệp hoàn toàn có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng nợ 
doanh nghiệp. Cùng với cách theo dõi khác, người quản lý có thể thấy được 
ảnh hưởng của các chính sách tài chính nói chung và chính sách tín dụng 
thương mại nói riêng. 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 191 
Tóm lược cuối bài 
 Tài sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử dụng hoặc thu hồi dưới hoặc bằng 12 tháng. 
Có 3 loại tài sản ngắn hạn chính doanh nghiệp cần quản lý: tiền, phải thu ngắn hạn, hàng tồn 
kho. Quản lý tài sản ngắn hạn là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành và sử dụng tài 
sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. 
 Quản lý hàng tồn kho dựa vào hai mô hình: Mô hình đặt hàng hiệu quả (EOQ) và Mô hình 
đặt hàng đúng lúc. 
 Quản lý ngân quỹ (hay quản lý tiền mặt) có thể dựa vào hai mô hình: Mô hình Baumol và 
Mô hình Miller-Orr, trong đó mô hình Miller-Orr có tính ứng dụng cao hơn đối với nhiều 
doanh nghiệp. 
 Quản lý khoản phải thu cần chú ý đến thiết lập chính sách tín dụng thương mại hiệu quả, hợp 
lý, và thực hiện phân tích tín dụng thương mại của các khách hàng. 
 Bài 8: Quản lý tài sản ngắn hạn 
192 TXNHTC01_Bai8_v1.0015103204 
Câu hỏi ôn tập 
1. Phân tích ưu nhược điểm của việc dự trữ hàng tồn kho, tiền mặt, và khoản phải thu? 
2. So sánh mô hình EOQ và Mô hình cung cấp đúng lúc kịp thời trong quản lý hàng tồn kho? 
3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức tồn kho tối ưu trong mô hình EOQ? 
4. Những yếu tố nào làm ảnh hưởng đến chu kỳ vận động của tiền mặt? 
5. “Doanh nghiệp dự trữ càng nhiều nguyên vật liệu, càng có lợi”, đúng hay sai? 
6. So sánh ưu điểm và nhược điểm của mô hình Baumol và Miller-Orr trong quản trị tiền mặt 
của doanh nghiệp. 
7. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức tiền mặt tối ưu theo mô hình Miller-Orr? 
8. “Doanh nghiệp dự trữ càng ít tiền mặt, càng có lợi”, đúng hay sai? 
9. Bình luận ý kiến: “Để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp nên bán chịu hàng hóa cho tất cả 
mọi khách hàng”. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_quan_tri_tai_chinh_bai_8_quan_ly_tai_san_ngan_han.pdf